C.W. LEADBEATER

 

 

 

NHỮNG VỊ

 

CỨU TRỢ VÔ H̀NH

 

(INVISIBLE  HELPERS)

 

TÔ HIỆP và nhóm dịch thuật KROTONA

 

2006

Lời người dịch  

 

Về tiểu sử và những hoạt động rất tích cực và hữu ích cho sự tiến hóa của nhân loại của đức Giám Mục C.W. Leadbeater đă có nhiều sách vở đề cập đến. Nơi đây, chúng tôi chỉ nói sơ lược giai đoạn sau khi ngài được trực tiếp hướng dẫn bởi Chân Sư Kuthumi và Chân Sư Djwal Kul để phát triển những năng lực siêu nhiên. Ngài đă xử dụng những khả năng ấy để quan sát, nghiên cứu những cơi mà người b́nh thường xem như là vô h́nh. Ngài cũng đă hợp tác chặt chẽ với bà Annie Besant, hội trưởng hội Thông Thiên Học trong công việc nghiên cứu về những hiện tượng và những thực thể ở những cảnh (subplanes) từ thấp lên cao của cơi trung giới (astral plane) và những cơi cao hơn.

 

Trong phạm vi quyển sách nhỏ nầy, ngài diễn tả một số công việc của những vị cứu trợ vô h́nh, trong đó có nhiều hoạt động của những đoàn viên trong nhóm cứu trợ được sự hướng dẫn trực tiếp của ngài. Ngoài những mẩu chuyện ngắn về công việc cứu trợ, chúng ta cũng t́m thấy trong sách một cách tổng quát những giáo lư cao siêu dẫn dắt con người tiến lên những nấc thang thánh thiện.

 

Hiện nay có rất nhiều tài liệu, sách vở và phim ảnh đề cập về cơi trung giới, nhưng chúng tôi thiết nghĩ, những tài liệu do đức Leadbeater để lại rất quí giá và rất đáng tin cậy để chúng ta nghiêm chỉnh học hỏi, nghiên cứu cơi trung giới, nơi mà tất cả chúng ta không sớm th́ muộn đều sẽ phải đến.

 

Mong rằng quyển sách sẽ mang lại lợi ích cho độc giả trong công việc t́m hiểu Minh Triết Thiêng Liêng nói chung và cơi trung giới nói riêng.

 

 

 

Tô Hiệp và nhóm dịch thuật Krotona

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  CHƯƠNG 1

 

 

Niềm tin phổ thông về những vị cứu trợ vô h́nh

 

 

Một trong những đặc điểm tốt đẹp nhất của Thông Thiên Học là đem lại cho con người sự hiểu biết về mọi sự vật một cách hợp lư hơn và giúp cho mọi người hiểu rơ ràng hơn về tôn giáo mà họ đang theo.

 

Nhờ đôi cánh của lư trí và trực giác, nhiều ngựi đă phá vỡ được cái vỏ kén của niềm tin mù quáng để đạt đến một đời sống tinh thần tự do hơn và ở những mức độ cao hơn. Trong tiến tŕnh thành tựu kỳ diệu nầy, họ có thể cảm thấy như là bị mất mát khi họ phải từ bỏ những niềm tin từ thuở thơ ấu đầy thơ mộng đẹp đẽ.

 

Do căn lành của những kiếp trước, những người có cơ hội thấm nhuần những ảnh hưởng tốt lành của Thông Thiên Học, sẽ nhận ra rằng họ không bị mất mát ǵ cả mà trái lại c̣n được nhiều lợi ích. Ánh huy hoàng, vẻ xinh đẹp, mùi thi vị vẫn c̣n và với một phạm vi rộng răi hơn, vượt qua tất cả các ước vọng xưa kia của họ. Đó không phải chỉ là một giấc mơ êm đềm bất cứ lúc nào cũng có thể bị đánh thức một cách thô bạo bởi ánh sáng vô t́nh của thế tục, mà như là những chân lư thiên nhiên sau khi trải qua những nghiên cứu càng trở nên sáng chói, đầy đủ, hoàn hảo và chính xác hơn.

 

Một thí dụ điển h́nh về sự ích lợi của Thông Thiên Học là nó đă đem lại cho đời sống hiện tại sự hiểu biết về thế giới vô h́nh mà xưa kia, trước khi làn sóng duy vật vĩ đại du nhập, đă được biết đến như là nguồn gốc của các sự cứu trợ. Những câu chuyện b́nh dân khả ái trong dân gian như chú lùn, ma quỹ, quỷ giữ của,các thần gió, nước, rừng, núi và thần mỏ, không phải chỉ là những sự mê tín vô nghĩa, mà đằng sau chúng có căn bản thiết thực và khoa học.

 

Thông Thiên Học cũng giải đáp một cách rơ ràng và khoa học về câu hỏi: “khi con người chết rồi sẽ sống trở lại chăng?” Giáo lư Thông Thiên Học nói về bản chất và những trạng thái sau khi chết đă soi sáng những vấn đề mà trước đây đă bị phủ kín trong bóng tối mịt mù, nhất là đối với thế giới Tây Phương. Không cần phải lập đi lập lại rằng những giáo lư đề cập đến linh hồn bất tử và sự sống sau khi chết làm cho Thông Thiên Học tuyệt đối khác với các tôn giáo thông thường. Khi phát biểu những chân lư trọng đại nầy, không phải nó chỉ dựa vào quyền lực của vài quyển thánh thư cổ xưa. Khi luận giải các vấn đề đó, nó đặt căn bản trên những sự kiện vững chắc, chính xác,thực tế và gần gũi với chúng ta như không khí chúng ta thở hay là những ngôi nhà chúng ta ở; những sự kiện mà nhiều người trong chúng tôi đang thường xuyên kinh nghiệm, nó được xem như công việc thường nhật của một số học giả của hội.

 

Tôi, người đang nói với các bạn về những sự việc quen thuộc đối với tôi đă hơn 40 năm, mà hiện nay nó càng hiện thực và quan trọng đối với tôi c̣n hơn vật chất ở cơi trần.

 

Tôi xem như các bạn đă quen thuộc với khái niệm tổng quát của Thông Thiên Học về thế giới bên kia cửa tử, thế giới ấy không xa xôi và về bản chất không khác với thế giới vật chất, mà nó chỉ là sự liên tục của thế giới vật chất, và không bị chướng ngại bởi cơ thể vật chất. Một cuộc sống rất phong phú đối với những người trí thức hoặc những người làm nghệ thuật, nhưng đôi lúc lại rất buồn chán đối với những người kém phát triển về tinh thần, trí thức hay nghệ thuật.

 

Trong cảnh sống ấy, có nhiều người cần được giúp đỡ và chúng ta nên sẵn sàng đóng góp bàn tay vào công việc ấy, bởi v́ có rất nhiều việc cần phải làm và được làm qua những đường lối khác nhau. Sự cứu trợ ấy không phải chỉ thu hẹp trong nhóm người Thông Thiên Học, nhưng chỉ sau khi hội Thông Thiên Học khởi xướng, nó được thực hiện một cách khoa học, có tổ chức. Cần lập lại là những vị cứu trợ không phải đều là hội viên của hội Thông Thiên Học. Phần nhiều những người cứu trợ là những người đă chết. Sau khi phong trào Thông Thiên Học được truyền bá, có thêm nhiều người c̣n sống trong lúc ngủ làm việc trực tiếp nơi cơi trung giới.

 

Phần nhiều những người c̣n sống thường trợ giúp những người đă chết một cách gián tiếp bằng sự cầu nguyện, nhưng đó là việc làm có vẻ mơ hồ bởi v́ họ thường không biết nhiều về những ǵ xảy ra sau khi chết. Những người theo Thiên Chúa giáo luôn luôn cầu nguyện cho người đă ra đi trong niềm tin và sự kính sợ đối với Thượng Đế và sự cầu nguyện như thế chỉ là h́nh thức trống rỗng. Có lẽ sự cầu nguyện như thế không cần thiết v́ không cho kết quả giống như người cầu nguyện nghĩ, Thượng Đế không cần chúng ta bảo ngài phải hành sự như thế nào. Tôi không muốn nói rằng sự cầu nguyện hoàn toàn không có kết quả. Luôn luôn có những thần lực tuôn xuống từ những cơi cao với một sự cố gắng mạnh mẽ từ cơi trí và cơi t́nh cảm. Trong một thế giới được quản trị bởi luật th́ không có một cố gắng nào mà không tạo ra vài kết quả, v́ luật tác động và phản tác động luôn luôn nối kết với nhau và bất cứ một cố gắng nào về phương diện vật chất, t́nh cảm hay trí tuệ đều tạo nên kết quả hay sự phản tác động, và sự cầu nguyện đúng cách sẽ có lợi cho người chết. Những sự cầu nguyện này phóng thích ra một sức mạnh tinh thần giúp ích cho sự phát triển tâm thức của những người được cầu nguyện.

 

Có những người thắc mắc tại sao trước khi Thông Thiên Học tiết lộ về sự hiện tồn của những vị Chân Sư minh triết trong nhóm Bạch Huynh Đệ, các ngài hoặc đệ tử của các ngài không trợ giúp vào công việc ấy sao?  Chúng ta nên hiểu rằng các vị Chân Sư bận lo những công việc cao cả và quan trọng hơn nhiều. Những ư kiến của người đời về tầm mức quan trọng của công việc hoàn toàn không đúng. Chúng ta thường nghĩ rằng những sự kiện nào có liên hệ đến cá nhân của chúng ta phải là quan trọng hàng đầu. Chúng ta không nhận ra rằng những luật tác động đối với sự tuần hoàn của địa cầu được áp dụng cho con người nói chung chớ không phải cho cá nhân, không cho hàng trăm người mà cho hàng ngàn hàng triệu người. Những công việc cứu trợ thường không do những vị Chân Sư trực tiếp làm mà do các đệ tử của các ngài làm.

 

Trước khi Thông Thiên Học công bố những chân lư nầy đến các nước Tây Phương  th́ đa số những học tṛ của những đạo sư đều là người Ấn. Các bạn cũng biết rằng những người theo Ấn Giáo không quan tâm lắm về vấn đề cứu trợ những người đă chết. Họ cũng được dạy một số điều về trạng thái sau khi chết, và họ có quan niệm là hăy để yên cho tâm thức người chết tự xáp nhập vào trạng thái thần linh. Ai Cập giáo cũng có dạy về đời sống bên kia cửa tử, nó chứa đựng những phương pháp truyền lại từ thời châu Atlantic và những tu sĩ của họ không có ư tuởng ǵ là phổ cập. Trong Tử Thư (Book of The Dead) có đề cập đến những phương pháp trợ giúp những người đă chết, nhưng chỉ bằng những h́nh thức đọc tụng kinh kệ.

 

Khi bắt đầu nhận làm công việc cứu trợ vô h́nh, trước tiên người Thông Thiên Học nghĩ rằng họ không nên phung phí thời giờ trong lúc ngủ, kế đó họ nhận thấy rằng với sự hiểu biết dù c̣n ít oi về cơi trung giới người ta cũng có thể góp phần vào công việc đa dạng nầy, v́ thế họ lăn ḿnh vào công việc và làm những ǵ họ có thể làm.

 

Trước khi hội Thông Thiên Học được thành lập, thế giới Tây Phương không biết ǵ đến đời sống sau khi chết. Phái Thông Linh Học có công  bố vài điều về cơi vô h́nh nhưng với những phương pháp rời rạc không thống nhất, không tŕnh bày vấn đề một cách toàn diện. Thông Thiên Học đă áp dụng tinh thần khoa học hiện đại để nghiên cứu vấn đề vô h́nh và sắp đặt sự quan sát có hệ thống mạch lạc. Dĩ nhiên chúng tôi không có ư nói rằng chúng tôi có đặc quyền đặc biệt. Bất cứ người nào có chút hiểu biết cũng đều có thể đạt được những kiến thức về cơi trung  giới như chúng tôi. Chúng tôi hoan nghinh những cá nhân đến với Minh Triết qua những đường lối khác nhau.

 

Đầu tiên khi chúng ta thử làm công việc trong lúc ngủ chúng ta sẽ nhận thấy rằng cả người sống lẫn người chết đều có thể làm công việc cứu trợ bằng những cách thức khác nhau. Tôi dùng danh từ “sống” và “chết” theo quan niệm thông thường, nhưng như vậy chắc sẽ bị phản đối, v́ những người đă chết không ngừng bảo với chúng ta rằng họ thật “sống” hơn là chúng ta. Họ cho rằng chúng ta đang chết, v́ chúng ta đang bị chôn lấp trong nấm mồ của xương, thịt th́ khó mà nhận được những ảnh hưởng từ những cơi cao. Họ chẳng hề hối tiếc hiện tại của họ mà trái lại c̣n tỏ ḷng thương hại đối với chúng ta. Chúng ta sẽ nói về những người đă chết ở phần sau, bây giờ hăy đề cập đến những ǵ chúng ta có thể giúp đỡ cho những ngựi c̣n sống.

 

Hăy nhớ rằng  mỗi đêm khi bạn ngủ, bạn rời bỏ xác thân, rồi bạn sống một cách tự do trong cơi trung giới giống như những người đă chết. Điều khác nhau là bạn có thể trở về lại xác thân bạn vào sáng hôm sau. Bạn có thể gặp những cư dân thường trú ở cơi trung giới và chuyện tṛ với họ y như bạn giao thiệp với bạn bè trong cuộc sống hàng ngày.

 

Trong cơi đó bạn có thể an ủi những người đau khổ; ngay những người đang c̣n sống ở cơi trần cũng có thể được giúp đỡ bởi tư tưởng lành của bạn. Trong lúc họ tỉnh thức, họ không thể nh́n thấy được bạn, muốn cho họ thấy được, bạn phải học cách thức hiện h́nh, nói sơ lược là dùng tư tưởng thu hút những nguyên tố vật chất bao bọc chung quanh thể vía của bạn giống như một lớp màng, cách thức nầy đ̣i hỏi nhiều công phu mới đạt được. Bạn có thể giúp một người nào đó với t́nh thương và ḷng thiện cảm, bằng cách gặp gỡ, nói chuyện với họ, nhưng cách tốt hơn là đợi lúc người ấy ngủ. Khi ấy từ thể vía của bạn, bạn gởi những ḍng tư tưởng êm dịu làm giảm bớt sự căng thẳng thần kinh năo bộ của họ. Bạn cũng có thể làm giảm sự buồn rầu tinh thần của một người bằng cách đưa những tư tưởng an vui vào tâm trí của họ mà không cần dùng lời nói.

 

Bạn có thể làm dịu lại những người đang lo lắng hoặc xúc động. Nhiều người lúc nào cũng ở trong tâm trạng lo lắng, và thường là lo về những vấn đề nhỏ nhặt không đâu, đó là trạng thái của những người bệnh tâm thần, theo quan điểm của những thể cao. C̣n có những người luôn luôn ở trong tâm trạng nghi ngờ đối với mọi sự; đó cũng là h́nh thức của bệnh tâm thần. Đối với những người đó, đôi lúc bạn có thể giúp ích họ rất nhiều bằng cách giảng giải những hiểu biết thông thường của bạn về Thông Thiên Học. Đối với những người tin theo chủ thuyết duy vật, bạn có thể giải thích cho họ rằng một lư thuyết chỉ đặt căn bản vào vật chất và phủ nhận những yếu tố phi vật chất sẽ không có giá trị ǵ, trong cơi trung giới những sự kiện được chứng minh một cách dễ dàng hơn nhiều.

 

Chúng ta cũng có thể giúp cho những người thân bằng cách gởi đến họ những tư tưởng có những tính chất mà họ khiếm khuyết. Nếu bạn của chúng ta có tánh rất nhút nhát và dễ bị kích động, chúng ta có thể thường xuyên gởi đến hắn những tư tưởng can đảm, nghị lực và tự tin. Đối với người đang quạu quọ và tự trách, chúng ta có thể bao bọc hắn trong sự êm dịu và t́nh thương. Những công việc như thế phải được thực hiện rất cẩn thận, luôn luôn làm với tính cách gợi ư nhẹ nhàng, không bao giờ nên có tư tưỏng áp đặt. Thật ra không khó khi từ trên cơi cao ảnh hưởng lên tư tưởng của người khác. Bằng tư tưởng, chúng ta có thể chế ngự một người và bắt hắn phải chấp nhận hành động theo đường lối của chúng ta, nhưng điều nầy hoàn toàn không chấp nhận được trong chánh đạo.

 

Trong số những tư tưởng tốt đẹp mà Thông Thiên Học đă đem lại cho chúng ta, nổi bật hơn hết là sự hiện hữu của những quyền năng cứu trợ. Sự tin tưởng nầy đă được phổ thông khắp thế giới, ngay từ khi nhân loại bắt đầu có lịch sử. Ngày nay nó cũng vẫn c̣n được công nhận ngoại trừ phạm vi hẹp ḥi của Cơ Đốc Giáo. Giáo phái nầy đă làm cho thế giới trở nên trống rỗng và tối tăm đối với những kẻ sùng đạo, với ư định bác bỏ quan niệm thiên nhiên hoàn toàn đúng đắn về các nhân vật trung gian, rồi thu hẹp tất cả chỉ c̣n lại hai thành phần: người và Trời, v́ thế quan niệm về Thượng Đế đă bị suy giảm và con người cảm thấy không c̣n được cứu giúp nữa. B́nh tâm một chút chúng ta sẽ thấy, nếu theo quan điểm thông thường của loài người th́ Thượng Đế, trung tâm lực của vũ trụ, có toàn quyền thưởng phạt một cách bất thường theo mệnh lệnh của riêng ngài, như thế sẽ cho thấy là có sự thiên vị trong kế hoạch tổng quát, và do đó kéo cả một dọc những sự xấu xa theo ngài. Giáo lư Thông Thiên Học cho biết rằng con người chỉ được đặc biệt giúp đỡ khi nào những hành vi trong quá khứ của người ấy tỏ ra xứng đáng, và họ sẽ được cứu trợ bởi những người có tŕnh độ tiến hóa không cao hơn họ bao nhiêu. Thông Thiên Học đem lại cho chúng ta ư niệm cổ xưa vĩ đại về các bậc thang liên tục của mọi sinh vật, bắt đầu từ đấng Thượng Đế xuống đến hạt bụi bé nhỏ.

 

Ở Đông Phương người ta luôn luôn công nhận có những vị cứu trợ vô h́nh, mặc dù tên gọi và đặc tính của các ngài thay đổi khác nhau tùy theo mỗi quốc gia. Tại Âu Châu cũng vậy, các chuyện xưa của Hy Lạp thường có những vị thần xen vào công việc của nhân loại, và theo chuyện cổ tích La Mă th́ Castor và Pollux đă hướng dẫn quân đoàn cộng ḥa trẻ trung trong trận chiến ở hồ Regillus. Một tín ngưỡng như thế không bao giờ bị mất đi theo thời đại cổ điển, v́ những câu chuyện nầy, qua thời trung cổ lại được nối tiếp bằng những sự tích các thần thánh hiện ra trong những lúc có nguy biến và đem lại may mắn cho các đoàn quân Thiên Chúa giáo. Hoặc có khi các vị thần hộ mạng xen vào để cứu một khách lữ hành thành kính được tai qua nạn khỏi.

 

 

 

 

 


CHƯƠNG 2

 

 

Vài trường hợp cứu trợ hiện đại

 

 

Ngay trong thời đại hoài nghi của chúng ta và giữa sự quay cuồng của nền văn minh vật chất thuộc thế kỷ thứ hai mươi, mặc dầu tính chất độc đoán của khoa học và sự lănh đạm tŕ trệ của phái Cơ Đốc tân giáo, bất cứ người nào chịu khó một chút cũng có thể nhận thấy những trường hợp được cứu trợ mà không thể nào giải thích được theo quan điểm duy vật. Muốn chứng minh điều đó với độc gỉả, tôi xin tóm tắt vài câu chuyện lượm lặt từ những sách vở mới viết gần đây. Một đặc tính nổi bậc nhất của những trường hợp mới đây cho thấy sự can thiệp dường như thường hướng về sự giúp đỡ hoặc cứu sống những trẻ con.

 

Một chuyện đáng chú ư đă xăy ra ở Luân Đôn cách đây chỉ vài năm. Trường hợp một em bé được cứu sống trong cuộc hoả hoạn kinh khủng đă xăy ra tại khu phố gần Holborn, thiêu hủy trọn hai căn nhà. Ngọn lửa đă bốc lên nhanh đến nổi các lính cứu hỏa không chữa được đám cháy. Nhưng họ cứu được những người trong nhà, chỉ trừ hai người, một bà lăo bị chết ngộp v́ khói trước khi cứu ra và một em bé vừa năm tuổi bị những người trong nhà bỏ quên trong lúc vội vàng, hốt hoảng.

 

Dường như mẹ của em bé là bạn hay bà con với chủ nhà, đă gởi nó lúc ban đêm, v́ bà bận việc phải đi Colchester. Khi mọi người được cứu đem ra, th́ cái nhà đă bị bao trùm bởi khói lửa, lúc đó bà chủ nhà buồn bă vô cùng v́ nhớ lại việc bạn đă gửi đứa con cho ḿnh. Thử leo lên gác thượng là nơi em bé ngủ th́ dường như làm một việc vô ích, nhưng một người lính cứu hỏa anh dũng lại quyết định gắng sức trong lúc tuyệt vọng nầy. Sau khi nghe chỉ dẫn rành rẽ vị trí của căn pḥng, anh liền xông vào khói lửa. Anh đă t́m được em bé và đem em ra b́nh an vô sự. Anh kể lại là khi anh vào đến pḥng, anh thấy ngọn lửa đă bao quanh và phần lớn ván sàn đă sụp đổ. Chỉ một điều lạ là ngọn lửa đi một ṿng tṛn theo vách tường để ra cửa sổ, không giống như thường lệ, và anh cũng không thể giải thích được sự lạ lùng này. V́ thế, chỗ góc nhà mà em bé nằm không hề hấn ǵ, mặc dù chính những miếng ván sàn nhà dưới cái giường nhỏ đă bị cháy hết phân nửa. Em bé sợ hăi đến cực điểm, nhưng người lính cứu hỏa lập đi lập lại một cách rành mạch rằng khi anh không ngại nguy hiểm đến cứu nó th́ anh nh́n thấy một h́nh thù giống như một vị Thiên Thần. Anh nói: “Đó là một cái ǵ màu rực rỡ, trắng bạc, nghiêng xuống giường và dùng bàn tay xoa lên cái mền.” Anh thêm: “Không thể nào lầm lẫn được, v́ hiện tượng nầy c̣n thấy được thêm chốc lát nữa, giữa ánh sáng chói lọi và h́nh ảnh ấy chỉ biến đi khi tôi cách đó vài bước.”

 

Câu chuyện nầy c̣n liên hệ đến một việc lạ thường khác. Mẹ của em bé nói trên đang ở Colchester, không thể ngủ được trong đêm đó; bà cứ băn khoăn và bị cảm giác quấy rối trong đầu là có chuyện ǵ bất thường xảy đến cho con, là nó sắp gặp nguy hiểm, bà ngồi dậy và cầu nguyện khá lâu, với nhiệt tâm cầu cho con bà được che chở qua khỏi tai nạn. Đây hẳn là một sự can thiệp mà người Thiên Chúa Giáo gọi là sự chuẩn  nhận lời cầu xin. C̣n người Thông Thiên Học phát biểu ư tưởng nầy một cách khoa học hơn, ấy là do sự bộc lộ mạnh mẽ của t́nh mẹ thương con, đă tạo thành một mănh lực tinh thần để cho một vị cứu trợ vô h́nh có thể dùng nó để cứu em bé thoát khỏi cái chết khủng khiếp.

 

Một trường hợp khác đáng ghi nhận mà những trẻ được che chở một cách phi thường đă xảy ra trên bờ sông Thames, gần Maidenhead khoảng vài năm trước đây. Lần này sự nguy hiểm xảy ra không phải do lửa mà là do nước. Ba trẻ nhỏ ở tại Shottlesbrood hoặc vùng phụ cận, nếu tôi không lầm, được một bà giữ trẻ dắt đi chơi dọc theo con đường để kéo ghe. Trong khi đang chạy quanh một góc đường, th́nh ĺnh chúng nó thấy một con ngựa đang kéo một chiếc xà lan và trong giây phút lộn xộn xảy ra, hai đứa trong đám trẻ bị                                   kẹt vào sợi dây và văng xuống nước.

 

Khi thấy tai nạn, người chèo thuyền nhào tới để cứu chúng nó. Theo lời ông ta kể lại, th́ ông nhận thấy chúng nổi trên mặt nước một cách lạ thường và  trôi vào bờ một cách yên ổn. Người chèo thuyền và bà giữ trẻ đều không thấy ǵ khác hơn nữa. Nhưng cả hai đứa trẻ đều thuật lại là có một bà rất đẹp, toàn một màu trắng chiếu sáng rực rỡ ở dưới nước, bên cạnh chúng, nâng chúng lên và đưa vào bờ. Câu chuyện của chúng có chứng cớ vững vàng, v́ đứa cháu gái của người chèo thuyền, từ trong pḥng lẹ làng chạy ra khi nghe tiếng la của bà giử trẻ, cũng xác nhận là chính nó thấy dưới nước có một người đàn bà đẹp, kéo hai đứa trẻ vào bờ. Không có chi tiết nào khác được kể ra, cũng không thể biết chắc là vị “Thiên Thần” đó thuộc đẳng cấp cứu trợ nào. Có lẽ là một người đă tiến hóa, hoạt động trong thể vía. Chúng ta sẽ nghiên cứu vấn đề nầy ở phía sau với một khía cạnh khác, trên quan điểm của người cứu trợ hơn là quan điểm của người nhận được sự trợ giúp.

 

Một trường hợp khác mà sự can thiệp được nhận ra rơ ràng hơn do bác sĩ John Mason Neale, một vị giáo sĩ có tiếng tăm kể lại. Một người kia, khi vợ vừa mới qua đời, ông đi với những đứa con c̣n nhỏ, đến ngụ trong một ngôi nhà của người bạn thân ở thôn quê. Đây là một trang viên cũ kỹ với lối kiến trúc bất thường. Tầng dưới đất có những hành lang dài tối tăm, là nơi các trẻ nhỏ đang chơi đùa một cách vui vẻ. Nhưng ḱa chúng nó đă lên đến tầng trên một cách nghiêm trang, và hai đứa trong số trẻ thuật lại là trong khi chúng nó đang chạy trong một hành lang th́ gặp mẹ của chúng nó. Mẹ bảo chúng nó phải quay trở lại, rồi biến mất. Khi xem xét lại chỗ trẻ chơi th́ thấy một cái giếng sâu không có nắp đậy, ở ngay giữa đường chúng nó đi; nếu đi xa thêm vài bước nữa th́ các trẻ sẽ lọt xuống giếng. Vậy sự hiện h́nh của bà mẹ đă cứu các con khỏi cái chết gần kề.

 

Trong trường hợp trên, dường như không thể nghi ngờ rằng chính người mẹ ở cơi trung giới tiếp tục coi sóc các con với t́nh thương yêu (có những trường hợp khác cũng xảy ra tương tự như thế) ư muốn mănh liệt của bà mẹ đủ mạnh để làm cho bà ta hiện h́nh trong chốc lát và lên tiếng báo động sự nguy hiểm cho các con trong lúc chúng đang vô ư. Hay có thể chỉ là sự gây ấn tượng vào trí óc của các trẻ để cho chúng thấy và nghe tiếng của người mẹ. Cũng có thể người cứu trợ vô h́nh là một người khác, họ dùng h́nh dáng quen thuộc của người mẹ để cho trẻ khỏi sợ. Tuy nhiên giả thiết giản dị nhất luôn luôn được chú ư là sự can thiệp do t́nh thương của người mẹ, t́nh cảm nầy không giảm đi sau khi từ trần.

 

T́nh mẹ là một trong những thứ t́nh cảm thiêng liêng và không ích kỷ nhất của nhân loại và cũng là thứ t́nh cảm tồn tại lâu dài trên các cơi cao. Một người mẹ đang ở các cảnh thấp của cơi trung giới c̣n có thể tiếp xúc với thế giới vật chất, vẫn tiếp tục theo dơi chăm sóc các con đến khi nào bà c̣n có thể thấy được chúng. Đến khi bà mẹ vào được cơi thượng giới rồi, h́nh dáng của các con vẫn c̣n tiếp tục choán một chỗ quan trọng trong tư tưởng của họ. T́nh thương yêu bao la mà người mẹ chú tâm vào h́nh ảnh của các con đă tạo thành một động lực tinh thần mạnh mẽ, tuôn tràn lên các con cháu c̣n đang phấn đấu nơi cơi trần và tạo thành những trung tâm năng lực linh hoạt hữu ích bao bọc lấy các con, điều đó được diễn tả như là những vị thần bổn mạng thật sự.

 

Tôi đă nghiên cứu và theo dơi một trường hợp như vậy xảy ra gần đây. Một người mẹ đă chết gần 20 năm về trước, để lại hai đứa con trai mà bà rất thương mến. Trong đời sống ở cơi thượng giới, bà mang theo h́nh ảnh rơ ràng của hai con và một cách tự nhiên, bà vẫn nghĩ về h́nh ảnh của chúng lúc bà xa ĺa chúng khi chúng chỉ mới 15 hay 16 tuổi. T́nh thương mà bà không ngừng ban ra từ cơi thượng giới đối với những h́nh ảnh nầy có tác động hữu ích  thật sự, tuôn xuống cơi trần  cho hai đứa con mà nay chúng đă trưởng thành. Nhưng, lực hữu ích nầy không tác động đồng đều lên hai đứa con. Đó không phải là do bà thương đứa nầy hơn đứa kia, nhưng chỉ v́ có sự khác biệt rất nhiều trong đặc tính riêng của chúng.

 

Đối với người mẹ, bà cũng không thấy được có sự khác nhau. Cả hai đối với bà đều như nhau và bà cũng muốn như vậy. Nhưng tôi quan sát thấy rằng một trong hai ảnh tượng chỉ là h́nh tư tưởng suông của người mẹ mà không có sự sinh động. Trong khi ấy ảnh tượng kia có sinh lực rất sống động. Theo dơi hiện tượng nầy tôi t́m ra rằng trong trường hợp đầu, đứa con trưởng thành và trở nên một thương gia b́nh thường, không xấu mà cũng không có đặc tính tâm linh đặc biệt nào. Trong khi người con kia trở thành một người đàn ông có tinh thần vị tha, và có một nền văn hóa tốt đẹp. Cuôc sống của nó phát triển có ư thức về bản ngă, tốt đẹp hơn nhiều so với người anh. Do đó từ thể cao có thể tuôn thêm năng lực vào ảnh tượng mà người mẹ đă tạo ra nơi cơi thượng giới, làm cho nó sinh động thêm.

 

Theo giám mục Harringay tại địa phận London th́ một số trẻ em có thể nh́n thấy được Thiên Thần. Ông nói Thượng Đế và Thiên Thần luôn luôn gần gũi với chúng ta, đừng cho rằng những ǵ mà trẻ em cho biết là chúng thấy được chỉ là sự tưởng tượng. Con người với tấm ḷng trong sạch có thể thấy được Thượng Đế và sự hoàn toàn trong sáng của trẻ em làm chúng có thể thấy những điều mà người lớn không thể thấy được.

 

Vị giám mục kể lại câu chuyện của 5 bé gái có người cha đang bệnh nằm trên lầu. Đứa bé nhỏ nhứt vừa mới lên giường ngủ, th́ chạy ra khỏi pḥng kêu lớn:

“Xem ḱa! có 2 Thiên Thần đang đi lên lầu!”

Không ai nh́n thấy được ǵ. Một lúc sau em bé lại kêu lên:

“xem ḱa! bây giờ 2 Thiên Thần đang đi xuống lầu và cha đang đi ở giữa.”

Lúc bấy giờ, tất cả 5 bé gái trong nhà đều thấy giống như thế. Sau đó mọi người ùa lên pḥng của người cha th́ thấy ông đă chết!

 

Cách đây chưa bao lâu, con gái của một vị linh mục người Anh, đi bộ với mẹ trong châu thành nơi họ ở. Em bé vô ư chạy băng qua một đường phố và bị té nhào, th́ những con ngựa kéo xe khi đi quanh góc đường đột nhiên chạy bừa lên ḿnh nó. Thấy con ở dưới chân ngựa, người mẹ phóng ḿnh chạy ra, tưởng đâu con sẽ bị trọng thương, nhưng đứa trẻ đứng dậy, hoàn toàn vui vẻ và nói với mẹ rằng: “Thưa mẹ, con không đau đớn chút nào, bởi nhờ cái ǵ trắng xóa đă cản không cho ngựa đạp lên ḿnh con và bảo con đừng sợ.”

 

Một trường hợp khác xảy ra nơi địa phận cai quản của bá tước Buckingham, vùng phụ cận của Burnham Beeches, thật phi thường v́ thời gian hiện h́nh của vị cứu trợ kéo dài rất lâu. Người ta thấy rằng trong các câu chuyện đă kể th́ sự can thiệp chỉ xảy ra trong giây lát. C̣n trường hợp nầy th́ trái lại, hiện tượng phi thường xảy ra lâu hơn nửa giờ.

 

Hai em bé , con một chủ điền nhỏ, đang rong chơi khi cha mẹ chúng và mọi người đi gặt lúa. Chúng đi dạo trong vùng thật xa nhà, và lạc mất đường về. Đến tối, cha mẹ chúng về nhà, thấy vắng các con, liền đi hỏi thăm mấy nhà láng giềng, nhưng họ không gặp. Người cha cho gia nhân và các người thợ đi t́m khắp nơi. Nhưng các sự cố gắng của họ đều vô ích. Họ kêu gọi mà không đứa nào lên tiếng trả lời. Chán nản, họ quay trở về trại, khi vừa đến trại th́ họ đều thấy cách đó một khoảng có một ánh sáng lạ di chuyển chậm chậm qua những cánh đồng tiếp cận tới đường lộ. Theo họ thấy th́ đó là một khối h́nh cầu to lớn chiếu sáng vàng óng, không giống chút nào với ánh sáng của ngọn đèn thường, tiến lại gần và người ta thấy hai đứa trẻ lạc đường bước đi vững vàng giữa ánh sáng. Người cha và vài người khác liền chạy ngay lại. Ánh sáng đó c̣n chiếu măi cho đến khi những người ấy tới nơi, rồi khi họ vừa đặt tay lên ḿnh hai em bé th́ ánh sáng biến mất, để họ trong bóng tối.

 

Hai em bé thuật lại rằng, khi trời tối đen, chúng vừa khóc vừa đi lang thang trong rừng, và cuối cùng chúng nằm ngủ dưới gốc cây. Chúng nó được một người đàn bà đẹp với một chiếc đèn trên tay đánh thức dậy, bà nắm tay chúng dắt về nhà. Khi chúng hỏi, th́ bà mỉm cười không nói một lời nào. Cả hai đều khăng khăng về câu chuyện kỳ lạ nầy, không thể nào lay chuyển được ḷng tin tưởng của chúng về các điều mà chúng đă thấy. Trong lúc ấy, có một điểm đáng được chú ư là tất cả những người hiện diện đều nh́n thấy ánh sáng soi sáng các cây cối và hàng rào, nhưng h́nh dáng của người đàn bà th́ chỉ có hai em bé thấy được mà thôi.


CHƯƠNG 3

 

 

Kinh nghiệm cá nhân

 

 

Tất cả những câu chuyện vừa kể ở phần trên đă được nhiều người biết đến, chúng ta có thể t́m gặp trong vài quyển sách gom góp những câu chuyện thuộc về loại nầy, như quyển “More Glimpses of the World Unseen” do bác sĩ Lee viết ra. Nhưng hai trường hợp tôi sắp kể sau đây là lần đầu tiên. Cả hai đều xảy ra trong ṿng vài năm nay. Chuyện thứ nhất là chuyện của cá nhân tôi, chuyện kia là của bà hội trưởng khả kính của hội Thông Thiên Học, mà sự chính xác cũng không thể nghi ngờ được.

 

Câu chuyện của riêng tôi thật giản dị, nhưng nó quan trọng đối với tôi, v́ sự can thiệp nầy đă cứu sống tính mạng tôi. Một buổi tối trời mưa gió dữ dội, tôi đang đi bộ theo một con đường yên lặng, hẻo lánh gần Westbourne Grove. Tôi chống trả một cách yếu ớt với các luồng gió mạnh đang hăm dọa từng giây phút, muốn giựt cây dù khỏi tay tôi. Trong khi đang đi một cách cực nhọc, tôi nghiền ngẫm lại trong trí những chi tiết của một công việc mà tôi đang chăm lo. Bất ngờ tôi giật ḿnh khi nghe một tiếng nói rất quen thuộc, tiếng nói của một vị Chân Sư Ấn Độ, kêu thét bên tai tôi: “Lui lại” Tôi làm theo một cách máy móc, nhảy vọt lẹ làng ra phía sau, trước khi có  th́ giờ suy nghĩ. Đồng thời cây dù, v́ cử động đột xuất nên rớt khỏi tay tôi, văng ra phía trước, và một khúc ống khói to tướng bằng kim loại rớt ầm xuống trước mặt tôi, cách không đầy một thước, trên lề đường. Với trọng lượng quá khổ và sức rơi kinh khủng của vật nầy, cho thấy chắc chắn rằng nếu không có tiếng kêu báo cho biết th́ tôi đă chết tại chỗ. Lúc đó đường xá vắng tanh và giọng nói ấy quả là của một vị mà tôi biết là thể xác của Ngài đang ở cách xa ít ra cũng 7000 dặm.       

 

Hơn nữa, không phải đây là lần thứ nhất mà tôi được cứu giúp một cách đặc biệt như vậy. Trong thời thơ ấu, trước khi thành lâp hội Thông Thiên Học, một người thân mới tạ thế đă hiện h́nh để ngăn tôi khỏi phạm một lỗi mà hiện nay tôi cho là một tội ác nặng nề. Nhưng theo nhận thức lúc đó của tôi, th́ chỉ là một sự trả thù, chẳng những có thể biện minh được mà lại c̣n đáng khen nữa. Một thời gian gần hơn, cũng trước ngày thành lập hội Thông Thiên Học, tôi tiếp được một lời chỉ giáo từ cơi cao đến, trong một hoàn cảnh rất cảm động. Lời chỉ giáo nầy khiến cho tôi ngăn cản một người khác không cho hắn thi hành một quyết định mà măi tới nay tôi mới hiểu là nếu quyết định đó được thực hiện th́ sẽ gây nên tai hại thảm khốc. Tuy nhiên lúc đó, tôi không nghĩ ra được lư do nào cả. Như thế một số những kinh nghiệm cá nhân đă làm mạnh thêm sự tin tưởng của tôi về sự hiện hữu của những vị cứu trợ vô h́nh và sự trợ giúp vẫn luôn luôn tiếp tục trong cuộc đời.

 

Một trường hợp nổi bật khác là bà Annie Besant, hội trưởng khả kính của hội Thông Thiên Học, được cứu thoát khỏi một tai nạn nguy hiểm trên đường phố. V́ trường hợp không cần thiết kể tỉ mỉ nơi đây, chỉ biết là bà bị kẹt giữa một cuộc bạo loạn. Thấy bên cạnh có nhiều người bị ngă gục và trọng thương, sắp tới phiên bà phải chịu chung số phận, bởi v́ dường không c̣n phương kế nào  để thoát khỏi đám quá đông người.

 

Th́nh ĺnh bà nhận thấy một cảm giác kỳ lạ là được cuốn xoáy đem ra khỏi đám đông và được thả đứng một ḿnh không thương tích nơi một con đường nhỏ khác, song song với con đường xảy ra cuộc bạo loạn, và nơi đây bà vẫn c̣n nghe tiếng ồn ào của cuộc ấu đả. Bà đang tự hỏi, chuyện ǵ đă xảy ra, th́ hai ba người đàn ông cũng vừa thoát khỏi đám bạo loạn, chạy quanh góc đường để đến đây, và khi gặp bà, họ hết sức ngạc nhiên và tỏ nỗi vui mừng. Họ nói khi thấy người đàn bà can đảm nầy th́nh ĺnh mất dạng giữa đám đông ấu đả th́ họ nghĩ là bà đă bị ngă gục ở đó rồi. Lúc ấy bà không giải thích được ǵ cả và về nhà, trong ḷng rất băn khoăn. Nhưng sau đó, khi thuật biến cố lạ lùng nầy cho bà Blavastsky nghe, bà mới được cho biết là nhờ quả lành giúp cho bà thoát khỏi tai nạn. Một vị Chân Sư đă gởi đến đó một sứ giả đặc biệt để che chở cho bà, v́ lợi ích cho công việc phụng sự. Đây là trường hợp rất hiếm thấy v́ phải có sự vận dụng một quyền lực to tát để biểu lộ một cách công khai phi thường. Cũng không khó lắm để hiểu phương cách thực hiện. Bà phải được nhấc bổng lên đưa qua phía trên các nóc nhà và đặt xuống con đường kế cận một cách giản dị. Thân thể của người bay lên trên không mà chẳng ai thấy được, th́ hiển nhiên là phải có một bức màn bao phủ chung quanh bà suốt lộ tŕnh (có lẽ là bằng chất dĩ thái). Nhưng người ta sẽ thắc mắc rằng, tất cả những ǵ có thể che khuất được vật chất th́ cũng phải bằng vật chất và có thể thấy được. Về việc nầy, tôi có thể trả lời là, bằng phương pháp quen thuộc đối với sinh viên huyền bí học, các tia sáng có thể bị uốn cong theo cách thức nào đó, cho nó đi quanh một vật rồi nó có thể đi lại đúng hướng ban đầu, (hiện nay khoa học cho biết rằng trong tất cả các trường hợp, các tia sáng chỉ phóng ra theo đường thẳng, trừ khi bị khúc chiết). Vậy th́ hiển nhiên một vật trong t́nh trạng như thế sẽ hoàn toàn vô h́nh đối với con mắt phàm, cho đến khi các tia sáng trở lại theo hướng thông thường. Tôi biết rằng, chỉ một sự xác nhận cũng đủ để luận giải các sự quan sát của tôi mà khoa học hiện thời cho là vô lư, tôi không có quyền hạn ǵ ở đây cả. Tôi chỉ đề cập đến một khả năng thiên nhiên mà đến một ngày kia, khoa học tương lai chắc chắn sẽ khám phá ra. Đối với những người không học đến khoa huyền bí, th́ những ǵ tôi nói phải  đợi đến lúc được chứng minh mới hiểu rơ. Thật ra phương pháp cũng dễ tập đối với người đă biết vài điều cương yếu về sức mạnh huyền bí của thiên nhiên.

 

Sau khi quyển sách nầy được xuất bản lần thứ nhất, tôi lại biết một sự can thiệp khác nữa, nó có vẻ ít rơ ràng hơn chuyện trước, nhưng nó được thành công hoàn toàn. Một bà kia có việc cần thiết phải đi một ḿnh bằng xe kửa, v́ biết phải trải qua hành tŕnh dài nên bà đă đề pḥng, giữ một pḥng riêng, nhưng lúc xe lửa vừa bắt đầu chạy, th́ một người đàn ông có dáng vẻ hung dữ, nguy hiểm, nhảy phóc lên, ngồi ở đầu toa kia. Bà ta rất lo sợ v́ chỉ có một ḿnh như thế với một người có h́nh dạng khả nghi; kêu cứu th́ đă qúa trễ; chỉ c̣n một việc là ngồi yên và nhiệt thành cầu xin thần bổn mạng hộ trợ.

 

Bỗng chốc sự sợ hăi của bà lại tăng gấp bội, v́ người đàn ông đứng dậy và xoay qua nh́n bà với một nụ cười khả ố. Nhưng khi vừa bước tới một bước th́ hắn vội nhảy lui lại với nét mặt sững sờ và kinh hăi cực độ. Bà hành khách nh́n theo hướng của hắn ngó và ngạc nhiên khi thấy một ông ngồi phía trước bà; thật trầm tĩnh, ông nh́n chăm chú kẻ trộm mà lúc nầy trông hắn có vẻ thất vọng. Chắc chắn là ông đă vào đây không bằng đường lối thông thường. Quá cảm xúc gần như bị mê hoặc, bà không nói được lời nào, đôi mắt không rời khỏi ông ấy, và cứ như vậy chừng hơn nửa giờ. Ông khách không mở miệng nói ǵ, cũng không nh́n bà, nhưng tiếp tục chăm chú nh́n kẻ bất lương đang run sợ, cúi gục xuống ở phía đầu kia gian pḥng. Khi xe vừa đến ga kế đó trước khi ngừng lại, tên gian phi chạy ra cửa và nhảy vọt ra ngoài. Bà khách được giải thoát, cực kỳ tri ơn, muốn tỏ ḷng cảm tạ, nhưng nh́n lại không thấy người nào ngồi tại cái băng đó nữa, mặc dù không thể nào một xác thân đi ra khỏi toa xe một cách quá nhanh như vậy. Trong trường hợp nầy, sự hiện h́nh đă giữ được một thời gian lâu hơn b́nh thường. Mặt khác là không cần dùng đến sức lực, cũng không cần dùng đến một động tác nào, chỉ cần một h́nh dạng hiện ra là đủ.

 

Những câu chuyện kể trên đều tùy thuộc vào việc mà người ta đồng ư gọi là sự can thiệp của thần nhân, nó chỉ mới phô bày một phần nhỏ trong phạm vi hoạt động của những vị cứu trợ vô h́nh. Tuy nhiên, trước khi có thể so sánh với các công việc khác của các ngài, tốt hơn hết, chúng ta cần biết rơ là những vị cứu trợ nầy thuộc về loại nào trong những nhân vật cư ngụ nơi cơi trung giới. Đó là khía cạnh của vấn đề mà chúng tôi sẽ bàn tới đây.


 

CHƯƠNG 4

 

 

Những vị cứu trợ

 

 

Sự cứu trợ có thể được thi hành bởi nhiều thành phần khác nhau đang sinh hoạt ở cơi trung giới như những vị thiên thần, những tinh linh, những người đă chết và những người c̣n sống hoạt động  một cách có ư thức nơi cơi trung giới. Nhưng phần chính là những vị Chân Sư và các đệ tử của các ngài. Khi t́m hiểu cẩn thận hơn, chúng ta thấy rằng tuy tất cả các đẳng cấp kể trên đều có dự phần vào công việc nầy, nhưng công việc của họ hoàn toàn không giống nhau. Công tác cứu trợ thường được thi hành ở cơi trung giới hoặc phát khởi từ cơi nầy, sự kiện nầy cũng giải thích thêm được tính chất của công việc. Khi có chút ít ư niệm về quyền năng cao cả của một vị Chân Sư, chúng ta sẽ nhận thấy rằng, đối với ngài th́ việc làm nơi cơi trung giới sẽ là một sự hoang phí năng lực quá trọng đại, cũng như những vị y sĩ hoặc những nhà bác học tài giỏi nhứt lại dùng thời giờ hữu ích của ḿnh để đi đập những viên đá ngoài đường.

 

Công việc của Chân Sư được thực hiện nơi cơi cao hơn, phần lớn là ở 3 cảnh cao của cơi thượng giới. Nơi đó, ngài có thể dùng năng lực để cảm hóa ngay chơn nhơn, hay con người thật của ta, chớ không phải phàm nhơn. C̣n phàm nhơn nhận được ảnh hưởng từ cơi trung giới và cơi trần. Những mănh lực mà ngài đem dùng nơi cảnh cao cực điểm nầy sẽ sinh ra những kết quả to lớn hơn và bền vững hơn tất cả những ǵ mà ở nơi cơi trần phải dùng sức lực gấp mười lần hơn mới đạt được. Công việc nơi cơi cao đó có bản chất riêng, nên chỉ có thể hoàn thành bởi các vị cao cả. Trong khi đó công việc ở cơi thấp th́ ít ra cũng có một số người làm được, trong một phạm vi nào, đó là những người c̣n đang ở nấc thang đầu tiên của chiếc thang tiến hóa vô hạn, mà một ngày kia sẽ đưa họ đến vị trí mà vị Chân Sư đang ở hiện giờ.

 

Cũng vậy, những vị Thiên thần thuộc vào một đoàn thể thiên nhiên cao hơn chúng ta, nên công tác của họ dường như hoàn toàn xa lạ đối với nhân loại. Tuy nhiên trong các vị đó, cũng có vài vị đôi khi đáp ứng lại những ước vọng hoặc lời cầu xin  cao thượng của loài người. Họ thường hành động ở cơi thượng giới hơn là cơi trung giới hoặc cơi trần. Họ giúp đỡ con người thường nhất là trong khoảng thời giai giữa hai kiếp sống luân hồi, hơn là trong kiếp sống ở trần gian. Vài trường hợp sự giúp đỡ được thực hiện ở những cảnh thấp của cơi thượng giới. Như trường hơp một vị thiên thần dạy một ca sĩ về thiên nhạc (celestial music) tuyệt diệu. Trường hợp khác , một vị thiên thần đang huấn luyện và d́u dắt một nhà thiên văn t́m hiểu h́nh dáng và cách cấu tạo vũ trụ. Đó chỉ là hai trong nhiều trường hợp mà người ta nhận thấy những thiên thần cao quí đă giúp đỡ cho cuộc tiến hóa và cách thức mà các ngài đáp ứng lại nguyện vọng cao thượng nhất của nhân loại, sau khi chết. Thiên thần ít khi xen vào các biến cố thông thường trong đời sống trần gian của chúng ta. Nói đúng ra, ngài chú hết tâm lực vào phận sự vô cùng trọng đại, riêng biệt nơi cơi của ngài, nên ngài ít có ư thức về cơi trần gian. Tuy nhiên, có thể thỉnh thoảng ngài để ư đến một điều đau khổ hoặc khó khăn của nhân loại, v́ nó làm động đến từ tâm của ngài khiến cho ngài có ư muốn cứu giúp. Nhưng với tầm nh́n rộng lớn hơn, tất nhiên ngài nhận thấy rằng ở vào mức tiến hóa hiện tại th́ các sự can thiệp như thế, phần lớn sẽ sinh ra nhiều tai hại hơn là lợi ích.

 

Quả thật thuở xưa, khi nhân loại c̣n trong thời kỳ thái sơ, con người nhận lănh rất nhiều sự trợ giúp từ bên ngoài nhiều hơn bây giờ. Về thời đại mà tất cả những vị Phật, những vị Bàn Cổ (Manus) cho đến những vị thủ lănh và các bậc thầy của nhân loại đều đến từ cuộc tiến hóa của thiên thần, hoặc từ một hàng ngũ nhân loại tiến hóa cao ở một bầu hành tinh tiền tiến, về đây để giúp địa cầu. Nhưng dần dần con người tiến bộ, tự ḿnh đủ sức giúp đỡ đồng loại, ban đầu ở cơi trần, kế đó trên những cơi cao. Hiện nay, chúng ta đă tiến đến giai đoạn mà nhân loại phải có đủ sức đào tạo những vị cứu trợ vô h́nh cho ḿnh. Để cho những vị từ bên ngoài được rảnh tay hy sinh vào một công việc hữu ích hơn và cao cả hơn.

 

Tuy nhiên trong thời kỳ hiện tại, có những yếu tố ảnh hưởng khác xen vào. Trong phương cách tiến hóa của nó, thế giới được điều khiển và giúp đỡ qua một trong bảy cung chánh. Hiện tại chúng ta đang ở vào giai đoạn chịu ảnh hưởng sâu đậm của cung thứ bảy. Một trong những đặc tính nổi bật của cung nầy là nó làm tăng sự hợp tác giữa con người và thế giới thiên thần. Sự liên hệ giữa hai thành phần nầy sẽ thêm gần gũi và rơ ràng hơn trong tương lai gần. Như thế sẽ có nhiều trường hợp cá nhân được can thiệp, trợ giúp cũng như có những sự hợp tác trong các nghi lễ lớn.

 

Bây giờ chúng ta đă thấy rơ rằng phần lớn công việc cứu trợ mà chúng tôi đề cập ở đây được thi hành bởi những người nam và nữ đă đạt đến một mức tiến hóa nào đó. Không phải phận sự của các vị Chân Sư v́ các ngài phải thi hành những nhiệm vụ cao cả hơn và tầm hữu ích cũng rộng lớn hơn. Cũng không phải phận sự của các thường nhân, chưa mở mang đầy đủ về phương diện tinh thần, và chưa đủ sức làm điều hữu ích. Bởi những lư do trên, chúng ta nhận thấy việc giúp đỡ nhân loại trên cơi trung giới và cơi hạ thiên do các vị đệ tử của Chân Sư đảm trách, đó là những người c̣n cách thời kỳ đắc quả chơn tiên rất xa, nhưng họ đă phát triển khá đầy đủ, có thể hành động có ư thức nơi các cơi trên. Trong số đó có những người tiến xa hơn và hiệp nhất được hoàn toàn ư thức vật chất với tâm thức cao cả, họ được lợi ích hiển nhiên là khi thức dậy, họ nhớ lại những điều mà họ đă làm và đă học ở mấy cơi trên. Nhiều người khác chưa đủ sức giữ cho tâm thức được liên tục, tuy nhiên cũng không phải họ phí mất th́ giờ, trong khi họ tưởng là họ ngủ, bởi họ chuyên dùng thời giờ đó vào công việc cao thượng bất vụ lợi đối với đồng loại. Bây giờ, trước khi xem công việc cứu trợ được thực hiện như thế nào, chúng ta thử t́m giải đáp cho những điều mà một số người bàng quang thường phản đối về việc nầy.

 

Có những người chưa hiểu rơ ư niệm Thông Thiên Học, thường có nghi vấn là con người có được phép đi t́m để giúp đỡ những người đang buồn khổ hoặc sa vào hoàn cảnh khó khăn chăng? Họ sợ làm như thế là ngăn trở sự thực thi định mạng theo công lư tuyệt đối của luật nhân quả vĩnh cửu? Họ nói: “Người nầy ở vào hoàn cảnh hiện tại bởi v́ số mang của hắn đáng phải chịu như vậy; bây giờ hắn gặt hái kết quả một cách tự nhiên về hành vi ác hại mà hắn đă gây ra trong quá khứ. Vậy do quyền hạn nào, tôi lại làm ngăn trở sự hành động của đại luật vũ trụ, trong khi thử cải thiện t́nh trạng của hắn trên cơi trung giới, hoặc tại cơi trần?”

 

Những người “tốt bụng” đưa ra quan niệm như vậy chứng tỏ họ có ḷng tự phụ to lớn mà họ không ngờ. Bởi v́ thái độ của họ bao hàm hai điều rất lạ: thứ nhất là coi như họ biết chắc chắn nhân quả của một người và thời gian được qui định cho người ấy phải chịu khổ; thứ nh́ họ (cũng như tất cả những người khác) là một cá nhân nhỏ nhoi, không sống lâu mà cũng có thể làm thay đổi luật vũ trụ, và có thể ngăn cản những kết quả của luật nhân quả, bằng cách nầy hay cách khác. Chúng ta hăy vững tin rằng, các đại luật quả báo luôn luôn được thực hiện hoàn hảo, không ai ngăn cản được. Đừng lo sợ hành động trợ giúp của chúng ta gây trở ngại cho nó. Do luật nhân quả, nếu một người đến lúc cần phải trả một quả nào đó th́ không ai có thể qiúp họ được, dù có thiện chí và cố gắng tối đa cũng vẫn vô ích. Tuy nhiên, thiện ư của chúng ta sẽ có giá trị như một nghiệp quả tốt, riêng cho chúng ta. Bản chất nghiệp quả của người ấy không quan hệ đến ta. Bổn phận chúng ta là phải tận lực qiúp đỡ kẻ khác. Chúng ta chỉ được quyền hành động, c̣n kết quả thuộc về phận sự của các vị khác cao hơn chúng ta. Làm sao chúng ta có thể biết đâu là số phận của một người? Có thể họ vừa mới trả dứt quả báo xấu và đang ở trong t́nh trạng đúng lúc cần phải có một bàn tay tế độ nâng đỡ họ, và giúp họ thoát khỏi nỗi thống khổ hoặc cảnh ngă ḷng. Tại sao chúng ta không vui thích v́ có được cơ hội làm việc thiện như những người khác? Nếu chúng ta có thể giúp được người nào, th́ sự kiện ấy cho thấy rằng người ấy xứng đáng được hưởng sự trợ giúp. Chúng ta không bao giờ biết được có nên giúp hay không, nếu chúng ta không thử. Dầu sao mặc ḷng, luật nhân quả tự nó tiến hành đúng đắn, chúng ta không nên bận tâm về chuyện đó.

 

Các vị ngũ-hành-linh (nature-spirits) ít khi giúp đỡ nhân loại. Phần nhiều các vị nầy lánh xa nơi mà loài người thường lui tới. V́ họ không thích sự ồn ào, náo động, lo âu không ngừng do loài người phát ra. Mặt khác, ngoại trừ vài đẳng cấp cao , thường thường các vị ấy có vẻ dị thường và không suy nghĩ chín chắn, rất giống như những trẻ con ưa đùa giỡn vui thích, hơn là nghiêm trang và có trách nhiệm. Thỉnh thoảng, một trong các vị nầy cảm thấy ḷng quyến luyến với một người nào đó và giúp cho họ nhiều công việc, nhưng ở tŕnh độ tiến bộ hiện tại của các vị ấy, ta không thể tin cậy vào một sự hợp tác bền vững trong công việc cứu trợ vô h́nh.

 

Như tôi đă nói, sự giúp đỡ đôi khi do những người đă chết, họ tŕ hoăn ở lại cơi trung giới để gần gũi, tiếp xúc với cơi trần. Như câu chuyện được kể ở trên, một người mẹ đă chết cứu các con, không để chúng té xuống giếng. Nhưng người ta biết là loại cứu trợ nầy rất ít khi xảy ra. Một người càng cao thượng và hửu ích đối với kẻ khác th́ sau khi bỏ xác, họ sẽ không bị kẹt ở những cảnh thấp của cơi trung giới, là nơi có thể giao thiệp với cơi trần dễ dàng nhứt. Dầu sao mặc ḷng, trừ phi họ là người rất xấu, thời gian lưu trú trong những cảnh thấp để có thể tham gia cứu trợ được sẽ tưong đối ngắn ngủi. Tuy nhiên, từ cơi thiên đàng họ cũng có thể phát ra những tư tưởng có ảnh hưởng tốt lành cho những người mà họ đă yêu mến tại cơi trần. Ảnh hưởng sẽ có tính cách một ân huệ tổng quát hơn là một sức mạnh có thể đưa đến một kết quả rơ rệt trong trường hợp riêng biệt, như những việc mà chúng ta đang đề cập. Vả lại, nhiều người chết rồi, c̣n muốn giúp đỡ những kẻ mà họ đă bỏ lại trần gian, nhận thấy rằng họ hoàn toàn không thể ảnh hưởng kẻ ấy được ǵ cả, bởi v́ từ cơi nầy, muốn giúp một người đang sống ở cơi khác th́ người được giúp cần phải thật nhạy cảm, hoặc người muốn giúp phải có một tŕnh độ hiểu biết khá cao và tài khéo léo. Thế nên người đă chết dầu có hiện h́nh liên tiếp, cũng ít khi thành công trong việc gây ấn tượng cho người bạn thân, hoặc bà con hiểu được ư muốn của ḿnh. Vậy, ít khi người chết trợ giúp được người c̣n sống, trái lại, như chúng tôi sẽ giải ở phần sau, thường th́ những người chết rất cần những sự giúp đỡ hơn là họ có năng lực cứu trợ kẻ khác. Như thế, phần chính của công tác cứu trợ thuộc về phận sự của những người hiện c̣n sống ở trần gian mà có khả năng hơạt động ư thức ở cơi trung giới.


 

CHƯƠNG 5

 

 

Thực thể của đời sống siêu nhiên

 

 

Trong thời đại hiện nay, dường như khó khăn cho những người nào chỉ quen với những ư niệm vật chất b́nh thường tin và nhận thức rằng có một trạng thái tâm thức hoàn toàn tách rời khỏi xác thân vật chất. Chắc chắn, người tín đồ Cơ Đốc nào cũng tin là họ có một linh hồn, ấy cũng chính là nguyên tắc căn bản của tôn giáo họ. Nhưng nếu bạn gợi ư với họ rằng linh hồn có thể thật sự tự nó trở thành hữu h́nh ngoài xác thân, trong một vài điều kiện nào đó, hoặc trong lúc sống hoặc sau khi đă chết, đa số trường hợp họ trả lời bạn một cách khinh miệt là họ không tin có chuyện ma quỉ và điều ấy không hợp thời, là điều dị đoan của thời trung cổ c̣n xót lại.

 

Vậy, nếu chúng ta muốn hiểu ít nhiều về công tác của nhóm cứu trợ vô h́nh và có thể tự ḿnh học tập để tham gia vào việc đó, th́ cần phải gạt bỏ các trở ngại của những quan niệm hiện thời và cố gắng nắm vững chân lư cao quư mà thực thể đă được tŕnh bày cho phần đông chúng ta. Rằng thân xác chỉ là một vận cụ hoặc y phục của con người thật. Chúng ta ĺa bỏ nó một cách vĩnh viễn khi chết, và mỗi đêm chúng ta cũng ĺa nó một cách tạm thời, trong khi ngủ. Đúng thế, khi chúng ta ngủ, là “con người thật” thoát ra khỏi thân xác và sinh hoạt trong thể vía. Tôi xin nhắc lại, đó chẳng phải chỉ là một giả thuyết, cũng không phải là một ức đoán khéo léo. Trong chúng ta, có nhiều người biết cách thực hành, và thực hành hằng ngày cái pháp thuật sơ đẳng nầy trong đời sống của họ một cách đầy đủ ư thức, họ có thể tự ư đi từ cơi nầy qua cơi khác. Khi nhận rơ được như thế, chúng ta sẽ thấy được sự vô lư của những người cho rằng không thể có một thực thể hiện tồn bên ngoài xác thân, cũng giống như bảo rằng người ta không thể nào có sự ngủ, nếu người nào nghĩ rằng họ đă có ngủ th́ họ đă bị ảo giác.

 

Nếu một người chưa mở được sự liên lạc giữa ư thức trung giới và ư thức hồng trần th́ không thể tự ư ĺa khỏi thể xác được, cũng không thể nhớ lại đầy đủ những việc ǵ đă xảy ra trong lúc xác thân ngủ. Người đă mở mang được năng khiếu thần nhăn, quan sát một người b́nh thường, khi xác thân  đang ngủ sẽ thấy họ bay lượn gần trên xác thân, hoặc quanh quẩn gần xác thân, đôi khi cũng cách xác thân một khoảng xa hơn. Đối với một người chưa có chút ǵ mở mang, thường bay lơ lững bên trên thể xác với h́nh dáng thô sơ không rơ ràng. Họ không thể rời xa xác thân được, khi tách ra một khoảng cách, họ phải giật ḿnh và nhập vào xác thân làm nó tỉnh dậy. Khi con người tiến hóa khá hơn, thể vía của họ càng rơ ràng hơn và thức tỉnh hơn, do đó trở thành một vận cụ thích hợp và hữu dụng hơn. Phần nhiều những người thông minh có trí thức th́ tŕnh độ ư thức đă biểu lộ rơ ràng, và người đă mở mang một phần về tâm linh, khi ở trong thể vía, họ cũng được đầy đủ sáng suốt như ở trong xác thân. Trong lúc ngủ, dầu con người có ư thức hoàn toàn ở cơi trung giới và qua lại nơi đó một cách tự do, tùy thích, cũng chưa phải là điều kiện đủ để tham gia vào hàng ngũ cứu trợ. Con người ở bực nầy thường quá say đắm trong những tư tưởng riêng tư, thường là tiếp tục theo những tư tưởng trong lúc c̣n thức, giống như kẻ ch́m sâu trong sự suy nghĩ, quá chú tâm vào đó, đến nỗi không c̣n để ư chút nào đến việc xảy ra chung quanh. Đối với nhiều trường hợp, người được như thế cũng là tốt rồi, v́ ở cơi trung giới , có rất nhiều điều có thể làm cho người thiếu can đảm trở nên ngă ḷng hoặc sợ hăi v́ chưa hoàn toàn hiểu biết những thực thể mà họ gặp nơi cơi đó.

 

Có thể một người kia lần hồi thoát ra khỏi trạng thái nầy và tỉnh thức nơi cơi trung giới, nhưng thường là họ cứ ở trong t́nh trạng ấy cho đến khi có một người đă linh hoạt ở cơi nầy chịu nhận săn sóc và giúp cho hắn thức tỉnh. Tuy nhiên, đó chẳng phải là một trách nhiệm mà ta có thể khinh suất thi hành , bởi v́ tương đối dễ dàng làm cho một người thức tỉnh ở cơi trung giới nhưng gần như là không thể nào làm cho hắn ngủ lại được, nếu không nhờ đến phương pháp thôi miên, là phương pháp không nên xử dụng. Như vậy, trước khi muốn đem một người ra khỏi cảnh mơ mộng, một vị trong nhóm cứu trợ phải tin chắc hoàn toàn là những trù liệu đó sẽ giúp kẻ ấy dùng được lâu dài những năng lực mới, vừa được đặt vào tay của y, và hơn nữa y phải có đầy đủ sự hiểu biết và can đảm, để sự tỉnh ngộ của y không trở thành những kết quả có hại.

 

Khi đă được tỉnh ngộ như thế, người ấy sẽ có thể liên kết với những vị cứu trợ nhân loại nếu họ muốn. Nhưng phải hiểu rành rẽ là điều nầy không đi đôi với khả năng nhớ lại những ǵ đă làm trong lúc ngủ, khi họ thức giấc. Con người phải tự ḿnh mở mang năng lực nầy, thường phải mất nhiều năm, và cũng có thể không thành công trong kiếp nầy. May thay, việc thiếu trí nhớ của thể xác chẳng thiệt hại ǵ cho công tác thực hiện bên ngoài thể xác . Như thế ngoại trừ việc thỏa măn thấy ḿnh hiểu biết được, lúc thức giấc, những công việc ḿnh đă làm trong lúc ngủ, th́ sự thiếu trí nhớ nầy không có chút ǵ quan trọng. Điều cốt yếu là công việc phải được làm hoàn tất, chớ không cần thiết phải nhớ ai đă làm.

 

 

 

CHƯƠNG 6

 

 

Một sự can thiệp đúng lúc

 

 

Ở cơi trung giới có nhiều thứ công việc khác nhau, nhưng mục đích quan trọng và duy nhất là trợ lực bước đường tiến hóa, dầu trong phạm vi tầm thường nhất cũng vậy. Đôi khi công việc đó là sự mở mang cho các giới thấp kém, có thể là một sự thúc đẩy sơ sài trong một số trường hợp đă đinh. Các vị Chân Sư nhận biết rành rẽ và chỉ dạy cho con người bổn phận đối với các loài thấp kém, từ tinh chất đến thảo mộc và thú vật, bởi v́ trong một số trường hợp chúng nó chỉ tiến bộ được là nhờ khi nào chúng nó được thân cận với con người, hay được con người sử dụng. Nhưng dĩ nhiên, phần lớn và quan trọng nhất của công việc có liên hệ đến nhân loại bằng nhiều cách. Những công việc giúp đỡ con người th́ rất nhiều và khác nhau, nhưng phần lớn có mục đích là khai mở tâm linh nhân loại, những sự can thiệp về vật chất như đă nêu lên trong những trang đầu quyển sách nầy th́ rất hiếm, tuy nhiên, đôi khi cũng có xảy ra. Mặc dầu tôi muốn nhấn mạnh đến khả năng giúp đỡ con người trên phương diện mở mang trí tuệ và đạo đức, có lẽ sẽ hay hơn nếu kể ra vài trường hợp cứu trợ của người bạn thân của tôi. Bạn tôi đă giúp đỡ một cách hữu h́nh những kẻ cần đến sự hỗ trợ tối khẩn, các trường hợp ấy cho thấy những kinh nghiệm do chính các vị cứu trợ đă thi hành, phù hợp một cách đặc biệt với những câu chuyện của kẻ đă được cứu giúp. Những câu chuyện như thế có thể t́m gặp trong văn chương về những chuyện được cho là phi thường.

 

Chuyện kể ra sau đây có thể chứng tỏ sự cứu trợ đôi khi cũng xảy ra ở cơi thấp. Một hội viên Thông Thiên Học được gởi đi để làm công việc phước thiện trong cuộc phản loạn ở Matabeland. Một đêm kia, một người tá điền cùng gia quyến ở đây đang ngủ yên. Họ không biết ǵ đến sự việc ở cách đó vài dặm, sắp xảy ra một cuộc náo loạn dữ dội, sát nhân, cướp của. Bạn của chúng tôi được huấn thị phải dùng đủ mọi cách để làm cho gia đ́nh đang ngủ say kia hiểu rơ mối nguy cơ kinh khủng đang đe dọa họ, nhưng việc đó không phải dễ thi hành. Chị ấy cố gây ấn tượng vào trí năo người tá điền về mối nguy hiểm sắp đến, nhưng bị hoàn toàn thất bại, và dường như cần phải dùng phương pháp mạnh để báo động sự khẩn cấp nầy. Chị bạn chúng tôi quyết định hiện h́nh thật sự, để đủ sức lay chị tá điền, đánh thức chị dậy để nh́n xem chung quanh. Vừa khi đánh thức được chị tá điền và khiến chị phải chú ư, th́ chị bạn tôi biến mất và từ đó, chị tá điền không bao giờ t́m lại được bà láng giềng nào đă đánh thức chị đúng lúc và nhờ vậy mới cứu được trọn cả gia đ́nh. Nếu không có sự can thiệp bí mật nầy, tất nhiên cả nhà sẽ bị tàn sát trong nửa giờ sau. Vả lại, chị chưa giải thích được người bạn giúp đỡ nầy đă dùng cách nào để vào nhà, trong khi các cửa sổ, cửa cái đều gài then kín đáo.

 

Khi bị đánh thức th́nh ĺnh như vậy, chị tá điền nghĩ rằng việc cảnh cáo là một giấc mơ. Tuy nhiên, chị cũng đứng lên, nh́n quanh để chắc rằng mọi việc đều b́nh thường. May thay, vừa khi mở một cánh cửa, chị thấy trên trời ánh sáng đỏ rực của đám cháy ở gần đó. Chị lập tức đánh thức chồng cùng những người trong gia đ́nh, và nhờ được báo trước kịp thời họ t́m một chỗ ẩn núp gần đó, trước khi đám cướp dă man kéo đến. Chúng nó phá hủy căn nhà và tàn phá cả đồng ruộng, nhưng số người mà chúng muốn t́m đă thoát khỏi. Người ta thấu hiểu được ḷng đạo nghĩa của vị cứu trợ một thời gian sau, khi đọc trong một tờ báo kể chuyện về gia đ́nh được trời giúp thoát khỏi hiểm nguy trong cuộc bạo loạn. 

 

 

CHƯƠNG 7

 

 Câu chuyện thiên thần 

 

Một trường hợp can thiệp khác ở cơi trần vừa mới xảy ra, câu chuyện thật là cao đẹp mặc dầu lần nầy chỉ có một người được cứu. Thiết nghĩ cũng cần nói vài lời để giải thích. Trong số những vị cứu trợ của chúng ta ở Âu Châu, có hai vị, tiền kiếp là anh em ruột thời cổ Ai Cập, đến nay vẫn c̣n liên kết với nhau một cách mật thiết. Trong kiếp hiện tại, tuổi của hai người cách biệt nhau quá nhiều. Một người đă quá trung niên, người kia c̣n là đứa trẻ nhỏ, tưong đối về xác thịt, nhưng linh hồn đă tiến hóa  khá cao và nhiều hứa hẹn. Lẽ tự nhiên là người già lănh phận sự rèn luyện và chỉ đạo người trẻ trong công việc bí truyền mà họ rất quan tâm. Cả hai đều hoàn toàn thức tỉnh và linh hoạt ở cơi trung giới, nên họ dùng hết những giờ mà xác thân họ ngủ để cùng nhau làm việc, dưới sự chỉ đạo của sư phụ chung của họ, để giúp đỡ những người sống và người chết tùy theo khả năng. Tôi kể ra đây theo lời tường thuật trong đoạn văn trích trong một bức thư do vị lớn tuổi trong hai vị cứu trợ ấy viết, ngay sau câu chuyện xảy ra. Lời mô tả trong thư thật là sống động và thú vị mà một người không liên hệ chẳng bao giờ viết lại được:

 

Chúng  tôi sắp chăm lo các công việc khác, th́ Cyril bỗng la lên “Cái ǵ đó vậy?. ” Bởi v́ chúng tôi vừa nghe một tiếng kêu ghê gớm, tiếng kêu do sự đau đớn hay là kinh sợ. Một lát sau, chúng tôi đến nơi để t́m kiếm, th́ gặp một bé trai chừng 11-12 tuổi, bị té từ trên dốc cao xuống những tảng đá và bị thương rất nặng. Em bé khốn khổ bị găy một tay và một chân, nhưng điều nguy nhứt là ở vế bị một vết cắt kinh khủng, máu chảy tràn ra. Cyril la lớn “Hăy mau giúp nó, nếu không nó sẽ chết.” Trong những tai nạn như thế, cần phải suy nghĩ thật lẹ làng. Cố nhiên là có hai việc phải làm là cầm máu lại và phải có một sự giúp đỡ hữu h́nh. Hoặc tôi phải làm cho Cyril hiện h́nh, hoặc tôi phải tự hiện h́nh, bởi v́ cần phải lập tức có một bàn tay hữu h́nh thật sự để siết chặt một tấm vải băng và ngoài ra, dường như sẽ có lợi trong t́nh trạng đau đớn nầy nếu em bé khốn khổ thấy được có người ở bên cạnh nó. Tôi cảm thấy Cyril hiện h́nh ra sẽ thuận lợi nhiều hơn tôi, và đồng thời, chắc chắn là tôi sẽ kiếm được người giúp đỡ hơn là Cyril. Vậy là sự phân công đă xong, chúng tôi bắt tay ngay vào việc.

 

Lập tức tôi làm cho Cyril hiện h́nh, (v́ tự nó chưa làm được một ḿnh) và bảo nó lấy cái khăn quàng cổ của em bé để quấn chung quanh bắp vế và vặn chặt lại với một que cây. Cyril nói “Như thế sẽ làm cho nó đau ghê gớm.” Tuy nhiên nó cũng làm theo và máu ngưng chảy. Em bé bị thương dường như nửa mê nửa tỉnh và lời nói yếu ớt, nhưng nó trực nh́n lên h́nh dáng nhỏ bé sáng chói đang cúi xuống ḿnh nó một cách lo âu, nó hỏi “Thưa ông, có phải ông là một thiên thần?” Cyril mỉm cười “Không, tôi chỉ là một đứa bé đến đây để giúp em.” Lúc ấy tôi để Cyril an ủi kẻ bị thương, tôi đi thật nhanh kiếm mẹ nó đang ở cách xa đó lối chừng một dặm. Các bạn không thể nào biết được sự khó khăn mà tôi phải cố gắng để đưa vào đầu óc của người đàn bà nầy niềm tin chắc rằng đă có một việc ǵ xảy ra, và bà cần phải đến. Rốt lại, bà bỏ rơi cái xoong mà bà đang chùi rửa và nói lớn lên rằng “Không biết có chuyện ǵ xảy đến cho con tôi, nhưng tôi cần phải đi kiếm nó.” Một khi bà đă đi, tôi có thể điều khiển bà không khó khăn lắm, nhưng đồng thời tôi cũng liên tục dùng sức mạnh ư chí để làm vững chắc sự hiện h́nh của Cyril, v́ sợ rằng vị “thiên thần” của em bé khốn khổ lại biến mất trước mắt nó.

 

Cần phải nói rơ với các bạn là trong khi hiện h́nh, nghĩa là biến hóa thành một xác thịt thực sự, người ta phải biến đổi vật chất ở trạng thái tự nhiên thành ra chất khác, cũng có thể nói là người ta làm ngăn trở nhất thời ư chí của vũ trụ. Hễ xao lăng một giây th́ vật chất sẽ trở lại h́nh trạng ban đầu lẹ như chớp. Vậy tôi chỉ có thể dùng phân nửa sự chú tâm của tôi để dắt dẫn cho người đàn bà đi tới, và khi bà đi quanh dốc đá, tôi để cho Cyril biến mất. Nhưng bà đă kịp thoáng thấy h́nh dạng của Cyril, và bây giờ dân làng ấy có thêm một câu chuyện hấp dẫn về sự cứu trợ của thiên thần.

 

Tai nạn xảy ra hồi sáng sớm, và chiều lại tôi xuất vía đi viếng gia đ́nh nầy để xem sức khoẻ nạn nhân ra sao. Tay và chân của em bé khốn khổ đă yên và vết đứt đă băng bó rồi. Nó nằm trên giường, rất xanh xao yếu đuối nhưng có vẻ đang dần dần b́nh phục. Hai người láng giềng ngồi bên cạnh để nghe bà mẹ kể lại câu chuyện lạ lùng có thật. Bà giải thích, không biết tại sao, th́nh ĺnh bà có cảm giác là tai họa xảy đến cho con, bà phải đi t́m nó. Ban đầu bà tưởng đó là những ư nghĩ viễn vông, và thử xua đuổi ư tưởng nầy, nhưng không được, nên bà phải đi. Bà thuật lại rằng, chẳng biết tại sao bà lại đi theo bờ dốc đá nầy chớ không đi đường khác, và khi đi ṿng một góc, bà thấy con bà nằm dựa vào tảng đá, bên cạnh nó có một đứa trẻ đẹp tuyệt trần,  y phục toàn trắng và rực rỡ, đôi g̣ má hồng và cặp mắt nâu tuyệt đẹp. Trẻ ấy cười với một nụ cười thần tiên, và kế đó vụt biến mất. Ban đầu bà quá đỗi ngạc nhiên nên không suy nghĩ được ǵ. Nhưng th́nh ĺnh bà hiểu được và quỳ gối xuống để tạ ơn Trời đă gởi đến một vị thiên thần để giúp đỡ đứa con khốn khổ của bà. Bà kể tiếp, khi đỡ em bé lên để bồng về nhà, bà muốn mở cái khăn đă xiết quá chặt vào chân, nhưng nó ngăn lại và nói rằng, khi thiên thần cột lại có dặn nó đừng động đến chỗ đó, và sau nầy, khi thuật chuyện đó cho bác sĩ nghe th́ được giảng giải rằng nếu bà mở nút dây th́ chắc chắn con bà phải chết v́ mất nhiều máu.

 

Kế đó bà mẹ thuật đến chuyện của em bé. Liền sau khi nó ngă xuống, vị thiên thần nhỏ và đẹp đến ngay. Ấy là một vị thiên thần, nó tin vậy, v́ trước đó nó không hề thấy ai lảng vảng trong ṿng một dặm. Có điều nó không hiểu được là tại sao thiên thần không có cánh, và lại xưng rằng, chỉ là một bé trai. Thần để nó dựa vào tảng đá và bó cái chân đau, kế đó nói chuyện với nó, bảo nó đừng sợ, v́ có người đi t́m mẹ nó, sắp đến nơi. Thần đă hôn nó và làm đủ cách cho nó được yên tâm, nắm tay nó trong bàn tay nhỏ bé, mềm mại, ấm áp và thuật cho nó nghe những chuyện kỳ diệu, đẹp đẽ mà nó không c̣n nhớ rơ, nhưng thật là thú vị, làm nó quên đi các vết thương cho đến khi gặp được mẹ nó. Thiên thần lại quả quyết rằng, nó sẽ chóng lành bệnh và siết chặt tay nó rồi biến mất.

 

Từ đó một sự phục hưng về tôn giáo đă nẩy nở trong làng. Vị mục sư nói với mọi người rằng, có một sự can thiệp thiêng liêng của đấng Hóa Công, và đó là một dấu hiệu mà Ngài muốn quở trách những kẻ nhạo báng và cũng để chứng minh chân lư của thánh kinh Cơ Đốc Giáo. Thật ra dường như không ai hiểu được ḷng tự phụ to lớn của lời xác định lạ lùng nầy ám chỉ. Nhưng kết quả xảy đến cho em bé thật tốt đẹp, không thể chối căi được, về mặt đạo đức cũng như vật chất. Lúc trước nó là đứa bé cẩu thả, ham chơi, nhưng bây giờ, nó luôn có cảm nghĩ là vị thiên thần đó có thể ở gần bên nó bất cứ lúc nào, có thể thấy hoặc nghe, nên nó không bao giờ dám làm hoặc nói điều ǵ hung tợn, thô lỗ hay giận dữ. Điều ước muốn lớn lao duy nhất là một ngày kia nó được gặp lại vị thiên thần, và nó biết rằng khi nó chết, vị thiên thần duyên dáng sẽ đón chào nó trước tiên ở thế giới bên kia.

 

Đó là một chuyện ngắn đẹp đẽ và cảm động. Điểm đạo đức mà dân làng và vị mục sư rút tỉa ra được từ biến cố đó có thể là một kết luận không hợp lư, nhưng ít ra cũng là cái bằng chứng đem đến cho cuộc sống hiện tại biết là có một thế giới khác ngoài cơi vật chất nầy, và chắc chắn nó đem lại lợi ích hơn là tai hại. Sau hết, kết luận của bà mẹ về những điều bà thấy đều hoàn toàn đúng đắn, tuy nhiên nếu có chút ít kinh nghiệm, bà sẽ diễn tả sự kiện một cách khác đi một chút. Một điều thú vị mà tác giả của bức thư nầy nghiên cứu, đă cho thấy câu chuyện nầy có một nguyên nhân ẩn tàng bên trong. Các sự sưu tầm đă chứng minh là hai đứa trẻ đă có gặp nhau cách đây vài ngàn măn trước. Đứa trẻ ngă ở dốc đá, khi xưa là kẻ nô lệ của đứa trẻ kia (Cyril), một ngày nọ đă liều thân ḿnh để cứu mạng sống cho chủ nó. Nhờ hành động xứng đáng nầy nó được giải phóng. Ngày nay, người chủ chẳng những đă trả ơn cho kẻ nô lệ xưa mà c̣n làm nảy sinh trong trí nó những lư tưởng cao thượng, để đưa nó đến một đời sống đạo đức và phương hướng hoàn toàn mới mẻ trong cuộc tiến hóa tương lai. Mặc dầu sự tác động có vẻ chậm chạp, nhưng chắc chắn nhân quả không bao giờ quên tưởng thưởng một hành động tốt đẹp nào, và “Nếu những cối xay của Thượng Đế xay chậm chạp th́ tự nhiên bột được xay ra thật mịn màng. Nếu Ngài nhẫn nại để chờ đợi th́ tất cả sẽ được xảy ra đúng đắn.”

 

 

CHƯƠNG 8 

 

Câu chuyện hỏa tai 

 

Một câu chuyện khác cũng của bé Cyril trong sự cứu trợ một em bé khỏi một đám cháy tưong tự như câu chuyện đă kể ở phần đầu quyển sách. Đêm nọ, Cyril và người bạn thân lớn tuổi, trong khi cùng đi thi hành công việc thông thường của họ, trong thể vía, thấy phía dưới họ có ánh sáng kinh hồn của một đám cháy lớn. Hai người lật đật hạ xuống, để xem có thể giúp được ǵ chăng! Nơi bị cháy là một lữ quán to lớn nằm bên bờ hồ rộng. Ṭa dinh thự nầy gồm có nhiều tầng, làm thành ba cạnh của một h́nh vuông, bao quanh một cái vườn trồng cây và hoa, c̣n cạnh thứ tư là bờ hồ. Hai dăy hai bên chạy thẳng tới bờ hồ, ở cuối dăy có chừa khoảng trống nhưng vách nhô ra gần mé nước, cho nên mổi phía chỉ c̣n lại một lối đi chật hẹp.

 

Dăy mặt tiền và hai dăy hai bên xây chung quanh những hầm chứa những cái lồng của thang máy. V́ thế từ đầu, lửa lan ra rất mau lẹ. Trước khi các bạn chúng ta, lúc xuất vía đi ngang qua thấy được, th́ những tầng lầu giữa của ba dăy nhà to lớn nầy đều cháy. Ngoại trừ một em bé trai, những người khác ở lữ quán đều may mắn thoát được ra ngoài, dù có nhiều người bị phỏng nặng.

 

Em bé bị bỏ quên trong một căn pḥng ở tầng cao nhất của dăy bên trái; cha mẹ nó bận đi dự một dạ yến và không ngờ có cuộc hỏa hoạn, và gần như không ai nhớ đến em trước khi lửa đă lan khắp các tầng giữa của dăy nhà đến nỗi không thể làm ǵ để cứu được em bé, v́ pḥng của nó hướng về khu vườn ở phía trong. Ở ngoài không c̣n cách nào để vào tiếp cứu được. Vả lại, nó không nhận thức sự nguy hiểm được nữa, v́ khói dầy đặc và hơi ngộp  dần dần xâm chiếm cả căn pḥng, khiến nó càng ngủ say, gần như hôn mê.

 

Dường như Cyril bị thu hút bởi đám trẻ cần sự trợ giúp, khi chúng gặp sự nguy hiểm hăm dọa, nên Cyril đến vừa đúng lúc. Ban đầu, Cyril thử nhắc đám dân ở lữ quán là c̣n sót một em bé, nhưng vô ích. Vả lại, khiến cho họ lo cứu em bé cũng khó và chắc chắn là mất thời giờ vô ích. Người lớn tuổi liền làm cho Cyril hiện h́nh ra cũng như mấy lần trước, bảo Cyril đánh thức em bé dậy và làm cho nó tỉnh táo. Cyril phải cực nhọc mới làm cho nó hơi tỉnh lại, nhưng nó vẫn c̣n bối rối và vô thức,  đến nỗi phải đẩy và kéo nó đi, phải dẫn đường và trợ lực nó mỗi khi đổi hướng.

 

Hai đứa nắm tay ḅ từ pḥng ra hành lang, khi đó thấy khói và ngọn lửa đă bắt đầu cháy ngang ván sàn, làm cho thân xác không thể nào đi ngang qua được. Cyril lại dắt nó vào trong một pḥng, rồi chui ra cửa sổ và đặt nó trên bệ cửa bằng đá, sát phía dưới các cửa sổ. Trên bệ cửa nầy, Cyril dắt bạn nó đi, c̣n Cyril phải vừa đi dựa vào bệ cửa, vừa đi phất phơ trên không, nhưng luôn ở phía ngoài em bé để ngừa cho bạn nó khỏi chóng mặt và sợ té.

 

Đến gần cuối dăy nhà, gần hồ nước, lửa dường như ít cháy hơn, hai trẻ mới leo vô qua một cửa sổ mở, vào hành lang, mong rằng sẽ đến được một cái thang ở cuối dăy. Nhưng cái thang đă bị tràn ngập lửa và khói. Chúng nó liền quay trở lại, ḅ dọc theo hành lang. Cyril khuyên bạn nên để miệng gần sát ván sàn cho đỡ ngộp, và chúng nó đến một cái lồng của thang máy có song thưa ở chính giữa ngôi nhà.

 

Dĩ nhiên là thang máy ở phía dưới, nhưng nhờ lưới sắt phía trong cái lồng, chúng nó leo xuống được tới nóc thang máy. Ở đây chúng nó thấy bị kẹt lại, nhưng may mắn Cyril t́m được một cái cửa đi từ lồng thang máy vào phía trên của tầng nhà ở sát mặt đất. Nhờ lối ra nầy, chúng nó đi đến hành lang th́ em bé đă gần ngộp thở. Kế đó chúng nó đi ngang qua một cái pḥng đối diện và trèo qua một cửa sổ ra mái hiên của tầng trệt, kế bên vườn cây.

 

Sau đó, chúng ôm những cây trụ và tuột xuống vườn. Ở đây, lửa cũng rất nóng và c̣n nguy hiểm v́ vách tường có thể đổ xuống bất cứ lúc nào. Vậy Cyril phải dắt kẻ bị nạn lại đầu của một dăy nhà để ra, nhưng cả hai đầu ngọn lửa đă tràn ngập và những lối đi hẹp ở đây đă hoàn toàn tắc nghẽn. Cuối cùng chúng nó bước xuống một trong những chiếc thuyền nhỏ đang đậu tại bực thang đi xuống mé nước, ở cuối vườn. Chúng nó mở dây thuyền và chèo ra khỏi bờ.

 

Cyril muốn chèo ṿng qua phía bên kia dăy nhà cháy để đưa em bé vào bờ, nhưng vừa chèo ra khỏi bến th́ gặp một chiếc tàu hơi chạy đến, đó là tàu đưa khách ở hồ nầy. Người trên tàu thấy được hai đứa trẻ nên cặp sát chiếc thuyền để cứu hai em bé lên tàu, nhưng thủy thủ chỉ c̣n thấy có một đứa thay v́ hai đứa. Bởi v́ người bạn lớn tuổi đă lật đật làm tan chất đặc mà anh ta đă tạm thời dùng để làm xác thân cho Cyril, để nó trở lại thể vía vô h́nh.

 

Dĩ nhiên người ta cũng t́m kiếm kỹ nhưng không thấy dấu tích ǵ của em bé thứ hai. Họ kết luận rằng nó đă rơi xuống nước và chết ch́m khi chiếc thuyền cặp vào tàu. Đứa nhỏ vừa được cứu lên tàu an toàn th́ nó ngất lịm, khi tỉnh lại nó cũng không giải thích được ǵ cho người ta hiểu, nó chỉ nói là nó c̣n thấy đứa trẻ ấy khi tàu cặp lại gần nhưng không biết ǵ hơn nữa. Tàu phải đi đến một địa điểm trên bờ hồ cách xa nơi ấy chừng hai ngày đường, v́ thế gần một tuần lễ sau em bé mới được trao trả lại cho cha mẹ nó, khi ông bà tưởng con ḿnh đă bị chết thiêu trong ngọn lửa. Cyril cũng có thử đưa vào trí của hai ông bà tư tưởng là con họ đă được cứu sống, nhưng vô hiệu. Chúng ta hăy tưởng tượng xem họ vui đến mức nào khi gặp lại con.

 

Bây giờ em bé đă khoẻ mạnh, sung sướng và không thấy chán khi thuật lại chuyện lạ lùngcủa nó. Nó thương tiếc măi người bạn tốt của nó, v́ cái chết bí mật của bạn nó xảy ra khi các mối nguy hiểm đă qua. Đúng ra, nó đă cố gắng suy nghĩ xa gần là bạn nó không thể chết được, đó có thể là một vị thần tiên, nhưng ư tưởng nầy chỉ khiến cho những người lớn tuổi ph́ cười. Sự nối kết nhân quả giữa em bé với người cứu giúp nó chưa được khảo sát, nhưng có thể nó đă được tạo thành ở một nơi nào đó.


CHƯƠNG 9 

 

Sự hiện h́nh và hậu quả của nó 

 

Trước các sự kiện đă thấy ở trên, độc giả thường hỏi: vậy người cứu trợ vô h́nh có được an toàn giữa các mối nguy hiểm chết người ấy không? Thí dụ, khi cậu bé hiện h́nh ra để cứu một em bé khác ra khỏi gian nhà đang cháy, không sợ nguy hiểm đến tánh mạng hay sao? Phải chăng thể xác của cậu không bị tổn thương trong trường hợp mà  h́nh thể hiện ra phải đi xuyên qua ngọn lửa, hoặc bị rơi từ mái hiên dốc đứng mà cậu đi vững vàng ở ngoài mé như thế. Chúng ta biết rằng trong nhiều trường hợp, h́nh thể hiện ra và xác thịt có những sự liên quan khá mật thiết, để có thể bị hậu quả tai hại, vậy trong trường hợp nầy th́ sao?

 

Vấn đề hậu quả tai hại thật mờ mịt và khó khăn. Chúng ta chưa thể giải thích hoàn toàn những hiện tượng thật phi thường. Thật ra phải hiểu những luật lệ chi phối các sự rung động phát khởi đồng cảm, cùng lúc ở trên nhiều cơi mới có thể có ư niệm hoàn toàn. Tuy nhiên, bằng sự quan sát, chúng ta có thể biết trong vài t́nh trạng th́ sự hiện h́nh được cho phép và trong những t́nh trạng khác th́ ngược lại. Muốn hiểu rơ tại sao, trước hết chúng ta phải nhớ là ít nhất cũng có ba cách thức hiện h́nh khác nhau, người nào không có chút ít kinh nghiệm về thần linh học nên để ư điểm nầy. Nơi đây tôi không giảng giải chi cả về cách thực hành của mỗi loại  hiện h́nh, mà tôi chỉ nói sự hiện h́nh là một việc không nghi ngờ được.

 

1- Trước hết là sự hiện h́nh mà mắt thường không thấy được, nhưng có thể sờ đụng được. Về loại nầy những bàn tay vô h́nh thường hay siết tay bạn hoặc vuốt ve mặt bạn trong một buổi chiêu hồn, hoặc có khi dời những món đồ từ chỗ nầy qua chỗ khác, hay đập gơ trên mặt bàn. Đôi khi những hiện tượng đập gơ trên mặt bàn có thể thực hiện dễ dàng  mà không cần đến bàn tay của thể xác.

 

2- Kế đến là sự hiện h́nh cho thấy được nhưng không sờ được, quơ tay qua h́nh dạng đó cũng như quơ ngang qua không khí. Trong vài trường hợp h́nh hiện ra giống như hơi nước. Trong những trường hợp khác, h́nh dáng hiện ra hoàn toàn như b́nh thường, cho đến sự vững chắc của nó cũng không chút ǵ đáng nghi ngờ, nhưng không sờ được.

 

3- Sau hết là sự hiện h́nh toàn vẹn, vừa thấy được vừa sờ được. Chẳng những nó giống hệt người bạn quá cố của chúng ta, mà lại c̣n bắt tay chúng ta một cách ân cần với ḷng quyến luyến truyền cảm thật sự qua chúng ta.

 

Có những bằng chứng cho thấy trong những điều kiện nhất định th́ sự hiện h́nh loại thứ ba nầy đem lại một số hậu quả không tốt, nhưng chắc chắn là ít xảy ra hậu quả trong các loại hiện h́nh thứ nhất hay thứ nh́. Trường hợp hiện h́nh của cậu bé trong câu chuyện không thuộc loại thứ ba, bởi v́ phải thật cẩn thận, không tiêu dùng quá nhiều năng lượng cần thiết để đạt được kết quả đ̣i hỏi, cho nên có thể nói nó thuộc vào loại hiện h́nh thứ nhứt và thứ nh́. Có thể là chỉ có cánh tay vịn đứa nhỏ là rắn chắc và sờ đụng, c̣n các phần khác của xác thân tuy thấy h́nh dáng như thật nhưng sờ th́ không đụng.

 

Ngoài những vấn đề trên, c̣n một điểm khác đáng được chú ư. Để thực hiện sự hiện h́nh toàn vẹn cần phải gom những chất liệu vật chất dùng cho mục đích nầy từ một người khác. Trong những buổi chiêu hồn thuật th́ phần lớn chất liệu nầy được rút ra từ thể phách, cũng có khi từ xác thịt của người lên đồng. Trong vài cuộc khảo sát, người ta nhận thấy trọng lượng của người lên đồng bị sút giảm rất nhiều trong lúc đang có sự hiện h́nh. Những thực thể nơi cơi trung giới dùng phương pháp nầy để hiện h́nh v́ xác thân của người đồng là phương tiện gần gũi, dễ dàng nhất để cho họ dùng. Do đó có sự liên quan mật thiết giữa xác đồng và h́nh thể hiện ra. Chúng ta chưa hiểu được một cách rơ ràng về hiện tượng được gọi là sự phản động nầy. Thí dụ, nếu người ta thoa phấn trên bàn tay của h́nh hiện ra, th́ người ta sẽ thấy vết phấn đó ở trên tay của đồng tử, mặc dầu đồng tử bị nhốt kỹ trong một căn pḥng khác và được giữ ǵn cẫn thận để tránh sự gian dối. Bất cứ một vết thương nào gây cho h́nh thể hiện ra th́ nơi xác thân của đồng tử cũng bị vết thương tại chỗ đó. Đôi khi những thức ăn mà h́nh thể hiện đă ăn, lại chạy sang qua xác thân của đồng tử, chính tôi cũng đă có dịp quan sát những sự kiện nầy.

 

Những trường hợp mà chúng tôi đă thuật lại ở những phần đầu sách th́ khác hẳn. Cyril ở cách xa xác thân của nó đang ngủ hàng ngàn dặm, như thế th́ bạn nó không thể nào mượn chất dĩ thái từ xác thân của nó được. Vả lại, qui tắc mà các đệ tử của những Chân Sư Minh Triết dùng trong việc cứu trợ, cấm hẳn sự chế phục xác thân kẻ khác dù với mục đích tốt đẹp. Hơn nữa phương pháp nầy cũng không cần thiết, v́ có những cách thức khác ít nguy hiểm hơn được những vị cứu trợ dùng mỗi khi cần phải hiện h́nh, như là làm đậm đặc lại chất dĩ thái mượn trong  không khí ở chung quanh. Thường thường các thực thể ở cơi trung giới hoạt động trong các buổi cầu hồn, không có năng lực để thực hành phương pháp nầy. C̣n đối với một sinh viên về khoa hóa học huyền bí th́ chẳng có ǵ gọi là khó khăn.

 

Hăy chú ư sự sai biệt về kết quả. H́nh thể hiện ra trong trường hợp đồng bóng liên quan hết sức mật thiết với xác thân, nó được cấu tạo bằng thể chất rút ra từ xác thân của người đồng và như thế gây nhiều hậu quả tai hại. Trong trường hợp của vị cứu trợ, nhờ xử dụng  năng lực tinh thần rút ra những chất liệu không có liên quan đến xác thân, nên không gây phản ứng ǵ lên trên xác thân, cũng như một h́nh tượng bằng cẩm thạch tiêu biểu cho con người. Sự kiện đó cho thấy tại sao đi ngang qua các ngọn lửa hoặc rơi từ mái hiên cao không gây nguy hiểm ǵ cho cậu bé cứu trợ, và trong một hoàn cảnh khác, một nhân viên của nhóm cứu trợ trong khi hiện h́nh, lặn xuống nước theo một chiếc tàu ch́m mà không thiệt hại ǵ đến xác thân.

 

Trong hai trường hợp được thuật lại ở trên, chúng ta thấy là Cyril không thể tự ḿnh hiện h́nh được, mà người khác làm cho nó hiện h́nh. Nhưng có một lần do ḷng thương xót tột độ và ư chí mạnh mẽ mà Cyril tự hiện h́nh được. Trường hợp nầy tương tự chuyện đă kể về một người mẹ, nhờ t́nh thương yêu quá mạnh, nên hiện h́nh ra được để cứu mạng sống của các con. Sự kiện nầy thật khó giải thích, nhưng trong thiên nhiên, quyền năng phi thường của ư chí hoạt động được trên vật chất của tất cả các cơi, không c̣n làm cho ta nghi ngờ nữa. Thật vậy, nếu ư chí đủ mạnh, chúng ta sẽ có thể trực tiếp thực hiện được bất cứ điều ǵ mà không cần phải có sự hiểu biết, cũng không cần nghĩ về phương thức để làm công việc đó. Chúng tôi có rất nhiều bằng chứng cho thấy rằng cái quyền năng ư chí nầy đóng một vai tṛ quan trọng trong sự hiện h́nh. Mặc dầu theo thường lệ, sự hiện h́nh là một nghệ thuật, cũng giống như các nghệ thuật khác cần phải học mới biết được. Chắc chắn là một người b́nh thường ở cơi trung giới không thể nào hiện h́nh được, nếu không có học tập trước, cũng như một người b́nh thường ở cơi nầy không thể chơi được vĩ cầm mà không chịu học tập từ trước. Nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ, như câu chuyện được kể sau đây.


CHƯƠNG 10 

 

Hai anh em 

 

Câu chuyện nầy đă được đăng trong tạp chí The Theosophical Review, tháng 11 năm 1897, trang 229, do một tác giả có tài năng về kịch bản hơn tôi, với những chi tiết dồi dào, không thể kể hết ra đây được. Đề nghị bạn đọc nên xem bản tường thuật nầy, v́ câu chuyện tôi kể ra đây chỉ là bài tóm lược, vắn tắt, chỉ đủ diển tả rơ ràng sự việc xảy ra mà thôi. Những tên họ được kể ra đây chỉ là tạm đặt ra, nhưng những sự việc được tường tŕnh một cách xác thực, tỉ mỉ.

 

Có hai anh em, con của một gia đ́nh thượng lưu ở miền quê tên là Lancelot, 14 tuổi, và Walter, 11 tuổi. Đó là hai cậu trai trẻ nhiều nam tính, khoẻ mạnh b́nh thường giống như nhiều trẻ khác trong vùng đất thơ mộng nầy. Chúng không biểu lộ những đặc tính tâm linh ǵ rơ ràng, ngoại trừ chúng mang ḍng máu của giống dân Celt. Điều đặc biệt nhất có lẽ là t́nh thân ái thâm sâu kết hợp chúng nó lại, chúng nó không hề rời nhau. Không đứa nào bằng ḷng đi đâu mà không có đứa kia, và đứa em coi anh nó như là thần tượng duy nhất trong ḷng nó.

 

Vào một ngày không may nọ, Lancelot cỡi con ngựa tơ của nó, và bị té chết. Từ đó, đối với Walter, thế gian nầy dường như trống rỗng. Đứa trẻ đau khổ cùng cực, đến nỗi nó không ăn ngủ được. Mẹ nó và bà vú không c̣n biết làm cách nào khác hơn. Nó không nghe lời khuyên lơn, cũng như bất cần lời khiển trách. Khi người ta nói với nó rằng sầu năo là có tội, và anh nó đă ở trên cơi trời, th́ nó trả lời rằng không chắc là được như thế, và nếu đúng như vậy th́ nó biết là Lancelot sẽ không sung sướng ở trên trời khi thiếu nó, cũng như nó ở dưới đất thiếu Lacelot.

 

Việc này dường như không thể tin được, nhưng đứa trẻ khốn khổ phải chết v́ ưu sầu. Điều làm đau ḷng thêm nữa là Walter không ngờ rằng anh nó luôn luôn ở bên nó, hiểu sự đau khổ của nó. Chính Lancelot (người anh đă chết) cũng rất rối trí v́ sờ mà không đụng, nói mà em nó không nghe được. T́nh cảnh đáng thương nầy vẫn tiếp tục đến tối ngày thứ ba, sau khi tai nạn xảy ra. T́nh trạng của hai anh em nầy thu hút sự chú ư của Cyril, chính nó cũng chẳng giải thích được tại sao. Cyril nói: “T́nh cờ tôi đă đi qua chỗ đó”. Nhưng chắc chắn là do ư chí của những vị Chân Sư từ bi đă hướng dẫn nó lại đó. Bé Walter khốn khổ đă nằm liệt giường, kiệt sức nhưng không ngủ được. Nó cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng, mặc dầu người anh đau khổ của nó vẫn ở bên cạnh nó. Lancelot đă thoát khỏi những chướng ngại của xác thể, có thể thấy và nghe được Cyril. Vậy là phải bắt đầu làm giảm sự đau khổ của nó bằng sự thân thiện và giúp cho nó phương cách để tiếp xúc với em nó.

 

Khi Cyril đă làm cho đứa trẻ đă chết lạc quan và hy vọng rồi, nó trở lại đứa trẻ c̣n sống, và dùng tất cả sức ḿnh để ghi vào trí óc của Walter cái ư tưởng là anh nó hiện ở tại đó, đă không mất mà vẫn như xưa, sinh khí dồi dào và đầy ḷng nhân ái. Nhưng tất cả cố gắng của nó điều vô ích. Sự lănh đạm nặng nề v́ sầu thảm đă chế ngự cả tâm trí của Walter khốn khổ, đến nỗi không lời khuyến dụ nào xen vào được, và Cyril cũng không c̣n biết phải làm sao nữa. Đứng trước cảnh trạng năo ḷng nầy, Cyril cảm thấy một mối xúc động phi thường, một t́nh thân ái nồng nhiệt, nó quyết định phải giúp đỡ bằng mọi cách, cho dù phải xử dụng tất cả sức lực cần thiết, rồi tự nhiên nó bỗng hiện h́nh ra được. Nó nắm tay Walter và nói chuyện với đứa trẻ đang sầu khổ nầy. Cho đến ngày nay, nó cũng không hiểu tại sau nó hiện h́nh ra được.

 

Không để ư đến câu hỏi của Walter hỏi nó là ai và đến đây bằng cách nào, Cyril đi ngay vào vấn đề, nói cho Walter biết là anh của nó hiện ở tại đây, kế bên nó. Cyril cố gắng làm cho Walter hiểu bằng cách lập đi lập lại sự bảo đảm là Lancelot không chết, mà đang sống và tha thiết muốn giúp đỡ và khuyên giải nó. Bé Walter cũng muốn tin như vậy lắm, nhưng đối với nó chỉ là sự hy vọng. Cuối cùng, sự nhiệt tâm và cố nài của Cyril đă thắng được sự nghi ngờ của cậu bé. Nó nói: “À! Tôi tin anh, v́ anh tử tế quá! Nhưng nếu tôi thấy được anh tôi th́ tôi mới tin được! Nếu tôi có thể nghe tiếng của anh tôi nói rằng anh đang hạnh phúc, th́ dù có cách xa anh, tôi cũng chẳng sao!”

 

Mặc dù kinh nghiệm c̣n hữu hạn, Cyril cũng hiểu nguyện vọng làm cho Lancelot hiện h́nh rất ít khi được chấp thuận. Thật là miễn cưỡng, khi nó phải nói cho Walter hiểu rơ điều ấy. Nhưng th́nh ĺnh nó cảm nhận một sự ‘Hiện Diện’, cảm giác nầy những người cứu trợ đều biết, và tuy không có một tiếng nói nào thốt lên, nhưng trong trí nó tiếp nhận được ư tưởng là thay v́ nói với Walter như nó định nói, nó nên hứa rằng cái đặc ân do tâm thành của em sẽ được chấp nhận. Cyril nói: “Hăy đợi tôi trở lại, và chừng đó em sẽ được thấy anh ấy” rồi nó biến mất.

 

Sự tiếp xúc với Chân Sư nầy đủ chỉ cho nó biết phải làm như thế nào. Cyril vội vă ra đi để t́m người bạn lớn tuổi, đă thường dự vào các công tác cứu trợ. Vị lớn tuổi nầy chưa đi ngủ, nhưng khi nhận được sự cầu cứu khẩn cấp của Cyril, ông lật đật đi theo. Vài phút sau, họ đă ở bên giường của Walter. Ban đầu đứa trẻ tưởng là nó đă trải qua một giấc mơ đẹp mà thôi. Khi nó thấy Cyril trở lại, nó rất vui mừng và cảm động. Một lúc sau, quang cảnh lại càng cảm động hơn nữa, khi theo mạng lệnh của thầy, vị lớn tuổi làm cho bé Lancelot, lúc ấy đang nóng ḷng, hiện h́nh ra được, và kẻ sống người chết được gặp nhau, cùng nắm tay nhau một lần nữa.

 

Hai anh em vui vẻ và hạnh phúc không tả xiết. Chúng nó nói là sẽ không  buồn nữa, v́ bây giờ biết rằng sự chết không thể làm cho chúng xa nhau được. Nỗi hân hoan và sự hiểu biết làm cho chúng không ưu sầu khi nghe Cyril giải thích kỹ lưỡng, theo lời khuyên của người bạn lớn tuổi, là cuộc hội ngộ hữu h́nh đặc biệt nầy sẽ không tái diễn nữa, tuy nhiên, anh nó sẽ ở kề cạnh bên nó từ sáng đến chiều, mà nó không thấy được, rồi mỗi đêm Walter sẽ thoát ra khỏi xác thân, và có đầy đủ ư thức gặp lại anh nó.

 

 Trong khi được sự bảo đảm nầy, bé Walter khốn khổ đă kiệt sức nên ngủ ngay, và chứng minh được công việc đúng y như vậy. Mối kinh ngạc phi thường của nó là thấy cùng với anh nó bay được mau lẹ vô cùng, mà lâu nay nó không biết, chúng nó bay từ nơi nầy đến nơi kia, đến những nơi quen thuộc. Cyril đă cẩn thận cho nó biết trước là sáng hôm sau, khi thức dậy, chắc nó sẽ quên một phần lớn những sinh hoạt trên cơi trung giới, nhưng nhờ một sự may mắn hiếm có nên Walter không quên như phần đông chúng ta. Có lẽ mối cảm kích của sự hạnh phúc phi thường đă đánh thức những quan năng tâm linh ẩn tàng, vốn là đặc tính của giống dân Celt chăng? Dù sao mặc ḷng, bé Walter chẳng quên một chi tiết nào về các việc đă xảy ra.

 

Cha mẹ nó tưởng là sự buồn rầu làm cho nó hóa điên, v́ nó là người thừa tự, nên họ để ư theo dơi một thời gian lâu, lo âu về các triệu chứng khùng điên khác, nhưng không có điều ǵ  khác lạ. Ông bà lại c̣n nghĩ là nó bị bệnh thần kinh kiến chấp (monomaniac) trong lại thừa nhận là ‘điều mê hoặc’ đă cứu sống nó. Nhưng người vú già của nó (là người Thiên Chúa giáo) tin tưởng những ǵ nó nói là sự thật và cho rằng chính chúa Jesus vốn đă là nhi đồng, nên có ḷng thương xót đứa trẻ, nên khi thấy nó nằm liệt gần chết v́ buồn rầu, ngài đă gởi một vị Thiên Thần dắt anh nó từ cơi khác về gặp nó như là sự ban thưởng, v́ một t́nh yêu mạnh hơn cả sự chết. Sự mê tín b́nh dân có khi c̣n gần đúng với thực tại hơn là tánh hoài nghi của những người có học thức.

 

Câu chuyện chưa dứt nơi đây, v́ công việc tốt đẹp đă khởi đầu đêm ấy c̣n tiếp diễn măi và không thể biết được ảnh hưởng sâu xa của việc ấy đến chừng nào. Sau đó Walter vẫn giữ được tri thức liên tục giữa cơi trần và cơi trung giới. Mỗi sáng cậu bé nhớ lại đầy đủ các sự việc đă xảy ra trong đêm qua của hai anh em. Đêm nào hai anh em cũng gặp Cryril, người bạn tốt của chúng, đă dạy chúng nhiều điều trong thế giới mới lạ, kỳ diệu nầy và trên các thế giới khác cao hơn nữa. Nhờ Cyril chỉ đạo nên cả hai anh em đều trở thành phần tử nhiệt thành và tận tâm của nhóm cứu trợ. Có lẽ, trong khoảng nhiều năm nữa, khi Lancelot chưa rời bỏ cơi trung giới, c̣n nhiều trẻ em sắp sửa rời bỏ thể xác phải mang ơn bộ ba nầy, đang cố gắng chia sớt cho những kẻ khác những sự vui vẻ hạnh phúc mà chính chúng nó đă nhận được. Những đoàn viên cứu trợ mới nầy chẳng những giúp đỡ những người đă chết, mà c̣n đi t́m gặp những đứa trẻ khác đang c̣n sống ở cơi trần nhưng trong lúc ngủ có được ư thức  ở cơi trung giới. Một trong số những bạn trẻ được họ dắt đến giới thiệu cho Cyril, đă tỏ ra là một tân đồ đệ xứng đáng của nhóm cứu trợ trẻ. Em ấy cũng là một người bạn thiết trẻ trung, tốt bụng ở cơi trần.

 

Đôi khi cũng khó khăn đối với những người mới làm quen với ư niệm nầy, hiểu tại sao những đứa trẻ nhỏ có thể giúp đỡ được ở cơi trung giới. Họ cho rằng cái vía của một đứa trẻ tất nhiên chưa được tiến hóa, và linh hồn cũng phải bị hạn chế bởi t́nh trạng c̣n ấu thơ nơi cơi trung giới, cũng như nơi cơi trần. Do đó, một linh hồn như thế không thể đủ sức thi hành những công tác chính yếu mà một vị cứu trợ phải làm như: giúp đỡ hoặc trợ lực sự tiến hóa về tâm linh, trí năo và đạo lư của nhân loại được.

 

Câu hỏi đó được nêu ra, ít lâu sau khi câu chuyện nầy được đăng vào tạp chí của chúng tôi, tôi liền gởi ngay câu hỏi đó cho Cyril, để biết ư kiến của em ra sao. Nó trả lời như sau: “Thật rất đúng như lời của người đặt câu hỏi, tôi chỉ là một đứa bé, sự hiểu biết c̣n ít oi, và tôi sẽ giúp được nhiều việc hơn nữa, khi tôi được hiểu biết thêm. Tuy nhiên, bây giờ, tôi đă có thể làm được chút ít việc, v́ có rất nhiều người chưa học hỏi về Thông Thiên Học, mặc dù họ biết nhiều hơn tôi về các phương diện khác,… huynh cũng rơ,… khi huynh muốn đi đến một nơi nào đó th́ một đứa trẻ biết đường sẽ ích lợi cho huynh hơn là 100 vị bác học không biết đường hướng đến đó.”

 

Chúng tôi có thể thêm rằng, dầu đối với một đứa trẻ, sự thức tỉnh ở cơi trung giới cũng đem đến một sự phát triển cấp tốc cho cái vía của nó và chẳng bao lâu nó trở thành gần bằng với những người trưởng thành đă được thức tỉnh ở cơi nầy, tự nhiên khi đó nó có thể giúp đời rất nhiều, c̣n hơn những người thông thái mà thể vía chưa đuợc thức tỉnh. Nếu linh hồn biểu lộ trong thể xác trẻ nầy không có những phẩm chất của một đức tính vừa quyết tâm, vừa từ ái th́ không một nhà huyền bí học nào chịu lănh trách nhiệm hệ trọng trong việc làm cho nó thức tỉnh ở cơi trung giới. Khi nghiệp quả của những trẻ đă đến lúc có thể cho chúng được thức tỉnh ở cơi trung giới, thường chúng tỏ ra là những kẻ cứu trợ hữu ích nhất và làm việc một cách rất nhiệt thành. Và như vậy lời tiên tri xưa lại được xác nhận một lần nữa: “Một đứa trẻ nhỏ sẽ dẫn dắt họ.”

 

Khi đọc câu chuyện của hai anh em nầy, độc giả có thể nghĩ rằng Cyril đă tự nó có thể hiện h́nh được v́ nhờ sức mạnh của t́nh thương, ḷng trắc ẩn và năng lực của ư chí, th́ tại sao Lancelot cũng có những đặc tính ấy và đă cố hết sức liên lạc với Walter, nhưng không được thành công. Điều đó cũng dễ hiểu v́ sự bất khả nầy là điều thông thường. Việc Cyril tự ḿnh hiện h́nh ra được mới là lạ thường. Có thể v́ Cyril có tư tuởng mạnh mẽ hơn, và nó lại có sự hiểu biết đích xác điều nó muốn làm, nó biết là người ta có thể hiện h́nh được, và biết đại khái phương thức để hiện h́nh. Trong khi đó, Lancelot tới bây giờ mới biết được những điều này.


CH Ư ƠNG 11 

 

Ngăn ngừa trường hợp tự tử

 

 

Một buổi tối trong khi tôi đang đọc bài viết trong pḥng của trụ sở Thông Thiên Học tại Adyar, trễ hơn thường lệ. Khi ấy một trong những vị cứu trợ trẻ tuổi của chúng tôi đến trong thể vía, để cùng hoạt động trong đêm như đă hẹn trước. Tôi bảo em đợi vài phút để tôi hoàn tất công việc đang làm. V́ thế em ḷng ṿng vùng kế cận một lúc rồi bay lượn trên vịnh Bengal. Em nh́n thấy một chiếc tàu hơi đang đi ngang qua, em đáp xuống tàu, nói chỉ là ṭ ṃ thôi. Nhưng ngay lúc đó một luồng khí màu xám dễ sợ của sự chán nản cực độ xông ra ngoài pḥng lái đóng kín cửa làm nó chú ư. Như em đă được chỉ dạy, đó là dấu hiệu của sự buồn rầu cực độ của một người, cần phải t́m hiểu xa hơn. Khi em vào đến pḥng lái, th́ thấy một người đàn ông trẻ đang ngồi cạnh giường, tay cầm khẩu súng. Hắn chĩa súng vào đầu hắn, nhưng lại đặt khẩu súng trở lại. Vị cứu trợ trẻ cảm thấy cần phải có hành động nhanh để giúp hắn, nhưng chưa có kinh nghiệm nên không biết làm thế nào cho đúng cách. V́ thế em lật đật bay nhanh  về pḥng làm việc của tôi và la lên một cách kích động: “Hăy đến ngay, có người sắp tự tử!”

 

Tôi ngưng ngay công việc đang làm, gieo ḿnh xuống chiếc ghế dài và bay theo em ấy ra chiếc tàu. Khi tôi nh́n thấy sự kiện như vậy, tôi quyết định ở lại chiếc tàu để giúp người đàn ông nầy. Tôi lập tức gây ấn tượng mạnh mẽ lên trí năo của người sắp tự tử rằng, Đây chưa phải là lúc cần hành động  như thế, hắn nên đợi đến giữa phiên trực, khi không c̣n bị chung quanh quấy nhiễu nữa. V́ nếu cố tôi đưa tư tưởng rằng tự tử là hèn yếu vào trí óc của hắn th́ hắn sẽ biện luận ngay, và tôi sẽ không có nhiều th́ giờ làm chuyện đó. Hắn đồng ư hoăn lại và cất khẩu súng vào hộc tủ. Tôi bảo em bé phụ tá lănh trách nhiệm canh chừng hắn, nếu thấy hắn có cử chỉ muốn mở cái ngăn tủ th́ phải cho tôi hay lập tức. Rồi tôi trở về lại với xác thân làm tiếp công việc bỏ dở, đến khi công việc có thể tạm gác lại qua ngày hôm sau. Vào khoảng 12 giờ đêm, tôi trở lại chiếc tàu để làm vững ḷng người bạn cứu trợ trẻ. Trông em ấy có vẻ rất lo lắng, dù rằng em cho tôi biết là chưa có chuyện ǵ xảy ra. Tâm trí của người đàn ông nọ vẫn c̣n có vẻ rất chán nản, rối bù v́ chưa giải quyết được ǵ. Bây giờ tôi bắt đầu t́m hiểu nguyên nhân của vấn đề làm hắn chán nản. Tôi được biết rằng hắn là một trong những thủy thủ trên tàu, hắn có tội trong sự gian lận biển thủ ngân quĩ của chiếc tàu, mà phần chắc là sẽ bị khám phá nay mai, và hắn sẽ không thể chịu đựng được hậu quả bị khinh khi. Hắn cần tiền để mua một món quà xa xỉ, đắt giá tặng cho một cô gái trẻ đẹp để lấy ḷng. Số tiền khá lớn, lấy đâu đền bù bây giờ!

 

Đây là một chàng trai trẻ, cuộc sống khá đàng hoàng trong sạch, tốt bụng và tự trọng, nhưng việc quá say mê cô nàng đă làm cho chàng phải sa vào tội lỗi. T́m hiểu thêm then chốt của vấn đề, tôi nhận thấy rằng sự chú tâm mạnh mẽ của hắn lúc đó là bà mẹ già ở nhà, người mà hắn thương yêu nhất trên đời. Tôi liền gây ấn tượng h́nh ảnh của bà mẹ vào trí năo hắn và cho hắn thấy là hành động điên rồ của hắn sẽ đưa bà đến sự buồn khổ vô hạn. Chẳng những bà bị mất một đứa con trai, mà c̣n phải ở trong tâm trạng không yên v́ lo cho số phận của linh hồn con ḿnh. Bây giờ việc cần thiết là phải t́m cách làm cho hắn thoát ra khỏi ư nghĩ dại dột đó. Tôi quan sát đến vị thuyền trưởng của chiếc tàu, thấy ông ta có một tấm ḷng rất tốt và dễ thông cảm. Tôi nghĩ có thể kêu gọi ḷng nhân từ của ông ta được. Cho nên tôi đưa vào trí của anh bạn trẻ ư tưởng là muốn tránh những đau buồn ghê gớm do sự tự tử mang lại cho mẹ, hắn có một cách giải quyết khác, là gặp vị thuyền trưởng để tŕnh bày tất cả mọi sự việc và xin được hoăn lại sự trừng phạt, để hắn có được cơ hội tỏ ra xứng đáng với ḷng nhân từ ấy. Sau cùng chàng thủy thủ hồi hộp đi đến pḥng vị thuyền trưởng. Việc làm cho vị thuyền trưởng thức dậy đúng lúc chàng thủy thủ tới cửa pḥng của ông tương đối dể dàng.

 

Chàng thủy thủ kể lại tất cả câu chuyện, và cuộc đối thoại đầy sự cảm thông xảy ra khoảng nửa giờ. Vị thuyền trưởng tốt bụng khuyên bảo chàng như một người cha đối với đứa con lầm lỡ, và vấn đề được giải quyết êm xuôi. Vị thuyền trưởng dùng tiền riêng của ông để bù vào ngân quĩ và chàng thủy thủ trẻ sẽ trả lại dần cho ông ta. Kết quả là một sinh mạng trẻ trung đầy hứa hẹn đă được cứu sống.


CHƯƠNG 12 

 

Em bé trai bị thất lạc 

 

Có nhiều loại công việc trợ giúp khác nhau ở cơi trung giới. Sau đây là một trường hợp khác cũng do em bé mới gia nhập vào đoàn cứu trợ thực hiện, xảy ra vài ngày sau sự việc kể trên.

 

Mỗi người làm việc nơi cơi trung giới luôn luôn có một số trường hợp cần phải theo dơi thăm viếng hàng đêm. Cũng giống như một vị bác sĩ làm việc trong bệnh viện hàng ngày phải đi thăm một số bệnh nhân của ông ta. Luôn luôn có những tân đoàn viên được đặt dưới sự hướng dẫn của tôi đi trong những lúc thăm viếng nầy. Cũng giống như vị y sĩ trưởng đem theo những y sĩ trẻ để họ được học hỏi kinh nghiệm qua sự quan sát cách thức giải quyết từng trường hợp. Dĩ nhiên trước khi đi họ đă được học hỏi một số giáo huấn đặc biệt. Ngựi mới gia nhập đoàn cứu trợ cần phải trải qua những cuộc khảo hạch sự hiểu biết về đặc tính của đất, nước, gió, lửa. Người ấy phải học hỏi và thực hành thường xuyên cách phân biệt giữa h́nh tư tưởng và thực thể sống. Phải biết cách xử dụng 2401 loại nguyên tố tinh chất khác nhau. Phải học cách tự hiện h́nh và làm cho người khác hiện h́nh. Cách xử trí trong hàng ngàn trường hợp khẩn cấp khác nhau thường xảy ra. Trên tất cả, người ấy phải hiểu là trong tất cả mọi t́nh huống, không bao giờ được mất b́nh tĩnh, hoặc cảm thấy sợ hăi trước bất cứ sự việc bất thường nào xảy đến. điều kiện căn bản cho người làm việc ở cơi trung giới là luôn luôn phải nắm vững t́nh thế, dù cho bất cứ sự việc xảy ra như thế nào. Người ấy cũng phải có đầy đủ t́nh thương và nhiệt tâm sẵn sàng giúp đỡ mọi người, đây là đặc tính mà người muốn gia nhập nhóm cứu trợ phải có sẵn trước khi họ được gởi đến tôi.

 

Một đêm, như thường lệ tôi đi thăm viếng một số trường hợp. Chúng tôi đang lướt trên một vùng đồi của một làng quê đẹp đẽ. Người tân đoàn viên tháp tùng theo tôi bay lên trước, dọc theo sườn đồi, rồi quay trở lại với tôi, như thế vài lần. Đây là người bạn trẻ mà vài ngày trước đă cứu sống chàng thủy thủ. Bỗng th́nh ĺnh em quay lại một cách hối hả và cho biết em phát hiện ra một điều bất thường, em nói: có một đứa trẻ sắp chết dưới đất.

 

Tôi liền theo em đến nơi, thấy một đứa trẻ khoảng chừng 8 tuổi bị rơi xuống một cái hố to, không có ánh sáng. Trông nó có vẻ tuyệt vọng, kiệt lực v́ đói và khát. Trường hợp nầy tương tự như câu chuyện Thiên Thần được tŕnh bày ở chương 7 và h́nh như cần phải được xử trí giống như thế. Tôi làm cho vị tân đoàn viên hiện h́nh (lần nầy không phải là Cyril). Trong trường hợp nầy cần phải làm ra ánh sáng v́ trong cái hố rất tối tăm, đối với cơi vật chất. Khi đứa trẻ nửa mê nửa tỉnh nầy được đánh thức, nó rất sửng sốt khi thấy một em bé tay cầm cái lồng đèn sáng chói đang cúi xuống nh́n nó. Việc cấp bách là phải cho nó uống nước. Có một ḍng suối nhỏ gần đó, nhưng đứa trẻ kiệt lực nầy không thể đi được. Thấy không có ly, vị tân đoàn viên nhiệt thành của tôi không nghĩ đến việc đợi tôi làm ra một cái ly, em chạy vội đi lấy nước và mang lại một ngụm nước trong đôi bàn tay bé nhỏ chụm lại. Sau khi đứa bé uống được ít nước nó khá tỉnh táo hơn và có thể ngồi dậy được, và sau khi uống thêm vài ngụm nước nữa nó có thể nói được chút ít.

 

Nó nói rằng, nó sống trong đồng bằng kế cận. Để em bé cứu trợ lại với nó cho nó cảm thấy yên tâm, tôi bay lên khỏi mặt đất, nh́n chung quanh nhưng không thấy được chỗ nào giống như nó diễn tả. Tôi bèn xuống hố trở lại bảo nó cố suy nghỉ và tả kỹ h́nh ảnh căn nhà của nó. Với h́nh ảnh trong trí, tôi ra đi một lần nữa. Lần nầy tôi t́m ra căn nhà, nhưng xa hơn nhiều so với nó diễn tả. Có vài người ở trong nhà, tôi cố thử gây ấn tượng lên trí năo họ về t́nh trạng nguy kịch của đứa trẻ, nhưng bị thất bại. Không có người nào trong bọn họ dễ thụ cảm, cho nên họ không thể nhận một cách rơ ràng ư tưởng do tôi truyền đạt. Họ rất lo lắng về sự mất tích của đứa nhỏ, họ đă t́m kiếm khắp nơi và cũng gởi người đến các hàng xóm để nhóm họp lại cùng nhau đi t́m. Họ không nhận được tư tưởng của tôi có lẽ cũng do tinh thần họ đang quá lo lắng trong sự tuyệt vọng.

 

Tôi cố tiếp tục gây ấn tượng thêm một thời gian nữa, nhưng cảm thấy rất khó. Nghĩ đến t́nh trạng đói khát của đứa bé, tôi thấy không nên phí thêm thời giờ trong việc nầy nữa. Tôi t́m được ít thực phẩm trong nhà gồm ít bánh ḿ, bơ và 2 trái táo lớn, rồi dùng phương pháp giải thể tinh chất để mang đi, v́ nghỉ rằng vật thực đó thuộc về nhà của đứa bé nên nó có quyền xử dụng, cho nên lấy chút ít cũng không phải là hành động bất chính. Tôi quay trở lại cái hố và dùng phương pháp hoàn nguyên vật thể những thực phẩm ‘ăn cắp’ ấy, đưa cho em tân đoàn viên đút cho đứa bé ăn. Chỉ một lúc sau đứa bé ăn hết những thực phẩm mà tôi mang đến mà c̣n muốn ăn thêm nữa. Tôi sợ rằng sau một thời gian dài nhịn đói nếu ăn nhiều quá sẽ có hại hơn là lợi, tôi bảo em tân đoàn viên nói với nó là đă hết thực phẩm rồi, và bây giờ phải t́m cách trèo ra khỏi cái hố.

 

Tôi đề nghị em tân đoàn viên hỏi v́ sao đứa bé bị rớt vào đây. Đứa bé kể rằng, khi nó đang đi thơ thẩn quanh vùng đồi gần nhà, nó thấy một cái động nhỏ bên sườn đồi mà từ trước tới giờ nó chưa thấy. V́ ṭ ṃ nó đi tới để xem, nhưng mới đi được vài thước th́ sàn của hang động bị sụp dưới chân  nó, và nó bị rơi vào một hang sâu bên dưới. Theo lời nó kể th́ nó bị bất tỉnh một lúc, đến khi tỉnh lại th́ nó thấy tối đen không t́m ra được cái lỗ từ đó nó bị rơi xuống. Sau đó chúng tôi xem xét nơi nó bị rơi xuống, chúng tôi rất ngạc nhiên v́ cái lỗ sâu như thế mà nó chỉ bị thương nhẹ. Nhưng xem xét kỹ hơn, chúng tôi được biết rằng một lớp đất mềm đă xụp xuống theo có tác dụng như một lớp đệm bên dưới nó.

 

Chúng tôi nhận thấy rằng không thể nào mang đứa bé lên khỏi miệng hang được v́ bốn bề của hang rất trơn láng và thẳng đứng. Ngoài ra, sau khi nó bị rơi xuống đây, nó đă lần ṃ trong đường hầm nầy khoảng 2 ngày, và bây giờ cách điểm nó đă rơi xuống chừng vài dặm. May mắn thay, một lúc sau chúng tôi t́m được một lối ra gần đó, nơi mà khe suối nhỏ chảy xuyên qua hang động ra bên ngoài sườn đồi. Bây giờ đứa trẻ đă khoẻ hơn nhờ thực phẩm và nước uống, nó có thể tự bước đi được. Hai em vén những bụi cây cỏ làm rộng lối ra, vừa cho chúng ḅ ra ngoài. Sau khi ra ngoài, từ từ có thể t́m đường hướng về nhà và chúng tôi cũng hy vọng có thể ảnh hưởng được những người đang đi t́m kiếm theo hướng ấy.

 

Cha của đứa trẻ đă có một phác họa con đường đi t́m cố định trong đầu, chúng tôi khó có thể làm cho hắn đổi hướng. May thay trong nhóm đi t́m có một con chó dễ bị điều khiển, và khi con chó cắn vào vạt quần của một người nông dân, cố lôi hắn về hướng của chúng tôi, lúc đó cách họ chừng vài dặm. Người nầy nghỉ rằng có lư do nào đó, nên đi theo con vật. Đứa trẻ nài nỉ người bạn mới đi cùng với nó về nhà. Nó có vẻ đeo níu khắng khít với em tân đoàn viên, nhưng vị cứu tinh của nó phải nhẹ nhàng bảo nó rằng chuyện đó không thể được, v́ nó có công việc khác phải làm. Hai em theo nhau đến đỉnh của dăy đồi, từ đó có thể nh́n thấy cánh đồng ruộng của làng ở thung lủng bên kia. Chúng tôi nghe có tiếng kêu tên em bé, khi chắc chắn có người sắp đến, em tân đoàn viên từ giă đứa bé được cứu, nh́n theo nó chạy một cách yếu đuối về hướng của người đi t́m, rồi tôi làm cho em tân đoàn viên biến đi.

 

Đứa bé trai được cứu nầy không hề có ư nghĩ rằng người đă cứu nó không phải bằng xương bằng thịt như nó. Nó có thắc mắc và hỏi vài câu hỏi khó trả lời, nhưng em tân đoàn viên nói lảng sang chuyện đang nguy hiểm. Điều khó khăn cho nó là khi nó kể lại cho người khác nghe câu chuyện nó được cứu bởi một người trẻ lạ, không có vẻ ǵ là mục đồng ở nhà quê. Dù sao đi nữa, trường hợp nầy cho thấy rơ là không thể hoàn thành công việc cứu trợ mà không hiện h́nh.


CHƯƠNG 13 

 

Câu chuyện của Ivy

 

 

Vị nữ anh hùng trong câu chuyện nầy có tên Ivy, là một trong những đoàn viên xuất sắc của chúng tôi nơi cơi trung giới. Lúc c̣n sống ở cơi trần cô là hội viên của hội Ṿng Liên Hoa, và việc làm của cô là thí dụ điển h́nh cho hội đó. Cô thông minh, lanh lợi, có khiếu về âm nhạc, nghệ thuật, thể thao, và cô cũng là một diễn giả có tài. Nhưng trên tất cả, cô rất tốt bụng, dồi dào t́nh thương và sẵn sàng chịu đựng những rắc rối khó khăn để giúp đỡ người khác. Một người có những đặc tính như thế ở cơi trần luôn luôn là người cứu trợ tốt ở cơi trung giới. Tôi có cảm tưởng rằng cô ấy sẽ có một cuộc sống hữu ích tuyệt diệu nơi cơi trần nếu nghiệp quả của cô cho phép như thế. Nhưng trong suốt cuộc sống cô không có cơ hội làm được nhiều điều tốt như cô đă làm ở cơi trung giới sau khi cô từ trần. Tôi chỉ kể sơ lược là cô đă bị chết ch́m trong một tai nạn du thuyền. Cô đă đến thẳng với Cyril, vị ‘sư phụ’ đặc biệt của cô, ngay sau khi cô thức tỉnh trở lại. Một thời gian ngắn,  sau khi cô cảm thấy an tâm trong sự liên hệ với các bạn hữu trong nhóm, cô yêu cầu được huấn luyện làm công việc cứu trợ. Đây là một trong những  tính dễ mến của cô, dù rất khéo léo nhưng cô không khiêm tốn lắm về những ưu điểm của ḿnh. Cô muốn được chỉ dẫn chính xác công việc phải làm và rất nhiệt tâm học hỏi.

 

Cô có tính ngay thật như trẻ thơ, cô tỏ ra rất hữu dụng đặc biệt đối với  các cô gái nhỏ hơn hoặc bằng cỡ tuổi cô. Cô sốt sắng và thích công việc làm ra h́nh tư tưởng cho mọi người và cô có tài đặc biệt về phương diện nầy. Cô nhận lănh gíúp đỡ những trường hợp của những em bé bị sợ hăi ban đêm và những người bị bao vây bởi những tư tưởng kiêu căng, ganh tỵ và say mê theo cảm giác. Trong hầu hết các trường hợp, cô t́m xem vị anh hùng nào là lư tưởng, vĩ đại nhất đối với em bé, xong làm ra h́nh tư tưởng của vị anh hùng đó, và gởi đến các em bé như vị Thiên Thần bảo hộ. Trong những giờ nhất định, cô thường xuyên đi thăm tất cả các h́nh tư tưởng, giữ cho chúng luôn luôn sinh động trong công việc. Với cách thức làm việc nầy, cô đă gíúp đỡ rất nhiều em bé. Tôi biết một trường hợp cô chặn đứng căn bệnh điên vừa mới phát khởi, và trong 2 trường hợp khác, nếu không có sự chăm sóc của cô th́ sẽ bị chết sớm. Ngoài ra c̣n có nhiều trường hợp được cải thiện tốt hơn ngoài sức tưởng tượng, thật khó mà nói hết những việc tốt mà cô đă làm theo cách thức nầy.

 

Một loại công việc khác trong những hoạt động của cô là giúp đỡ những người sống mà không quên được thời ấu thơ. Nhiều trẻ em liên tục sống trong những giấc mơ màu hồng giữa ban ngày, đôi khi căn bệnh nầy được gọi là ‘tự nói chuyện với chính ḿnh’. Bé trai th́ tự tưởng tượng ḿnh là một vị anh hùng nào đó, xông pha vào những cuộc thám hiểm rùng rợn, một h́nh ảnh sáng chói trong binh đoàn hay trong các phái đoàn lực sĩ. Bé gái th́ tưởng tượng ḿnh được tôn sùng giữa đám đông những hiệp sĩ và tướng quân và nghĩ rằng ḿnh đẹp đẽ lộng lẫy trong một địa vị giàu sang quyền thế v…v… Ivy đặc biệt làm cho những giấc mơ ban ngày nầy linh động hơn, làm cho nó có vẻ hiện thực gấp mười lần hơn đối với những người mơ mộng. Nhưng cùng lúc cô làm cho nó vào khuôn khổ và hướng dẫn chúng. Dần dần cô chuyển đổi những giấc mộng ích kỷ thành vị tha, hướng dẫn cho các em tự thấy h́nh ảnh ḿnh như là những người trợ giúp hữu ích. Cô cũng hướng dẫn cho chúng tự ḿnh suy nghĩ chớ không thụ động suy nghĩ theo những ảnh hưởng bên ngoài, và như thế tính chất của chúng dần dần thay đổi hoàn toàn. “Tâm con người nghĩ điều ǵ th́ sẽ trở thành như thế,” sự kiện nầy cũng đúng đối với trẻ em. Người nào hiểu được quyền năng mạnh mẽ của tư tưởng sẽ không ngạc nhiên về nhiều điều tốt không thể kể hết đă được thực hiện bằng đường lối nầy, nhất là được áp dụng trong lứa tuổi trẻ dễ thụ cảm.

 

Ngoài những công việc đặc biệt kể trên, Ivy cũng không bỏ quên những công việc b́nh thường. Một lần kia, tôi chú ư đến một bé gái đang cảm thấy vô vị  trong thời kỳ b́nh phục kéo dài sau cơn bệnh nặng. Tôi nhờ Ivy lo hộ cho em bé, tôi tin rằng cô bạn trẻ sẽ không có th́ giờ để buồn chán trong suốt những tuần lễ nầy. Ivy thường xuyên gởi những ḍng tư tưởng tươi vui có đặc tính thu hút, những câu chuyện và những h́nh ảnh ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới, cùng với sự giải thích. Ảnh tượng của những sinh vật ở cơi trung giới cũng như ở cơi vật chất và những âm nhạc êm dịu thoát tục. Những việc ấy giúp cho em bé được vui vẻ và hiểu biết thêm.

 

Tất cả những điều tổng quát diễn tả việc làm của Ivy kể trên chỉ là để giới thiệu một câu chuyện đặc biệt mà tôi sắp kể ra sau đây. Một câu chuyện mà tôi nghĩ rằng độc giả sẽ hiểu thêm những đặc tính của nhân vật chính trong đó. Trong trường hợp nầy cô hành động rất nhiệt tâm và cảm thấy có sự thu hút vào công việc, và cuối cùng cô đă thành công.

 

Tôi sẽ kể vắn tắt câu chuyện theo thứ tự thời gian. Tôi được biết câu chuyện theo ngược ḍng thời gian, bắt đầu bằng một biến cố ở giữa câu chuyện, c̣n phần đầu, then chốt của sự việc, tôi mới được biết say nầy. Từ thuở xa xưa Ivy được sanh ra tại La Mă, là một thiếu nữ. Lúc đó cô có một người bạn học tên là Rosa. Hai cô rất thân nhau, cùng trưởng thành như không thể rời nhau được. Rosa rất đẹp, khi vừa hơn 15 tuổi th́ có một chàng trai đến với nàng. V́ quá tin chàng, Rosa đă bỏ nhà trốn đi v́ sợ bị lộ. Dù ngạc nhiên và đau buồn, Ivy vẫn chân thành đứng về phía bạn, vài lần che dấu bạn và giúp bạn trốn ra khỏi thành phố. Nhưng v́ Rosa đă tin lầm người, nàng sa vào tay kẻ sở khanh và đă chết sớm một cách thảm thương.

 

Rosa và người đàn ông trẻ trong câu chuyện trên lại tái sanh cùng một lúc vào thời Trung Cổ, lần nầy không có Ivy. Câu chuyện của hai người nầy lại tái diễn giống như kiếp trước, và một lần nữa tấm thảm kịch được lập lại.

 

Trong thời hiện tại Rosa được sinh ra trễ hơn Ivy, và ở một nơi khác. Cô không may sinh ra trong hoàn cảnh ngoại hôn, và mẹ cô đă mất sớm sau khi cô chào đời. Tôi chưa t́m hiểu được nghiệp quả xấu nào đă đưa đến những điều bất hạnh tương tự nhau trong những kiếp sống trước của cô. Câu chuyện của mẹ cô cũng rất thương tâm, và người d́ mang cô bé đáng thương Rosa về nuôi, nhưng bà không bao giờ tha thứ cái tội mà bà gán cho Rosa là nguyên nhân cái chết của người em yêu dấu của bà. Hơn nữa, bà d́ nầy lại là một tín đồ già nghiêm khắc quá sùng tín của thanh giáo. V́ thế chúng ta có thể tưởng tượng được Rosa đă phải trải qua thời thơ ấu khổ nàn như thế nào!

 

Khi Rosa lớn lên, khoảng một năm trước đây, cũng người đàn ông trẻ trong những kiếp trước lại đến với nàng. Anh chàng là một nghệ sĩ lang thang, và họ gặp nhau, thương nhau như những lần trước. Người đàn ông không phải là người xấu, cũng không có vẻ ǵ là hạng người vô lại, nhưng sức khỏe yếu ớt. Tôi nghỉ rằng lần nầy chàng sẽ cưới Rosa đàng hoàng. Nhưng cơ hội đó lại không đến được, v́ anh ta sớm bị chết trong một tai nạn, và để lại tŕnh trạng nan giải cho nàng. Nàng không biết làm sao nữa, dĩ nhiên nàng không thể đối diện bà d́ với câu chuyện như thế, và nàng đă có ư nghĩ trầm ḿnh.  Nàng để lại một lá thư báo cho người d́ về ư định của nàng, rồi đi lang thang ra ngoài với ư định ấy, nàng ngồi bên bờ sông, nh́n xuống nước mà ḷng buồn vô hạn.

 

Cũng nên biết rằng, đến lúc nầy Ivy vẫn chưa biết được điều ǵ. Nhưng đúng lúc khủng hoảng nầy, t́nh cờ cô đến đây, dĩ nhiên là trong thể vía. Nhưng tôi không tin đó chỉ là một sự t́nh cờ, mà có nguyên nhân sâu xa. Dĩ nhiên  cô không nhận ra Rosa như người bạn cố tri cách đây hai ngàn năm trước.Cô thấy Rosa đang trong t́nh trạng tuyệt vọng kinh khủng, và cảm thấy có sự thu hút mănh liệt đến nàng với ḷng thương xót tràn đầy. Trong vài tuần trước, khi thực hiện một công việc khác tôi đă dạy cho Ivy cách thức thôi miên và giải thích cho cô biết trong trường hợp chính đáng nào quyền năng nầy mới được áp dụng. Cô nhận thấy cần đem ra thực hành phương pháp nầy nơi đây, và làm cho Rosa rơi vào giấc ngủ ngay bên bờ sông.

 

Sau khi cô đă kéo Rosa ra khỏi thể xác, cô làm quen với nàng như một người bạn, cho nàng thấy cô có ḷng thiện cảm sâu xa đối với nàng. Cuối cùng cô đă thành công trong việc khuyên nhủ nàng bỏ ư định tự tử. Cả hai không biết kế đó phải làm sao, v́ thế Ivy đă vội vă đem Rosa đi t́m Cyril. Nhưng giữa lúc ban ngày Cyril đang bận hoạt động trong thể xác, cho nên không sẳn sàng để tiếp xúc ở cơi trung giới, v́ thế Ivy đem nàng đến gặp tôi, tôi liền nghiên cứu vấn đề.

 

Tôi đề nghị là trong t́nh trạng hiện tại Rosa nên trở về nhà. Nhưng nàng quyết liệt từ chối, v́ quá sợ hăi bà d́ lạnh lùng, tàn nhẫn. Bây giờ chỉ c̣n một cách là nàng phó thác cho may rủi, sống lang thang giữa chợ đời. Cho nên tôi bắt nàng hứa không bao giờ nghĩ đến sự tự tử nữa, v́ chúng tôi không thể cho phép nàng làm thế. Xem ra Rosa sẵn sàng muốn đối diện với những khó khăn khi bắt đầu cuộc sống mới. Nàng nói rằng không có ǵ khó chịu đựng hơn cuộc sống khốn khổ cũ, cho dù có bị đói. Ivy chấp nhận và nhiệt thành hứa sẽ giúp nàng, mặc dầu tôi chưa biết rơ là cô sẽ làm cách nào.

 

Chúng tôi đồng ư quyết định như vậy v́ không có cách nào khác, và Rosa được đưa trở lại thể xác bên bờ sông. Cũng may may mắn là khi nàng tỉnh lại, nàng c̣n nhớ đủ những ǵ mà giấc mộng đă kéo nàng ra khỏi tay tử thần. Nàng bắt đầu đi về phía làng kế bên, mang theo một ít tiền đủ để ngủ qua đêm trong một quán trọ rẻ tiền và mua ít thực phẩm lót dạ. Trong đêm đó Ivy lại đến với nàng, an ủi và khuyến khích nàng tiếp tục theo đuổi ư chí vững chắc trong việc đi t́m một người có thể giúp nàng nơi cỡi vật chất. Cùng lúc ấy Cyril cũng đang ngủ và Ivy đến kêu gọi sự hợp tác của nó. May mắn thay, họ t́m ra được một bà cụ nhân từ, vui tính đang sống cô đơn một ḿnh với người tớ gái trong một biệt thự nhỏ xinh xắn ở một làng cách đó vài dặm. Họ cố gắng liên tục dàn xếp cho Rosa và bà cụ gặp nhau trong giấc mộng, để họ có sự thân thích và thu hút lẫn nhau khi họ gặp nhau ở cơi trần.

 

Vào sáng hôm sau, Ivy điều khiển Rosa đi đến làng mà bà cụ đang sống. Khi đến nơi, nàng cảm thấy uể oải, chán nản và bắt đầu nhận ra rằng ḿnh chỉ c̣n vài xu dính túi và không biết phải đi đâu và phải làm ǵ! Sự lạc quan và hy vọng đă giúp nàng trong suốt ngày dài, dường như chỉ dựa vào giấc mộng! Cuối cùng v́ kiệt sức nàng ngồi xuống một chiếc ghế dài bên vệ đường, suy nghĩ miên man đến hoàn cảnh khốn khó. Chính nơi đây bà cụ đă gặp nàng và lập tức bà có cảm tưởng đây là cô gái mà bà rất yêu mến trong giấc mộng. Sự tiếp nhận lẫn nhau của hai người xảy ra thật lạ lùng và tốt đẹp. Cả hai đều ngạc nhiên sâu xa và cảm thấy rất hạnh phúc.

 

 Bà cụ đưa cô gái về ngôi nhà xinh xắn của bà, và sau khi nghe kể về nỗi khổ của nàng, bà động ḷng trắc ẩn sâu xa. Bà đề nghị cho nàng ở trong nhà và giúp đỡ nàng, ít nhất cho đến khi nàng sanh con, và cũng có triển vọng bà sẽ nhận nàng làm con nuôi. Ivy cũng đang làm việc trong chiều hướng đó, và có nhiều hy vọng thành công. Thường th́ khi Ivy đă quyết định một vấn đề ǵ, cô sẽ theo đuổi thực hiện tới cùng.


CHƯƠNG 14 

 

Những trường hợp tiêu biểu thông thường

 

 

Một trường hợp đáng buồn không thể giúp ǵ nhiều được là trường hợp của 3 em bé sống với một bà mẹ nghiện rượu. Bà mẹ nhận được ít tiền trợ cấp  cho các con của bà, nhưng bà đă quên chúng một cách đáng hổ thẹn và h́nh như bà có rất ít ḷng thương xót đối với chúng. Đứa lớn nhất chỉ mới mười tuổi. T́nh trạng tinh thần, t́nh cảm và sức khoẻ của chúng rất tệ. Những ảnh hưởng từ cơi cao hơn dường như không đến được với bà mẹ, mặc dù có nhiều cố gắng để nâng đỡ cho bản chất của bà được tốt hơn. Chỉ c̣n một điều có thể làm được là giao phó cho một người giúp đỡ ở bên cạnh giường của những đứa trẻ để ǵn giữ cho chúng khỏi bị ảnh hưởng bởi những h́nh tư tưởng đáng sợ và những thực thể thô trược bao phủ dầy đặc chung quanh bà mẹ suy đồi nầy. Cuối cùng tôi đă chỉ cho một vị tân đoàn viên cách thức tạo ra cái vỏ chắc chắn để che chở chung quanh những đứa trẻ, và xếp đặt những thực thể nhân tạo để bảo vệ chúng nó.

 

Ở Đây có sự khó khăn là các vị ngũ-hành-linh không chịu làm việc trong những điều kiện đáng ghê tởm như thế, mặc dù các vị ấy có thể bị bắt buộc phải nghe theo mệnh lệnh của vài loại nghi lễ huyền thuật, nhưng điều nầy không được chấp nhận cho người thuộc chánh đạo thi hành. Chúng tôi chỉ chấp nhận một sự hợp tác tự nguyện, chúng tôi không mong đợi những thực thể chưa được tiến hóa nhiều như ngũ-hành-linh phải tự hy sinh khi bị bắt buộc làm việc trong môi trường đáng ghê tởm đối với chúng. Những h́nh tư tưởng suông có thể được xử dụng trong bất cứ trường hợp nào. Nhưng cần sự hợp tác sống động của các ngũ-hành-linh để làm linh hoạt những h́nh tư tuởng nầy và điều nầy chỉ có thể đạt được khi các vị ấy thấy hợp lư và thoải mái trong công việc.

 

Tuy nhiên sau đó ít lâu, vấn đề tiến triển khả quan hơn do những sự cố gắng liên tục ở cơi vật chất cũng như ở cơi trung giới. Tôi rất mừng với những kết quả ít nhất là tạm thời. Hai đứa bé lớn được gởi vào nhà giữ trẻ, nhưng đứa nhỏ nhất vẫn c̣n phải ở với mẹ nó. Phần bà mẹ đă chịu gia nhập vào đoàn thể tôn giáo để được theo dơi, khuyên lơn và trong hiện tại t́nh trạng đă được cải thiện nhiều.

 

Khi làm việc ở cơi trung giới, có nhiều trường hợp cần phải được theo dơi liên tục. Vị nào muốn nhận lănh trách nhiệm ấy phải theo sát người cần được giúp đỡ và sẵn sàng hành động khi cần thiết. Thường  th́ những vị cứu trợ phải làm nhiều công việc khác nhau nơi cơi trung giới, không thể chỉ dồn hết th́ giờ vào một trường hợp riêng rẽ nào, cho nên họ thường t́m một người có liên hệ đến nạn nhân để trông chừng, và người liên hệ nầy phải là người có khả năng và đáng tin cậy.

 

Tôi đă nhờ sự giúp đỡ của một người đàn ông vừa mới chết cách đây không bao lâu, v́ ông có liên hệ đến một người đang chán nản cực độ, và bị bao phủ bỡi những đám mây của tư tưởng u sầu, tối tăm, đang cảm thấy bất lực và tuyệt vọng. Từ trước đến nay hắn sống một cuộc đời đàng hoàng, chưa bị t́ vết. Nhưng hắn đă làm tổn thương một người, và nay người đó thường nghỉ đến hắn như là một kẻ thù hiểm độc. Những h́nh tư tưởng như thế tác động lên hắn như những đám mây của sự chán năn, bám chặt hắn như những con đỉa, hút sinh lực và niềm hy vọng, làm cho hắn cảm thấy thất vọng và đê tiện.

 

Tôi nói chuyện để cố mang đến cho hắn niềm hy vọng. Cho hắn biết rằng cuộc đời không hoàn toàn giống như nó hiển hiện, và chắc chắn có một sự phán đoán khác hơn là những ác ư của người khác đối với ḿnh. Chán nản là điều sai trái và không ích lợi ǵ. Tôi giải thích thêm rằng, v́ chán nản hắn đă tự làm hại ḿnh. V́ những tư tưởng ấy hoàn toàn không phải do ư chí của chính hắn, chúng nó từ bên ngoài tác động lên trí năo, làm cho cuộc sống của hắn trở nên thống khổ. Tôi nói với hắn rằng, chúng ta không thể sửa đổi quá khứ, nhưng chúng ta có thể làm giảm thiểu hậu quả, bằng sự cố gắng giử b́nh tĩnh để đối diện với sự ghét bỏ được trả lại do những hành động trước kia, và hắn phải cố gắng đáp lại bằng những tư tưởng tốt lành, thay v́ bằng những cơn ganh ghét và thất vọng. Tóm lại ư chính của tôi muốn nói với hắn là phải tự quên ḿnh và quên những nỗi buồn phiền và nên nghĩ đến thái độ nông nỗi của ḿnh sẽ ảnh hưởng đến những người thân ra sao.

 

Anh chàng đáng thương ấy đă đáp ứng nhưng chỉ được phân nửa. Hắn nói rằng hắn đă cố gắng và quyết định làm theo lời chỉ dẫn. Tôi nói thẳng cho hắn biết rằng tôi thấy ít có hy vọng hoặc không có hy vọng thành công. Tôi phá vỡ những ṿng tư tuởng chán nản bao phủ hắn, và làm tan khối mây đen tối đang vây quanh hắn. Làm cho những h́nh tư tuởng không thân thiện của người đă bị hắn hại bớt ảnh hưởng lên tâm trí của hắn, trong một lúc, hắn có vẻ tươi tắn hơn. Tôi vẫn giữ trước mặt hắn một h́nh tư tưởng rơ rệt của người thân hiện c̣n sống, người mà hắn thương yêu nhất đời. Hắn nói với tôi: “Trong lúc ông ở đây, h́nh như tôi hiểu và gần như có thể chống lại nỗi thất vọng, nhưng tôi thấy rằng sự can đảm của tôi bị phai mờ đi khi ông không có ở đây nữa.”

 

V́ thế tôi bảo hắn rằng, sự việc không phải là như vậy. Mỗi quyết định cố gắng để đánh bại sự thất vọng sẽ làm cho lần kế tiếp dễ dàng hơn, và hắn phải cương quyết không để thất bại khi gặp những trở ngại. Tôi có công việc khác phải đi làm, tôi nhờ một trong những vị phụ tá trẻ của tôi ở lại với người ấy trong một lúc để quan sát sự tích tụ của những tư tuởng chán nản nơi hắn, và làm tan chúng đi. Tôi biết rằng nếu công việc ấy được làm liên tục, chúng tôi sẽ giúp cho người đàn ông nầy có thể tự ḿnh chống lại tư tuởng chán nản và duy tŕ t́nh trạng tỉnh táo, mặc dù đă một thời gian lâu hắn không đủ sức mạnh để cố gắng. Vị cứu trợ trẻ của tôi tiếp tục hành động thêm vài giờ nữa, đến khi nhịp độ trở lại của những tư tưởng đen tối giảm đi nhiều, và người đàn ông có thể tự bảo vệ lấy ḿnh khỏi những tư tuởng có hại. Vị cứu trợ trẻ bèn quay trở về gặp tôi, sau khi để lại vài tư tưởng mạnh mẽ để ủng hộ tinh thần cho nạn nhân.

 

Khi vị tân đoàn viên vừa mới ra đi, nó nh́n thấy một bé gái (cũng trong thể vía) đang bay một cách vội vă, kinh hăi trước một h́nh thù yêu quái, giống như loại chằng tinh. Nó dừng lại ngay và hỏi: “Chuyện ǵ thế?” em bé vừa run cầm cập vừa ôm cứng lấy nó và chỉ về hướng con yêu quái đang đuổi theo. Vị cứu trợ trẻ tuổi của chúng ta nhận rằng chính anh ta cũng không thích nh́n một vật đáng ghê sợ như thế. Nhưng v́ cô gái, chàng nổi máu anh hùng, và nhớ lại đă được chỉ dẫn rằng khi gặp những thực thể như thế, luôn luôn cần phải tỏ ra can đảm. V́ thế chàng quyết tâm không ‘lâm trận bỏ chạy’ mà hùng dũng đứng lại trực diện với yêu tinh. Con yêu quái không tiến tới thêm, nó dừng lại cách một khoảng, uốn éo vặn vẹo thân h́nh, nghiến trèo trẹo mấy cái răng ‘bàn nạo’ to tướng, và rơ ràng là nó cố t́nh làm cho thân h́nh nó thêm dễ sợ.

 

Trong một lúc, thấy không thay đổi được ǵ, vị tân đoàn viên trẻ bị mất kiên nhẫn, anh chàng cảm thấy có thể bị con quái vật tấn công bất cứ lúc nào, và chàng ta cũng không biết phải hành động ra sao. V́ thế, vị tân đoàn viên mang theo cô gái vẫn c̣n đang sợ run đi t́m tôi. Chàng ta di chuyển một cách chậm chạp và thận trọng, mặt luôn luôn quay về phía con quái vật xấu xí đang lần ṃ theo sau họ.

 

Khi gặp chúng, tôi t́m hiểu nguyên nhân và biết được rằng cô bé đáng thương nầy thường bị ám ảnh bởi những cơn ác mộng đáng sợ, mỗi lần như vậy, cô giật ḿnh tỉnh lại và bị kinh giật toàn thân, nhiều lúc người nhà c̣n nghe tiếng kêu thét thất thanh v́ sợ hăi. Quan sát tôi thấy con quái vật ấy chỉ là một h́nh tư tưởng xấu xí, được tạm thời làm linh động bởi một loại ngũ-hành-linh nghịch ngợm thấp kém. H́nh như loại tinh linh nầy cảm thấy vui thích khi thấy trẻ em sợ hăi v́ bị hù dọa. Hai em lắng nghe tôi giải thích cặn kẽ, em tân đoàn viên phẫn nộ, hài tội và muốn lột mặt nạ của tinh linh nghịch ngợm hung ác. Nhưng tôi cho em biết sự kiện đó chỉ là tṛ đùa nghịch ‘mèo vờn chuột’. Ở tŕnh độ thấp kém những tinh linh nầy phát triển bản chất tự nhiên của chúng, nên cho rằng chúng hiểm ác cũng không đúng lắm.

 

Để ngăn ngừa những sự điên rồ nầy có thể làm cho con người kinh sợ, tôi chỉ cho vị tân đoàn viên cách thức chống lại ngũ-hành-linh tinh quái, đuổi nó ra khỏi cái h́nh tư tưởng. Tôi cũng dạy cho em phương pháp dùng ư chí để làm tan biến cái h́nh tư tưởng ấy. Em bé gái đă hơi bớt sợ và có vẻ vui thích khi nh́n thấy ‘chằng tinh’ bị nổ tung. Qua kinh nghiệm nầy, chúng ta có lư do để hy vọng rằng em bé sẽ can đảm hơn và sẽ  có được những giấc ngủ yên lành.

 

Có rất nhiều h́nh tư tưởng xấu, thuộc nhiều loại khác nhau được thấy nơi cơi trung giới. Loại xấu nhất là loại có liên hệ đến những tin tưởng sai lạc, mù quáng thuộc về tôn giáo đối với nhiều loại yêu ma và ác thần. Huyền bí gia hoàn toàn có quyền hủy diệt những sản phẩm thuộc loại đó, v́ chúng nó không phải là vật sống, không liên hệ ǵ đến sự tiến hóa và chỉ là sản phẩm tạm thời.

 

Trong trường hợp nầy, tôi lại được biết thêm em bé gái có một người anh trai, hai anh em rất thương mến, khắng khít với nhau. Nhưng định mạng trớ trêu đă đem đến một người đàn bà, xen vào t́nh cảm giữa hai anh em. Người đàn bà ấy ảnh hưởng đến người anh và xúi dục người anh nghi ngờ những ư kiến của đứa em. Em bé gái có những lư do để không tin tưởng người đàn bà ấy và báo trước cho anh cô biết để pḥng ngừa. Nhưng người anh không để tâm đến sự báo trước đó, và tiếp theo là mối bất ḥa trầm trọng giửa hai anh em. Sự mê đắm của người anh kéo dài hơn một năm, và trong suốt thời gian nầy, v́ tự ái và không thể tha thứ cho sự bị sỉ nhục, nên cô em xa lánh hẳn người anh. Dần dần người anh khám phá ra được phần nào bản chất thực sự của người đàn bà, dù rằng lâu nay anh ta tự lừa dối ḿnh và không chịu tin điều đó. Ngay khi anh ta cảm thấy không thể nào duy tŕ ḷng tin mù quáng, anh ta vẫn c̣n cảm thấy có một cái ǵ ngăn trở khi nghĩ đến em gái. Chàng vẫn c̣n chút ít hy vọng rằng người đàn bà kia có lẽ vẫn c̣n trung thành đối với chàng. Do đó t́nh cảm giữa hai anh em vẫn chưa hàn gắn đuợc, cho dù những lư do gây ra bất ḥa đă qua đi.

 

Trong trường hợp nầy tốt nhất là đưa hai vị cộng sự viên riêng biệt đến giúp hai người, một cho người anh và một cho người em. Để liên tục khơi dậy lại trong tâm trí của họ h́nh ảnh của những ngày xưa thân ái. Sau khi xếp đặt và phân công xong, tôi dạy những vị phụ tá phương pháp tạo ra những h́nh tư tưởng để áp dụng trong công tác. Dĩ nhiên cả hai anh em điều không hay biết ǵ về sự kiện được trị liệu trên. Dần dần và liên tục, họ có những tư tưởng nghĩ về nhau nhiều hơn. Những sự việc nhỏ nhặt hiện ra nhắc họ nhớ lại thời vui vẻ khi xưa. Tuy vậy, trong một thời gian khá lâu, v́ tự ái họ chưa làm ḥa được với nhau. Nhưng cuối cùng người anh đáp ứng lại những ám thị liên tục, đi đến thăm người em và không ngờ rằng được cô em gái tiếp rất nồng nhiệt, tử tế, vui vẽ và tha thứ. Sự ḥa giải có kết quả ngay, và từ đó họ để ư không cho bất cứ đám mây mờ nào xen vào giữa t́nh anh em của họ nữa. 


CHƯƠNG 15

 

 

Những vụ đắm thuyền và các thảm họa

 

 

Những đoàn viên trong nhóm cứu trợ có khi báo trước những tai nạn khẩn cấp sắp xăy ra. Trong vài trường hợp, khi vị thuyền trưởng vô tâm, không ngờ là chiếc tàu của ḿnh đă đi lệch hướng do những ḍng nước ngầm hoặc do sự tính toán sai lạc, và sắp gặp những nguy hiểm trầm trọng. Vị cứu trợ có thể ngăn ngừa tai nạn bằng cách gây ấn tượng lập đi lập lại trong trí người thuyền trưởng, để cho hắn có cảm giác rằng sắp có chuyện không may xảy ra. Cảm tưởng nầy thường hiện ra trong đầu óc của vị thuyền trưởng như một trực giác báo điềm mơ hồ, nhưng nếu nó cứ lập đi lập lại th́ vị thuyền trưởng sẽ chú ư cẩn thận đề pḥng, và làm theo cách thức được ám thị.

 

Thí dụ như việc đă xảy ra sau đây: đêm kia, một chiếc tàu buôn nhỏ chạy quá gần bờ, mà ông thuyền trưởng không biết. Nhiều lần ông cảm thấy bị xui khiến là phải thả dây ḍ. Ban đầu ông cưỡng lại ư kiến nầy, v́ ông thấy dường như là vô ích và phi lư, nhưng rốt lại, tuy do dự, ông cũng ra lịnh thả dây ḍ thử một cách vội vă. Ông rất kinh ngạc về kết quả của sự thăm ḍ, nên lập tức cho đổi hướng đi và tách xa bờ biển. Đến sáng ra, ông mới hiểu là đêm qua chiếc tàu đă tránh khỏi một tai nạn khủng khiếp trong gang tấc.

 

Cũng có khi, một tai nạn xảy ra do luật nhân quả, và như vậy không thể nào ngăn cản được. Nhưng ta không nên lầm tưởng trong những trường hợp ấy không thể trợ giúp ǵ được. Trong khi thừa nhận là những người gặp nạn phải bị chết theo định mệnh nên không thể cứu vớt họ được, th́ ít ra trong rất nhiều trường hợp có thể giúp họ chuẩn bị cho số phận của họ, và  tiếp theo đó họ sẽ được giúp đỡ sau khi chết. Chắc chắn rằng, trong tất cả các tai nạn lớn, những vị cứu trợ luôn luôn được đặc biệt đưa đến tận nơi để giúp đỡ.

 

Trong hai trường hợp xảy ra gần đây: vụ đắm thuyền Drummond Castle ở vùng Cape Ushant, và trận băo kinh khủng đă tàn phá thành phố St. Louis ở Mỹ. Trong hai cảnh ngộ này, những nạn nhân được báo trước vài phút, trước khi xảy ra tai nạn, và những vị cứu trợ làm hết sức ḿnh để trấn tĩnh và nâng đỡ tinh thần người bị nạn, làm cho họ bớt bị khủng hoảng khi tai họa xảy ra. Nhưng đương nhiên, công việc giúp các nạn nhân của hai thảm họa nầy được thực hiện phần lớn ở trung giới, khi nạn nhân đă ĺa bỏ xác thân.

 

Thật đáng tiếc, thường khi lúc sắp sửa xảy ra một tai nạn lớn, v́ sự sợ hăi quá độ đột nhiên chi phối những người mắc nạn, có khi tệ hại hơn nữa là sự mê loạn bộc phát trong dân chúng, làm trở ngại không ít cho việc cứu trợ. Nhiều chiếc tàu khi đă bị ch́m sâu th́ hầu hết số hành khách đều ở trong trạng thái say mê điên dại, và v́ vậy khó mà giúp đỡ họ một cách hiệu quả, trước khi chết cũng như một thời gian rất lâu sau khi qua đời.

 

Nếu khi nào chúng ta thấy bị đe dọa v́ một nguy cơ sắp đến và không thể tránh được, ta nên nhớ rằng sự cứu trợ chắc chắn là gần kề và nó tùy thuộc hoàn toàn ở nơi ta làm cho phận sự của các vị cứu trợ trở nên dễ dàng hoặc khó khăn hơn. Nếu chúng ta đối diện với sự nguy hiểm một cách b́nh tĩnh, can đảm và nhận biết rằng không có ǵ có thể làm tổn hại linh hồn ta được, th́ tâm trí chúng ta sẽ tiếp nhận được những sự hướng dẫn của các vị cứu trợ đang cố gắng giúp chúng ta, đó là cách thức tốt nhất đối với chúng ta. Nếu sự chết không thể tránh được, th́ nó cũng giúp cho chúng ta trải qua sự chết một cách b́nh thản, nhẹ nhàng.

 

Câu chuyện sau đây cho thấy một loại cứu trợ thường được áp dụng cho những trường hợp tai nạn cá nhân cũng như trong những thảm họa chung. Cách đây vài năm, trong một cơn băo tố lớn, gây ra nhiều tai biến ở các bờ biển nước Anh, có một chiếc thuyền đánh cá bị lật úp giữa biển, trong tàu chỉ có một ông lăo đánh cá và một cậu bé. Ông lăo c̣n bám chặt được vỏ tàu lật úp, trong vài phút. Không có hy vọng nào được tiếp cứu khỏi chết, và nếu có người hiện diện nơi đó th́ cũng không thể làm ǵ được trong cơn băo tố dữ dội như vậy. Ngư ông biết rằng chẳng c̣n hy vọng, và cái chết đối với ông chỉ c̣n chờ từng phút. Ông cảm thấy lo sợ kinh khủng, và có cảm giác cô đơn dễ sợ giữa mặt biển mênh mông, vắng vẻ. Rồi ông lo lắng nghĩ tới vợ con, tới hoàn cảnh khó khăn đưa đến cho họ sau cái chết th́nh ĺnh của ông.

 

Vị hội trưởng của chúng ta vừa lúc đi ngang qua, thấy hoàn cảnh như thế, cố gắng trấn an ông, nhưng nh́n thấy trí óc ông quá xao động, không thể đưa vào đó những ấn tượng b́nh an. Bà xét thấy cần phải hiện h́nh để sự giúp đỡ được hữu hiệu. Về sau, khi thuật lại câu chuyện nầy, bà nói rằng: khi đứng trước mặt ông lăo, bà thấy sắc diện của ông biến đổi kỳ diệu. V́ nh́n thấy một người sáng chói ở phía trên ông, đứng trên thuyền, tự nhiên ông tưởng là một vị Thiên Thần đến giúp cho ông thêm dũng cảm để bước qua cánh cửa của tử thần, và gia đ́nh ông chắc cũng được cứu giúp. Như thế, một lúc sau, khi rời bỏ xác thân, tâm thần ông không c̣n ở trạng thái kinh hăi, bối rối, khổ sở như lúc đầu và đương nhiên khi tỉnh táo ở cơi trung giới, ông gặp lại vị ‘Thiên Thần’ nơi đó, ông cảm thấy yên tâm và sẵn sàng chấp nhận các lời khuyên bảo cho đời sống mới nơi đây.

 

Sau đó ít lâu, bà Hội Trưởng cũng gặp một trường hợp tương tự, bà kể lại như sau: “Chắc các anh c̣n nhớ chiếc tàu đă bị đắm trong một cơn băo tố vào cuối tháng 11 vừa rồi. Tôi đi vào trong pḥng của chiếc tàu, nơi đó có chứa khoảng mười hai người đàn bà, họ đang than van một cách quá thống khổ, nhiều người khóc nức nở và kêu gào v́ sợ hăi. Chiếc tàu chắc chắn sẽ ch́m, không c̣n phương thế nào cứu văn được và nếu từ giă cơi đời trong trạng huống cuồng loạn như vậy để bước sang cơi khác là một t́nh trạng rất tệ hại. Để trấn tĩnh họ, tôi hiện h́nh ra, và tự nhiên những kẻ khốn khổ nầy tưởng tôi là một Thiên Thần. Cả thảy đều qú xuống và cầu xin tôi cứu độ. Một bà mẹ đáng thương đặt đứa con nhỏ của bà vào tay tôi, khẩn cầu tôi, ít nhất là cứu đứa trẻ nầy. Chúng tôi bắt đầu tṛ chuyện. Phút chốc họ đều b́nh tĩnh trở lại và yên tâm, đứa bé nhắm mắt ngủ và mỉm cười, những người phụ nữ cũng lần lần thiu thiu ngủ trong sự b́nh an, và tôi đưa vào trí năo họ những tư tưởng về cơi thiên đàng. Dĩ nhiên là họ không thức dậy vào phút chót, khi chiếc tàu ch́m hẳn. Tôi theo xuống với họ để chắc rằng họ sẽ bước qua giờ phút lâm chung trong lúc đang ngủ. Thế là từ giấc ngủ sang sự chết không bị xao động chút nào.”

 

Trong trường hợp nầy, những người được cứu độ đă hưởng được lợi ích vô cùng to lớn, v́ có thể đối diện với cái chết một cách b́nh tĩnh, hợp lư. Điều quan trọng hơn nữa là họ được tiếp rước qua bờ bên kia, do một vị mà họ đă có ḷng yêu mến, tin cậy, vị ấy biết rành cơi thế giới mới mà họ sắp đến ở. Như thế, chẳng những bà làm cho họ yên tâm với số phận, mà lại c̣n khuyên bảo họ về cách thức xếp đặt lại đời sống trong hoàn cảnh mới nầy, rất khác xa với hoàn cảnh ở cơi trần. Sự kiện nầy cho chúng ta thấy một trong những khía cạnh rộng răi và quan trọng nhất trong công tác của những vị cứu trợ vô h́nh là hướng dẫn và giúp đỡ những người đă chết.


CHƯƠNG 16

 

 

Công việc giúp đỡ người chết

 

 

Những giáo lư sai lầm vô lư về những t́nh trạng sinh hoạt sau khi chết là điều không may cho thế giới tây phương, v́ nó gây ra nhiều hậu quả tai hại. Những người vừa mới rời bỏ thể xác thường bị bối rối và sợ hăi cực độ khi nhận thấy những sự việc xảy ra ở cơi trung giới, tất cả đều rất khác xa với các đ́ều mà tôn giáo của họ đă cho họ biết lúc họ c̣n sống. Mới đây thái độ tinh thần của đa số các người chết đă được một tướng lănh người Anh mạnh mẽ nói lên khá đầy đủ. Sau khi chết ba ngày, ông gặp một đoàn viên của nhóm người cứu trợ mà ông đă từng quen biết lúc c̣n ở cơi trần. Sau khi khuây khỏa trút hết những lo lắng trong ḷng nhờ được tâm sự với vị cứu trợ, những lời nói đầu tiên của ông là: “Nhưng, nếu tôi chết th́ bây giờ tôi ở đâu đây? V́ nếu đây là cơi trời th́ tôi thấy nó không đáng với danh xưng ấy, c̣n nếu đây là cơi địa ngục th́ nó lại tốt đẹp hơn điều tôi trông đợi.”

 

Nhưng điều không may là phần đông thiên hạ nh́n cuộc đời một cách kém triết lư. Họ đă hấp thụ một giáo lư dạy rằng, tất cả con người đă có định mạng từ những ngọn lửa thiêng bất diệt, chỉ trừ vài phần tử được ưu đăi, là những bậc siêu nhân. Theo đó nếu tự quán xét th́ họ sẽ thấy ngay là họ không thuộc vào hàng siêu nhân kể trên. Thường là họ ở vào một trạng thái hoảng sợ từng giây từng phút, nghĩ rằng cơi thế giới mới mà họ đang ở sẽ tiêu tan, bỏ họ rơi vào móng vuốt của một ác quỉ, giống như điều mà họ đă được chỉ dạy lúc c̣n sống. Trong nhiều trường hợp, họ phải trải qua sự đau khổ tinh thần lâu dài, trước khi thoát ra khỏi ảnh hưởng nguy hại của các giáo lư có ngụ ư về những h́nh phạt đời đời. Trước khi họ có thể nhận thấy rằng vũ trụ không bị thống trị bởi một vị thần ác độc xấu xa, có tính khí bất thường, thích thú nh́n những nỗi thống khổ của nhân loại, mà chính là do một luật tiến hóa nhân đạo và nhẫn nại phi thường, hoàn toàn vô tư, măi măi hiến cho nhân loại, ở mỗi giai đoạn sinh hoạt, những cơ hội tiến bộ mà con người được tự do lựa chọn.

 

Người ta nhận thấy rằng, trong những cộng đồng thuộc Cơ Đốc tân giáo, điều sai lệch nầy lại được nhấn mạnh nhiều nhất. Trong khi giáo lư về cơi luyện tội của giáo hội Thiên Chúa La Mă th́ gần gũi hơn với quan niệm về cơi trung giới, và ít ra, những phần tử tuân giữ giáo qui, nhận thức rằng sau khi chết, họ chỉ tạm thời ở nơi cơi ấy, và nhờ những nguyện vọng tâm linh khẩn thiết mà họ có thể thoát ra khỏi nơi đó mau lẹ. Đồng thời, họ nh́n nhận sự cần thiết chịa đựng những khổ đau có thể đến với họ, để xóa đi những khuyết điểm về đạo đức trước khi họ có thể bước sang những miền cao hơn và rựa rỡ hơn.

 

Vậy người ta thấy rằng những vị cứu trợ có nhiều việc phải làm, để giúp những người vừa mới chết, bằng cách an ủi, làm cho họ b́nh tĩnh, thêm nghị lực, và hướng dẫn họ trong nếp sống mới. Nơi cơi trung giới cũng như ở cơi trần, nhiều người chưa sẵn sàng chấp nhận những lời khuyên bảo của những vị hiểu biết nhiều hơn họ. Tuy nhiên, v́ sự lạ lùng, bỡ ngỡ nơi hoàn cảnh mới, nên những người chết thường dễ chấp nhận sự hướng dẫn của những người mà họ nghĩ là đă quen thuộc với hoàn cảnh nơi ấy. Nhờ sự làm việc tận tâm của nhóm cứu trợ mà thời gian lưu trú nơi cơi trung giới của nhiều người được rút ngắn một cách đáng kể.

 

Đành rằng, không ai có thể làm thay đổi được nhân quả của kẻ khác. Trong suốt thời gian sống ở cơi trần, con người đă tự tạo cho ḿnh một cái vía khá rắn chắc,và bao giờ cái vía nầy chưa hoàn toàn tan ră, th́ họ chưa có thể vượt lên cao để vào cơi thiên đàng. Do sự không hiểu biết và thái độ không thích hợp mà thời gian để thể vía tan ră phải kéo dài.

 

Tất cả các học viên cần phải hiểu rơ ràng là, sau khi rời bỏ xác thân, thời gian sinh sống ở cơi trung giới tùy thuộc vào hai yếu tố chánh: bản chất của đời sống vật chất trong kiếp đă qua, và trạng thái tinh thần sau khi rời bỏ xác thân. Trong suốt cuộc sống ở cơi trần, con người thường xuyên ảnh hưởng lên những chất liệu cấu tạo nên thể vía của chính họ. Đặc tính của thể vía chịu ảnh hưởng một cách trực tiếp bởi những đam mê, những mối xúc động và ham muốn. Nó chịu ảnh hưởng một cách gián tiếp từ trên xuống bằng tác động của tư tưởng, và từ dưới lên bởi lối sống thường ngày, biết tiết dục hay buông thả, trong sạch hay dơ bẩn, nó cũng chịu ảnh hưởng bởi thức ăn, thức uống của họ. Một người miệt mài trong cảnh trụy lạc, bất chánh, là họ đă ngu xuẩn tạo nên một thể vía tŕ độn, thô kệch, chỉ quen đáp ứng với những rung động bậc thấp của cơi trung giới, nên sau khi chết họ bị trói buộc nơi cảnh thấp nầy, và thể vía phải cần thời gian rất lâu để tan ră. Trái lại nếu con người sống một cuộc đời chân chánh, có qui củ, họ sẽ tạo nên một thể vía đẹp đẽ, làm bằng những chất liệu tinh vi hơn, sau khi chết họ ít bị rối loạn, buồn phiền và sẽ phát triển trên đường tiến hóa nhanh hơn.

 

Yếu tố quan trọng thứ nh́ thường ít được để ư đến, là con người cần phải nhận thức rằng giai đoạn hiện tại chỉ là một thời gian ngắn ngủi trong chu tŕnh tiến hóa. Đây là giai đoạn con người rút về nội giới, trên đường trở về cơi riêng của linh hồn. Do đó, phận sự của họ là phải từ bỏ càng nhiều càng tốt những tư tưởng ham mê vật chất trần gian, và phải chú tâm nhiều hơn đến các vấn đề tinh thần. V́ con người chỉ sinh hoạt hoàn toàn bằng tinh thần trong suốt thời gian ở cơi thiên đàng. Như thế, con người tự nhiên sẽ làm cho thể vía tan ră nhanh hơn và sẽ tránh được lỗi lầm. Đáng tiếc là phần đông người đời tự làm trễ nải một cách vô ích nơi những cảnh thấp, là nơi mà con người đúng ra chỉ cần lưu trú một thời gian ngắn ngủi thôi.

 

Sự chậm trễ trong tiến tŕnh giải thoát là do con người say mê bám chặt vào cơi trần gian mà họ vừa ĺa khỏi. Chỉ v́ họ không chịu thăng hoa tư tưởng và t́nh cảm, mà cứ măi tiêu phí thời giờ cố gắng đeo níu, liên lạc với cơi trần. Như thế họ cũng làm trở ngại cho công tác của nhóm cứu trợ đang muốn giúp đỡ họ. Đối với những người sống thuần về vật chất, chỉ thích thú với những sự việc trần tục, đến khi chết rồi cũng vậy, họ cứ bám chặt vào đó với mối tuyệt vọng. Theo thời gian, tự nhiên càng ngày họ càng khó liên hệ được với sự vật ở cơi trần. Khi đó, thay v́ họ vui vẻ, can đảm chấp nhận tiến tŕnh tinh luyện tinh thần để tiến lên, th́ họ lại cố gắng chống lại bằng tất cả những phuơng tiện mà họ có thể có được.

 

Dĩ nhiên, quyền lực mạnh mẽ của luật tiến hóa, cuối cùng vẫn thắng được con người và đẩy họ vào trào lưu đúng đắn, nhưng họ cứ măi chống cự từng bước một trên đường đi. Làm như thế không những chỉ rước lấy đau khổ, buồn phiền dai dẳng một cách vô ích, mà lại c̣n làm chậm trễ bước đường tiến lên trên và kéo dài cuộc lưu trú nơi những vùng trung giới một thời gian gần như vô hạn. Chứng minh cho họ biết rằng sự phản kháng dốt nát nầy đối với ư chí vũ trụ là nghịch với luật thiên nhiên, đưa họ đến việc chấp nhận một thái độ tinh thần đúng đắn hơn. Đó là phần việc lớn lao trong nhiệm vụ của những vị cứu trợ đang cố gắng giúp họ.

 

Những vị cứu trợ c̣n có thể giúp nhiều hơn nữa cho những người nào đă có nghiên cứu các vấn đề nầy lúc c̣n sống., và đă tập làm chủ được bản tánh thấp hèn. Như tôi đă tŕnh bày trong quyển ‘Cơi Trung Giới’ và quyển ‘Bên Kia Cửa Tử’. Ngay sau khi rời bỏ xác thân, chất liệu cấu tạo nên thể vía bị xếp đặt lại thành những lớp vỏ đồng tâm. Sự sắp xếp nầy xẩy ra là do tác động của tinh chất dục vọng (desire-elemental). Sự kiện nầy giới hạn ư thức một thời gian vào cảnh thấp nhất. Nhưng người chết có thể chống lại sự xếp đặt nầy, cũng giống như lúc c̣n sống ở cơi trần con người có thể chế ngự được những dục vọng nhờ ư chí và quyết tâm. Do đó sau khi chết con người cũng có thể làm chủ được thể vía, nếu họ chịu xử dụng năng lực của ư chí. Tóm lại, con người có thể chống lại sự sắp xếp cái vía thành từng lớp vỏ, và do ư chí họ làm cho cái vía trở lại uyển chuyển như lúc đầu. Như thế, thể t́nh cảm giữ được nguyên vẹn trạng thái như lúc c̣n sống ở trần gian. Thật là đáng giá cho một cuộc tranh đấu lâu dài chống lại tinh chất, cũng giống hệt như cuộc đấu tranh không ngừng trong lúc sống, khi con người cương quyết chế ngự những dục vọng mạnh mẽ. Sự cố gắng nầy rất xứng đáng, v́ khi được thành công th́ người chết được tự do đi lại khắp nơi trong cơi trung giới, khi đó ư thức không bị giới hạn ở một cảnh, mà cùng một lúc ở tất cả các cảnh. Trong trường hợp một người lúc c̣n sống ở cơi trần mà có đầy đủ ư thức khi sang qua cơi trung giới th́ thời gian sống ở trung giới được rút ngắn lại rất nhiều, và cuộc sống ở cơi trung giới được hạnh phúc và hữu ích hơn. Những người được tự do như thế sẽ giúp đỡ được nhiều người khác. Họ có thể được hướng dẫn để gia nhập vào nhóm cứu trợ và nhận lănh những công việc của nhóm. Người như thế giúp ích rất nhiều cho những người khác ở cơi trung giới và đồng thời tạo được nhiều quả lành cho kiếp tương lai.

 

Khi cái vía bị sắp xếp lại thành từng lớp đồng tâm th́ nó ngăn trở và làm chậm trễ sự tiếp xúc lại với người thân, đó cũng là một lư do mà con người chống lại sự sắp xếp ấy. Thể vía không có những giác quan riêng biệt như xác thân. Thể vía của con người gồm một phần giống h́nh trứng, bao bọc chung quanh phần bên trong cấu tạo bởi chất liệu đậm đặc hơn, giống hệt như thể xác của người ấy. Mặc dù có h́nh thể của đôi mắt, nhưng sự thấy không cần qua đôi mắt, nó có tai nhưng sự nghe không cần qua lỗ tai. Cái vía thấy và nghe (hay nói đúng hơn, nó nhận những sự rung động tạo ra những cái tương đương trong thế giới vật chất, mà chúng ta gọi là thấy và nghe) không qua những cơ quan đặc biệt mà qua bất cứ một phần tử nào bên ngoài bề mặt của thể vía, tiếp xúc ngay lúc đó.

 

Thể vía được cấu tạo bằng những chất liệu rút ra từ những cảnh của cơi trung giới (nhắc lại: cơi trung giới chia làm 7 cảnh). Mỗi loại chất liệu của thể vía chỉ có thể tiếp nhận những rung động thích hợp với nó ở cảnh ấy. Tất cả những phần tử cấu tạo nên thể vía luôn luôn luân lưu và di động rất nhanh, giống hệt như nước nấu sôi. V́ thế những phần tử của mỗi cảnh luôn luôn đi vào và rời khỏi lớp bề mặt, do đó con người bên trong lúc nào cũng có thể thấy cảnh tượng và những thực thể sống ở bất cứ cảnh nào. Lúc ban đêm, một người gặp bạn hữu ở cơi trung giới, họ sẽ thấy trọn vẹn thể vía của người bạn ấy, giống hệt như là hắn ở cơi trần.

 

Nhưng nếu khi con người chết, chất liệu của thể vía bị tinh chất dục vọng sắp xếp thành từng lớp vỏ đồng tâm, th́ chỉ những phần tử thô của cảnh giới thấp là ở ngoài bề mặt, do đó người ấy chỉ có thể nhận thấy chất liệu cùng một loại với nó, tức là chỉ thấy được những sự vật chung quanh không tốt lành của cảnh giới thấp nhất ấy. Nếu người ấy gặp một người bạn, họ không thể thấy trọn vẹn bản tính của người bạn, mà chỉ thấy những đặc tính của người bạn được biểu lộ qua chất liệu thô kệch, như vậy tức là chỉ thấy được những phần xấu nhất trong bản chất của hắn, như: dục cảm, hèn hạ, ghen tuông, nóng năy…nếu người bạn đó có những tính xấu ấy trong người. Nhưng nếu người bạn ấy đă chết một thời gian, bỏ được những tính xấu kể trên và thể vía không c̣n chứa chất liệu thô kệch nữa, th́ người có thể vía  đă bị sắp xếp không thể thấy được người bạn đă vứt bỏ được những đặc tính xấu xa kia.

 

Khi vị cứu trợ vô h́nh đến phá vỡ những lớp vỏ đồng tâm và tái lập sự luân lưu cho người vừa mới đếncơi trung giới, th́ họ sẽ có thể thấy được toàn thể cơi trung giới và gặp lại những bạn bè thân thuộc đă đến trước ở cơi trung giới một thời gian lâu. Tóm lại là không nên để cho tinh chất làm công việc sắp xếp lại thể vía.

 

Cũng có thể một người chết c̣n quá lưu luyến với cảnh trần gian, v́ lo lắng về những phận sự mà họ đă bỏ dở, hoặc những mối nợ chưa trả xong, nhưng thường hơn hết là v́ vợ con c̣n sống ở cơi trần không kế sinh nhai. Muốn cứu trợ trong những trường hợp như thế cần phải làm nhiều phần việc hơn. Trước khi d́u dắt người chết để họ tiếp tục trên đường tiến bộ một cách yên ổn, vị cứu trợ c̣n phải thay mặt họ trong một phạm vi nào đó ở cơi trần để lo giải quyết công việc mà họ đang bận tâm lo lắng. Câu chuyện vừa mới xảy ra được tŕnh bày sau đây có lẽ sẽ làm rơ vấn đề hơn.

 

Một sinh viên trong nhóm đă cố gắng giúp đỡ một người nghèo vừa mới chết  ở một thành phố thuộc miền tây nước Anh. Người nầy không thể dứt bỏ tư tưởng trần gian được, v́ quá lo lắng cho hai đứa con thơ bị bơ vơ không người chăm sóc. Lúc c̣n sống, anh làm thợ nhưng không dành dụm được tiền bạc để lại cho con. Vợ anh đă chết hai năm trước, bà chủ nhà của anh là người có ḷng nhân từ, sẵn sàng làm hết sức ḿnh để giúp đám trẻ, nhưng v́ quá nghèo nên nuôi dưỡng chúng nó không nổi nữa, cho nên bất đắc dĩ, bà dự định giao chúng nó lại cho các chức sắc giáo khu. Đó là một mối lo buồn lớn cho người cha đă chết, nhưng không thể phiền trách ǵ được bà chủ, và cũng không thể đề nghị cách nào khác được.

 

Người bạn của chúng ta hỏi ông c̣n có một thân nhân nào để có thể kư thác các con chăng? Nhưng ông không biết ai cả. Ông nói rằng, ông có một người em trai, chắc sẽ giúp đỡ cho ông được trong cảnh khốn khổ nầy, nhưng người em đă đi biệt dạng từ 15 năm nay, và không rơ bây giờ nó c̣n sống hay đă chết. Lần chót, ông nghe tin nó ở miền bắc, đang học nghề thợ mộc, và người ta nói rằng nó là một thanh niên đứng đắn, nếu nó c̣n sống, chắc đă nên nhà nên cửa rồi.

 

Lời chỉ dẫn thật quá lờ mờ, nhưng dường như việc cứu giúp đám trẻ không thể nhờ nơi nào khác được, và người bạn của chúng ta nghĩ là phải cố gắng  theo dấu tích nầy. Anh dẫn người chết đi đến thành phố nơi người em cư ngụ, và sau nhiều khó khăn họ đă gặp được người em. Người nầy, bây giờ là một thợ mộc chánh rất thành công trong nghề. Anh ta đă có vợ nhưng không con, nên khao khát muốn có con, như thế, đúng là người lư tưởng cho trường hợp nầy.

 

Vấn đề bây giờ là phải làm cách nào để đưa được tin tức người chết đến cho người em. May thay, người thợ tỏ ra cũng nhậy cảm, nên trong giấc chiêm bao có thể tŕnh bày rơ ràng cho anh biết về cái chết của người anh, cùng nỗi khốn khổ của mấy đứa con. Giấc chiêm bao được lập lại luôn ba lần, chính tên họ của bà chủ nhà cũng được chỉ rơ ràng. Bị cảm kích sâu xa bởi giấc mơ bền dai nầy, anh cẩn thận bàn luận với vợ, người vợ khuyên anh nên viết thơ về địa chỉ được chỉ dẫn trong giấc mơ. Ư kiến ấy không làm cho anh vui ḷng, trái lại anh rất muốn đi về miền tây để biết chắc có một cái nhà giống như anh đă thấy trong giấc mơ chăng. Nhưng v́ quá bận nhiều việc nên cuối cùng anh quyết định là không để mất một ngày công v́ những ư tưởng từ một giấc mơ.

 

Phương pháp nầy không được thành công, nên cần thực hiện phương pháp khác. Một vị trong nhóm cứu trợ viết thư ngay cho anh thợ mộc, thuật tỉ mỉ cái chết của người anh, và hoàn cảnh của các con đúng như sự việc đă tŕnh bày trong giấc chiêm bao. Khi tiếp được thư xác nhận việc nầy, người em không c̣n do dự nữa, xếp đặt qua ngày hôm sau đi đến thành phố được chỉ dẫn và được bà chủ nhân từ ân cần tiếp rước. Các vị cứu trợ dễ dàng khuyên chị đàn bà trung hậu nầy giữ mấy trẻ nhỏ thêm ít ngày nữa để chờ người giúp đỡ chúng nó đến, và chị rất sung sướng về việc thiện chị làm. Kết cuộc, người thợ mộc tới dắt mấy đứa trẻ đi, cho chúng nó một mái gia đ́nh êm ấm, hạnh phúc. Người cha đă từ trần không c̣n lo lắng phiền muộn nữa và vui vẻ tiếp tục con đường tiến bộ.

 

Một số học giả Thông Thiêng Học đă nhấn mạnh  về sự có hại của những buổi chiêu hồn thuật, nhưng phải công nhận rằng đôi khi cũng có được kết quả tốt như trường hợp kể trên, nếu nhờ một đồng tử làm trung gian hoặc một vị phụ tá. Chỉ một số ít trường hợp người chết có thể tự hiện h́nh để tiếp xúc, bày tỏ ư muốn, nhưng những trường hợp nầy rất hiếm. Phần đông các linh hồn bị kẹt lại v́ lo lắng những sự việc chưa giải quyết được ở trần gian, phải nhờ phương tiện đồng cốt để liên lạc với cơi trần, hoặc nhờ sự giúp đỡ của một vị cứu trợ.

 

Một trường hợp khác rất thường xảy ra ở cơi trung giới, là người ta không chịu tin là ḿnh đă chết. Thường khi người chết thấy ḿnh c̣n đầy đủ ư thức nên coi đó như là một bằng chứng tuyệt đối xác nhận rằng họ chưa đến cửa tử. Khi người ta có ư nghĩ như vậy là làm giảm mất giá trị thiết thực của tín ngưỡng tốt đẹp của chúng ta về một linh hồn bất diệt. Dầu nhăn hiệu của họ mang lúc c̣n sống là ǵ đi nữa, phần đông thái độ của người chết tỏ ra là họ vốn duy vật. Thật ra đối với những người lúc c̣n sống đă thành thật nhận ḿnh là duy vật, nhiều khi c̣n biết lắng nghe lời giải thích hơn là những người mà lúc c̣n sống dẫy nẩy lên khi bị gọi là duy vật.

 

Một khoa học gia thấy ḿnh vẫn đầy đủ ư thức, và đồng thời theo được dễ dàng những điều kiện hoàn toàn khác với những kinh nghiệm đă qua của ông, nên tin tưởng là ông vẫn c̣n sống, và chỉ là nạn nhân của một giấc mộng lâu dài, khó chịu. May thay, ông gặp được con trai của một người bạn già, là người đang hoạt động trong nhóm cứu trợ. Anh thanh niên nầy vâng lời cha đi t́m nhà khoa học đă chết để t́m cách giúp đỡ cho ông. Sau một lúc khó khăn, anh đă t́m được và đến gần gũi người chết. Ông nầy thú thật rằng ông lạ nước lạ non và không được yên tâm, nhưng ông vẫn bám chặt một cách thất vọng vào giả thuyết rằng đây chỉ là một giấc mộng, ông cho đó là cách giải thích có thể chấp nhận được về những ǵ ông đă thấy. Đến nỗi ông tin rằng người khách đến viếng thăm cũng chỉ là người trong mộng!

 

Cuối cùng, nhà khoa học nhượng bộ bằng cách đề nghị một cuộc thí nghiệm và nói với anh thanh niên: “Nếu em là một người c̣n sống như lời em xác nhận, và là con của người bạn già của tôi, th́ hăy đem cho tôi vài lời nhắn của người, để chứng tỏ em là người thật sự ở trong thể vía, chớ không phải ảo ảnh.” Trong những trường hợp b́nh thường, th́ đệ tử của Chân Sư bị cấm ngặt, không được phép tŕnh bày một chứng cớ có tính cách phi phàm, nhưng trường hợp nầy, có thể được xem như ngoại lệ. Sau khi được sự đồng ư của cấp trên, anh thanh niên tŕnh bày ư muốn của nhà khoa học cho cha, và được cha trả lời liền bằng một bức thư, trong đó ghi lại một số sự việc xảy ra trước khi sanh đứa con trai của ông. Điều nầy thuyết phục được người chết tin là người bạn thanh niên không phải là ảo ảnh, và cơi trung giới mà họ đang cùng sinh hoạt cũng là thật. Khi điểm nầy đă được xác định, những thói quen khoa học của ông lại nổi lên và ông tỏ ra rất nóng ḷng muốn thâu thập tất cả các dữ kiện có thể được nơi cơi mới nầy.

 

Đă đành bức thư được nhà khoa học chấp nhận dễ dàng và xem như một bằng chứng, nhưng thật ra nếu muốn, bức thư có thể được ngụy tạo dễ dàng, v́ tất cả những người có khả năng xử dụng những giác quan của thể vía đều có thể đọc được các sự việc xảy ra trước kia ngay từ trong tư tưởng của ông, hoặc từ ‘tiên thiên kư ảnh’. Nhưng nhà khoa học nầy không biết về sự kiện ấy, cho nên ông có sự tin tưởng tuyệt đối. Từ đây, giáo lư Minh Triết Thiêng Liêng mà người bạn trẻ chỉ dẫn cho ông mỗi đêm, chắc chắn sẽ có ảnh hưởng phi thường đến tương lai của ông, v́ chẳng những nó làm thay đổi lớn lao trạng thái thiên đàng sắp tới của ông mà c̣n trong kiếp tái sinh của ông ở trần gian.

 

Như chúng ta đă thấy, công tác chánh của nhóm cứu trợ đối với những người mới chết là trấn tĩnh họ và làm cho họ cảm thấy an ḷng. Khi nào có thể được th́ lo giải trừ cho họ khỏi mối sợ hăi ghê gớm, phi lư thường hay xâm chiếm con người, chẳng những gây nên những thống khổ vô ích mà lại c̣n làm cho họ trễ năi bước đường tiến lên các cơi cao hơn. Cuối cùng là làm cho họ hiểu biết càng nhiều càng tốt về tương lai sắp đến của họ.

 

Lấy thí dụ công việc của chính tôi, Mỗi đêm tôi phải đi thăm rất nhiều người đă chết. Trong khi đó, những người mới chết làm cho số người càng ngày càng tăng. Tâm trạng đặc biệt của người chết là dễ bị kích động, lo lắng, giống như trẻ em bị để trong bóng tối. Khi nào bạn c̣n ngồi bên cạnh em, nắm tay em th́ em cảm thấy an toàn và hạnh phúc, nhưng khi bạn rời bỏ em trong bóng tối th́ em trở lại nhút nhát, sợ sệt, cho nên bạn cần ngồi bên cạnh em, nắm tay em cho đến khi em ngủ yên. Tâm lư của người mới chết cũng tương tự như thế. Có một bà cụ đă chết rất nhút nhát, cứ phập pḥng lo không biết lúc nào mặt đất sẽ nứt ra và ném bà vào địa ngục. Bà chỉ được an tâm khi nào tôi c̣n đứng bên cạnh bà, nhưng đến khi tôi bỏ đi th́ bà lại bắt đầu sợ, và c̣n nghĩ rằng có phải tôi là yêu quái giả dạng chăng. Cho nên tôi phải săn sóc bà như săn sóc các trẻ em, trong lúc tôi không có mặt, tôi phải xếp đặt một người khác săn sóc bà. Một vị tân đoàn viên vừa mới gia nhập nhóm làm việc ở cơi trung giới có thể không biết phải xử trí thế nào trong những trường hợp khó khăn, nhưng vị ấy có thể ngồi bên cạnh bà cụ để cho bà yên ḷng, và kể cho bà nghe những chuyện về cuộc sống mới. Chỉ cần sự hiện diện của anh ta, và dĩ nhiên là anh ta phải có vẻ ung dung, b́nh tĩnh, đó là cách thức để làm cho người chết yên tâm. Nếu vị cứu trợ tỏ vẻ bồn chồn lo lắng th́ người chết cũng lập tức cảm thấy sợ hăi.

 

Tôi thường đem theo một số những người mới gia nhập nhóm trong lúc đi làm công việc hằng đêm để cho họ quen với công việc. Thí dụ như đối với trường hợp người đàn bà quá sợ sệt, tôi sẽ nói với bà: “Không có ǵ phải lo; chúng tôi có thể giúp ǵ được cho bà? Tôi thông cảm với bà, nhưng tôi bảo đảm rằng bà sẽ thấy an tâm hơn, bây giờ bà nên kể hết cho tôi biết về những ǵ bà cảm thấy.” Rồi tôi quay sang một trong những vị tân đoàn viên, tôi nói: “Ồ! Cô …, cô có thể hầu chuyện với bà đây một lúc được không?”

 

Kế đó, chúng tôi đi giúp một trường hợp khác, và để lại vị tân đoàn viên với bà, đến khi tất cả những vị tân đoàn viên đều có phần việc của ḿnh. Rồi th́ một số tân đoàn viên trở lại sau khi thi hành xong bổn phận. Bằng cách đó, họ có thể học cách thức tự ḿnh làm việc. Đến khi nào họ cảm thấy đầy đủ tự tin, họ sẽ có thể tự quyết định một ḿnh. Rồi đến lúc họ sẽ được nhận lănh công việc chính thức của một vị cứu trợ đúng nghĩa.

 

Những người đă lưu trú ở cơi trung giới lâu ngày cũng có thể được trợ giúp hữu hiệu qua những giai đoạn khác nhau, nếu họ chấp nhận những lời giảng giải và khuyên bảo. Thí dụ họ có thể được báo cho biết về sự nguy hiểm và chậm trễ trên đường tiến hóa nếu họ t́m cách liên lạc với người c̣n sống qua trung gian của đồng cốt. Rất hiếm có người đi vào ṿng thần linh học mà được thúc đẩy đến một đời sống cao hơn và chánh đáng hơn. Giáo lư được chỉ dạy ở cơi trung giới không bao giờ mất, cho dù kư ức nầy không được trực tiếp chuyển lại kiếp kế tiếp, nhưng sự hiểu biết chân thực bên trong vẫn c̣n măi măi và con người sẽ có khuynh hướng chấp nhận một cách dễ dàng khi gặp lại giáo lư nầy trong một kiếp sống mới khác.

 

Sau đây là câu chuyện của một tân đoàn viên vừa mới gia nhập nhóm, lần đầu tiên thành công trong công việc giúp đỡ người chết. Trước đây ít lâu, người chí nguyện trẻ trung nầy có một bà thân quyến lớn tuổi mà anh rất thương yêu đă chết. Điều yêu cầu đầu tiên của anh là được hướng dẫn bởi một người bạn có kinh nghiệm hơn để đi t́m bà ấy, với hy vọng giúp đỡ bà. Cuộc gặp gỡ giữa kẻ sống và người chết thật là tốt đẹp và cảm động. Bà cụ đă gần măn hạn cuộc sống ở cơi trung giới, nhưng tâm trạng lănh đạm, tŕ trệ và lưỡng lự làm cho bà không tiến bộ mau được.

 

Cậu thanh niên vốn đă được bà thương mến trước đây, lúc c̣n sống, nay trở lại gặp bà, đem những tia sáng t́nh thương làm tiêu tan sương mù phiền muộn đă tụ tập chung quanh bà và làm cho bà được thức tỉnh. Phúc chốc, bà hiểu rằng cậu trẻ đến để giải thích cho bà biết về cảnh trạng của bà và nói về vẻ đẹp rực rỡ của đời sống cao thượng mà tư tưởng và nguyện vọng của bà từ đây phải hướng về đó. Vừa khi hiểu rơ các điều ấy th́ cảm giác tiềm ẩn trong ḷng bà được đánh thức, để lộ ra một niềm thân ái tràn trề sâu xa đối với người bạn trẻ. Những sợi dây cuối cùng c̣n ràng buộc bà vào đời sống trung giới bị phá hủy, rồi t́nh thương cùng sự tri ân bộc phát, đưa bà đi đến tận tâm thức cao siêu của cơi thiên đàng. Thật là trong vũ trụ không có quyền năng nào to lớn và hữu ích hơn một t́nh thương trong sáng, không ích kỷ.


CHƯƠNG 17

 

 

Công việc cứu trợ trong thờ́ kỳ chiến tranh

 

 

Nhiều người muốn biết nhóm cứu trợ giúp ích được ǵ trong thời kỳ chiến tranh. Trong những giai đoạn đáng sợ nầy, những đoàn viên của nhóm cứu trợ làm việc với một tinh thần rất nhiệt thành. Trong những lúc ấy có rất nhiều công việc không sao kể hết được, cho nên số đoàn viên cũng tăng lên đáng kể. Ngay trong thời kỳ không có chiến tranh, cũng có một số người cứu trợ ở bên ngoài hội Thông Thiên Học, nhưng trong thời kỳ chiến tranh có thêm hàng ngàn người t́nh nguyện làm công việc cứu trợ. Có thể những người nầy trước đó chưa bao giờ nghĩ tới có loại công việc giống như vậy.

 

Những hậu quả do chiến tranh tạo ra thay đổi rất bất thường. Có khi cả ngàn người th́nh ĺnh bị ‘ném’ vào cơi trung giới. Phần đông những người nầy c̣n trẻ trung, khỏe mạnh, nhiều người có tŕnh độ cao. Một người chết v́ tuổi già, khi cường độ cảm xúc đă bị tiêu ṃn gần hết, phần cảm xúc c̣n lại trong người họ tương đối yếu ớt, dễ kiểm soát, nên không gây khó khăn nhiều cho họ. Lúc tuổi đang c̣n trẻ trung, khỏe mạnh, tràn đầy nhựa sống, cường độ cảm xúc cao, lúc sống họ được hưởng nhiều cảm giác hơn, nhưng khi bị chết th́nh ĺnh họ bị dằn dật, khổ sở v́ những cảm xúc ấy. V́ thế cuộc sống ở cơi trung giới của những người nầy có những vấn đề khác biệt cần phải giải quyết.

 

Vậy th́ t́nh trạng của những người bị chết bất th́nh ĺnh như vậy sẽ ra sao? Một số sẽ bị rơi vào trạng thái vô thức đối với thế giới chung quanh trong một thời gian dài. Đó là do kết quả của sự sắp xếp lại những chất liệu của thể vía mà tôi đă đề cập trong chương trước. Tất cả những chất liệu thô kệch nhất của cơi trung giới được xếp bao bọc bên ngoài, chung quanh thể vía h́nh bầu dục, đưa đến kết quả là thể vía của con người chỉ cảm nhận và đáp ứng được với sự rung động của những tư tưởng và những vật thể thô kệch tương đồng với lớp vỏ của thể vía.

 

Tất cả những t́nh cảm cao thượng như t́nh yêu, sự thành tâm, sự thông cảm, ḷng yêu nước…được biểu lộ qua những phần tử tinh vi của thể vía. Trong khi những cảm xúc thấp kém như dục vọng, giận hờn, ganh tỵ, oán thù…được biểu lộ qua những phần tử thô kệch của thể vía. Nơi cơi trần, nếu b́nh thường con người sống đức hạnh, không quen với những ư tưởng thô kệch, th́ khi chết họ không quen với những rung động của lớp màng bao bọc bên ngoài thể vía, đưa đến t́nh trạng là họ sống với giấc mơ màu hồng bên trong lớp vỏ đậm đặc, nên không có ư thức ǵ đến hoàn cảnh khó chịu chung quanh. Cho đến khi những phần tử thô kệch bên ngoài thể vía dần dần tan ră hết, khi đó họ sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao hơn. Nhưng tiến tŕnh ấy phải mất nhiều thời gian, có khi nhiều tuần, hoặc nhiều tháng.

 

Một số người chết đột nhiên mất hết ư thức, giống như trạng thái bất tỉnh đột ngột, kế đó họ lại cảm thấy khỏe khoắn hơn và nhẹ nhàng hơn trước rất nhiều. Sự kiện đó không những chỉ v́ họ được giải thoát ra khỏi trọng lượng của cơ thể vật chất, mà c̣n do sự thoát khỏi áp xuất của bầu khí quyển, trung b́nh khoảng 1 kư lô trên 1 phân vuông, tức khoảng 2 tấn trên toàn cơ thể. Chúng ta đă quen chịu đựng sức ép thường trực ấy lên trên cơ thể đến nỗi không ư thức là có nó, nhưng khi sức ép ấy không c̣n nữa, chúng ta có cảm giác như đă bỏ đi được một gánh nặng trên vai.

 

Thường một người lính bị chết bất th́nh ĺnh không nhận thức và cũng không tin là ḿnh đă chết. Họ cố nhặt lấy khẩu súng, nhưng không nắm được nó, họ cố t́m cách liên lạc với đồng đội nhưng không có kết quả. Họ sẽ quay sang nói với vị cứu trợ: “Anh nói rằng tôi đă chết, nhưng tôi cảm thấy tôi sống động hơn 10 phút trước đây”. Đôi khi họ lại muốn tiếp tục chiến đấu, vị cứu trợ cần phải làm dịu họ lại và giải thích sự việc. Cuối cùng, người lính sẽ nhận ra t́nh trạng hiện tại của họ, thường th́ họ rất thích thú v́ thấy được rằng có nhiều cơ hội mới đang đợi họ. Có người lại vượt qua ranh giới của địch quân để quan sát t́nh h́nh, rồi trở lại kể cho đồng đội c̣n sống nghe, nhưng không thể nào gây được ấn tượng lên trí năo của đồng đội. Khi ấy những đồng đội c̣n sống thường nghĩ rằng đó chỉ là sự tưởng tượng không đáng lưu ư.

 

Một số người lính đă chết chỉ lo lắng về gia đ́nh của họ, những người khác lại mong muốn học hỏi thật nhiều những điều kiện sinh hoạt mới nơi họ đang ở. Vị cứu trợ vô h́nh phải sẵn sàng đối phó với những nhu cầu khác nhau ấy. Công việc chính đ̣i hỏi họ phải làm là chỉ dạy, hướng dẫn cho người mới chết. Thường th́ giải thích cho họ những hiểu biết về Minh Triết Thiêng Liêng. Không phải là chúng tôi muốn áp đặt sự tin tưởng của chính ḿnh lên người khác, nhưng bởi v́ giáo lư ấy có thể giải thích những sự kiện mà họ thắc mắc. Sau khi được nghe dẫn giải, nhiều người chiến sĩ đă chết mong muốn và sẵn sàng làm bất cứ điều ǵ cho đồng đội của họ, những đồng đội c̣n sống hay đă chết, và những hoạt động của họ rất đa dạng và hữu ích.

 

Tôi không thể kể ra hết những hoạt động quá rộng lớn nơi đây, nhưng tôi sẽ đưa ra vài công việc tiêu biểu được những đoàn viên thiếu niên thực hiện trong thời kỳ chiến tranh và họ đă đạt được những thành tích đáng kể. Cyril, người thực hiện việc cứu trợ trong câu chuyện lữ quán bị cháy và câu chuyện hai anh em, vào thế kỷ trước em là một sĩ quan trong quân đội Anh quốc, hai lần bị thương nặng và chịu nhiều khổ sở khi bị bắt và cầm tù tại Đức, sau đó được trả tự do nhờ trao đổi tù binh. Kiếp nầy em là một vị cứu trợ trẻ tuổi tất nhiệt tâm. Sau đây là những công nghiệp khác của em.

 

 

Câu chuyện của Ursula

 

 

Khi làm việc với tư cách những người cứu trợ vô h́nh tại chiến trường, chúng tôi gặp một vị tướng chỉ huy vừa mới chết, mà chúng tôi gọi là Harold. Ông ta rất sẵn sàng nghe những lời giải thích của chúng tôi về cơi trung giới và sớm có thể sống ḥa hợp, vui vẻ trong cuộc sống mới. Nhưng trong ḷng ông c̣n bị đeo đuổi bởi một nan đề chưa giải quyết xong. Ông là con trai trưởng trong gia đ́nh, và có một em trai nhỏ hơn ông một hay hai tuổi, hai anh em rất thân nhau. Ngay sự kiện gần đây, họ cùng yêu một cô gái cũng không làm họ mích ḷng nhau. Harold đă hứa hôn với Ursula trước khi chiến tranh xảy ra. Julian, em trai của Harold, cũng thầm yêu tha thiết Ursula nhưng cương quyết đè nén t́nh cảm của ḿnh.

 

Cả hai anh em đều phải gia nhập quân ngũ khi bắt đầu có chiến tranh. Sau một thời gian ngắn chiến đấu ác liệt trên chiến trường, Julian không may bị thương và được giải ngũ. Chàng trở về nguyên quán và thường xuyên có dịp gặp gỡ Ursula, cô gái mà chàng hằng yêu tha thiết. Ursula cảm nhận được điều đó, và khi xét lại ḷng ḿnh, nàng kinh ngạc khi nhận thấy ḿnh cũng rung động đáp lại t́nh yêu ấy. Tuy hai người đều không thốt ra những lời yêu thuơng nhau, nhưng cả hai đều cảm thấy xấu hổ về sự đam mê của họ. Họ cho rằng đó là sự phản bội đối với người vắng mặt, trong khi anh ấy không có chút ǵ nghi ngờ. Julian và Ursula càng ngày càng đau khổ hơn. Mỗi lần nghỉ phép ngắn hạn về thăm nhà, Harold nhận thấy có một điều ǵ khác thường, mặc dù anh không biết chuyện ǵ xảy ra.

 

Với một tâm trạng không được vui, Harold bị tử trận trong lúc đang hướng dẫn quân sĩ tiến lên gần chiến thắng. Chàng đă chết một cách yên ổn, chỉ có một điều làm chàng nuối tiếc là để lại sự đau buồn cho Ursula và Julian. Chàng thường đến gần họ, cố an ủi họ, và với giác quan bén nhậy của thể t́nh cảm, chàng khám phá ra là hai người ấy yêu nhau tha thiết. Chàng muốn có thể giúp đỡ, hợp tác cho hai người, nhưng trong ḷng họ cứ khư khư bám giữ tư tưởng tội lỗi, cho nên họ lại hiểu lầm ư tưởng tốt của người anh đang cố ảnh hưởng lên họ.

 

Sự kiện người anh thường trở về thăm họ (trong thể vía), lại làm cho họ luôn nghĩ đến anh. H́nh ảnh của người anh trong trí họ làm cho họ càng cảm thấy xấu hổ, có mặc cảm tội lỗi và họ lại càng cương quyết chống lại sự cám dỗ của t́nh yêu. Thực vậy, Ursula đă tự thề với ḷng ḿnh là suốt đời chung thủy chỉ một ḿnh chàng. Trong khi đó, Harold rất lo lắng, không hiểu tại sao những người thân của ḿnh hiểu lầm ḿnh và không chấp nhận ư muốn chân thành của ḿnh.

 

Cyril, vị cứu trợ trẻ tuổi, lănh trách nhiệm trong trường hợp nầy, nhận thấy rằng chỉ khi nào công việc gia đ́nh được giải quyết xong th́ ‘thân chủ’ của em mới được yên tâm nơi cơi trung giới, do đó em theo Harold về nhà để t́m hiểu xem có cách nào giải quyết vấn đề. Hai người gặp Julian và Ursula đang đi chung nhau dưới bóng mát của những tàng cây. Họ rất vui vẻ, nhưng đồng thời trong ḷng họ luôn có cảm giác tội lỗi, không yên. Cyril cố gắng tối đa gieo ấn tượng lên trí họ rằng họ đă được người anh chấp nhận. Julian và Ursula cảm nhận đuợc như vậy, nhưng họ lại nghĩ rằng ư tưởng ấy sinh ra do ảo tưởng để bào chữa tội lỗi. Vị cứu trợ trẻ tuổi của chúng ta cuối cùng cũng phải chịu thua. Em cầu cứu với người bạn lới tuổi và nhiều kinh nghiệm hơn, nhưng những cố gắng của họ cũng không đạt được kết quả ǵ. Sau cùng, Cyril nói:

- Chúng ta không bao giờ thành công nếu không trực tiếp nói chuyện với họ, nếu huynh làm cho tôi hiện h́nh tôi sẽ thuyết phục họ.

Vị cứu trợ lớn tuổi đồng ư, và vài phút sau một em bé trai hăng hái, vui vẻ chạy về phía đôi t́nh nhân đang buồn rầu, la lên:

- Tôi mang tin của Harold đến cho hai người, Harold muốn hai người cưới nhau và hạnh phúc, anh ấy gởi đến hai người sự thương mến và chúc lành.

Đôi t́nh nhân rất sững sốt và có vẻ không vui lắm khi th́nh ĺnh bị một em bé lạ xen vào chuyện t́nh cảm kín đáo, riêng tư của họ. Phải một lúc sau Ursula mới lấy lại được b́nh tĩnh và hỏi:

- Em là ai? Em ám chỉ điều ǵ khi em nói là đưa tin cho Harold? Bộ em không biết là anh ta đă chết rồi hay sao?

Bé trai trả lời:

- Tôi là Cyril, nhưng điều đó không quan trọng, không có th́ giờ nói về chuyện của tôi, hăy cố hiểu những ǵ tôi nói và làm theo lời của Harold.

Cyril biết rằng không nên phung phí năng lực cần thiết dùng cho sự hiện h́nh, em vội vă giải thích về sự chết, và rằng Harold đang đứng bên cạnh hai người, rất sống động và ư thức về t́nh cảm giấu kín của hai người, anh hoàn toàn tán thành và mong muốn cho hai người có hạnh phúc.

Julian la lên:

- Ursula! Tôi tin đó là sự thật! Từ trong đáy ḷng tôi, tôi cảm giác được điều ấy, tôi biết đó là sự thật.

Ursula trả lời  một cách thận trọng:

- Ồ! Tôi cũng chỉ mong có thể tin được điều đó, nhưng tôi không chắc lắm.

Nàng quay sang em bé và nói:

- Em nói là Harold ở tại đây, em có thể chỉ cho tôi thấy anh ấy một lúc được không? Tôi muốn được nói chuyện với anh ấy rồi tôi mới tin.

Cyril hỏi xin người bạn lớn tuổi và được anh bằng ḷng. H́nh dáng của Harold hiện ra, mỉm cười, đôi mắt long lanh nh́n họ; anh bước tới trước nắm lấy bàn tay của Ursula và nhẹ nhàng đặt lên bàn tay của Julian. Rồi chàng đưa tay lên với dáng điệu một giáo sĩ đang ban phúc lành, xong chàng lấy trong áo ra một cây thánh giá bằng vàng, định trao cho Ursula, nhưng trước khi Ursula có thể cầm lấy, th́ anh đă biến mất. Cyril quay về phía vị cứu trợ lớn tuổi:

- Chúng ta có thể lấy cái đó cho nàng được không?

Vị cứu trợ lớn tuổi xoay qua bên một lúc và khi quay trở lại, anh đặt cây thánh giá (bằng vật chất) trong tay Cyril; em đưa cho Ursula và nói:

- Đây là cây thánh giá mà Harold muốn cô giữ nó.

Đôi t́nh nhân vẫn c̣n đứng lặn người, nắm chặt tay nhau với một tâm trạng rất ngạc nhiên về những sự việc xẩy ra. Ursula nhận cây thánh giá, cô nói:

- Bây giờ tôi công nhận đây không phải là giấc mơ, cây thánh giá nầy tôi đă tặng cho Harold trước ngày anh nhập ngũ, tên của tôi được khắc trên đó vẫn c̣n đây.

Julian th́nh ĺnh trực nhớ lại, nắm lấy tay Cyril và nói:

- Chúng tôi chưa nói cám ơn em. Tôi không biết em là ai và tôi cũng không biết rơ chuyện nầy, nhưng em đă giúp chúng tôi quá nhiều, không có ǵ đền đáp được, và tôi không biết làm sao để chứng tỏ được ḷng biết ơn của chúng tôi.

Ursula bước tới trước, cuối xuống định hôn em bé, nhưng em sợ hăi và biến mất, và đôi tay nàng chỉ nắm được khoảng không khí, làm nàng giật ḿnh và thất vọng. Julian t́m cách an ủi nàng và họ nói chuyện với nhau nhiều giờ về điều kỳ diệu xảy đến cho họ hôm nay. Julian rất ân hận không có cơ hội để chứng tơ ḷng biết ơn đối với em bé. Chàng có ư định là nếu trời ban cho họ con cái, th́ đứa con trai đầu ḷng sẽ được đặt tên là Cyril để tưởng niệm ngày hôm nay. Ư kiến nầy làm cho Ursula đỏ mặt, nhưng nàng hoàn toàn đồng ư.

 

Sự việc trên làm cho Ursula thích t́m hiểu về những vấn đề xảy ra sau khi chết nói riêng và những hiện tượng siêu nhiên nói chung. Cyril nhận thấy có cơ hội giúp đỡ một người t́m hiểu Minh Triết Thiêng Liêng, cho nên ngày hôm sau em đi gặp Ursula một lần nữa. Trong lúc nàng đang tản bộ một ḿnh trong vườn cây với một con chó, Cyril được cấp trên cho phép hiện h́nh trong vài phút để nói chuyện và giới thiệu tên của vài quyển sách Thông Thiên Học, mà sau đó nàng đă t́m đọc. Nàng rất vui mừng khi gặp lại em, nhưng lần nầy, em cẩn thận giữ ‘khoảng cách an toàn’. Một điều thú vị là con chó lúc đầu cũng ngạc nhiên và ṭ ṃ, nhưng sau đó nó tỏ ra rất thân thiện với Cyril.

 

 

Di chúc của vị sĩ quan

 

 

Một trường hợp khác cũng được tường thuật lại bởi vị cứu trợ trẻ tuổi vài ngày sau đó. Một sĩ quan sau khi chết rất bận tâm đến việc phân chia tài sản của anh ta. Anh có một bất động sản và một số tiền mà anh phải phân chia bằng di chúc. Trước kia anh bị mẹ ép cưới một người đàn bà mà anh không thương yêu, nên anh đă gia nhập quân đội như là một lư do để tŕ hoăn cuộc hôn nhân bất đắc dỉ ấy.

 

Anh đă bị thương trên chiến trường, và trong khi nằm điều trị trong một bệnh viện, anh bị tiếng sét ái t́nh với một cô y tá người Pháp. Anh đă cưới cô y tá làm vợ theo nghi thức của Pháp, mà không báo cho người mẹ ở Anh quốc biết, sợ bà giận v́ anh đă căi lời và anh cũng biết rằng bà không thích người ngoại quốc. Anh nghĩ rằng tốt hơn là đợi sau khi dứt chiến tranh sẽ đem vợ về tŕnh diện với mẹ và giải thích mọi việc. Anh cũng hy vọng là sẽ có một đứa con trai bồng về nhà để làm dịu lại cơn giận của mẹ.

 

Bây giờ anh đă chết, cho nên những dự định đều không thực hiện được. Anh đă bị trúng đạn trong lúc liều chết để cứu một binh sĩ bị thương. Cả hai người đều bị thương nặng cố ḅ vào hầm trú ẩn. Trước khi chết, anh quyết định cố gắng viết chúc thư. Anh lo lắng không biết trong lúc hỗn loạn nơi chiến trận tờ di chúc sẽ được t́m thấy hay không, có vào đúng tay người nhận không và tờ di chúc như thế có được xem là hợp pháp không? Cũng may là anh ta có mang theo bút máy, nhưng không có giấy, ngoại trừ bức thư cuối mà anh nhận được từ người vợ, có một trang giấy trắng phía sau.. Anh bắt đầu dùng hết tàn lực c̣n lại để viết.

 

Mặc dù đang đau đớn và kiệt lực, anh cố gắng diễn tả chính xác và rơ ràng ước muốn của anh là tất cả tài sản của anh phải được chuyển qua người vợ của anh. Anh cẩn thận viết địa chỉ của người vợ, và thêm rằng, nếu ai t́m được chúc thư nầy xin gởi nó cho vị luật sư của anh ở Luân Đôn. Sau khi kư tên, anh nhờ ngựi lính, cũng sắp chết bên cạnh, kư vào để làm chứng. Người lính cố gắng cầm bút kư vào tờ giấy theo lời yêu cầu, nhưng cây viết bị rơi ra khỏi tay trước khi người ấy có thể viết trọn tên ḿnh! Vài phút sau cả hai người đều qua đời.

 

Chúng tôi cố gắng nói cho anh yên tâm rằng những người đem xác chết đi chôn sẽ t́m thấy chúc thư bên cạnh xác anh, và sẽ lo việc ấy cho anh. Nhưng anh ta không an ḷng, v́ nhiều lư do. Thứ nhất, xác của anh ở một góc xa, có thể họ không t́m đến đó sau khi trận chiến rút lui. Thứ nh́, anh ta sợ rằng nước mưa sẽ làm mờ hết chữ viết trên tờ giấy vốn đă dính những vết máu. Thứ ba, cho dù nó được t́m thấy với chữ c̣n đọc được, nhưng do sự sơ suất người ta có thể gởi nó về quê quán của anh cho bà mẹ, thay v́ gởi cho vị luật sư của anh. Anh rất hy vọng là đứa trẻ trong bụng người vợ đang mang thai sẽ là con trai, và nó sẽ được thừa hưởng gia tài hương quả của anh để lại. Anh nghĩ rằng trong vài trường hợp đăc biệt, di chúc viết tay không có người chứng, có thể được chấp nhận.

 

Anh ta có một người bạn học cũ ở vùng gần đó, là hy vọng duy nhất có thể giúp được trong việc nầy. Chúng tôi t́m cách ảnh hưởng lên trí năo của người bạn nầy, nhưng sau nhiều lần đều bị thất bại. Chúng tôi đành phải dùng ‘chiêu thức’ cũ, tức là làm cho một người cứu trợ trẻ trong nhóm hiện h́nh. Những khó khăn cuối cùng cũng được vượt qua, và người bạn cũ của anh được hướng dẫn t́m ra xác chết của anh. Chúc thư cũng được t́m thấy và được gởi đến cho vị luật sư. Như vậy sự mong muốn của chàng sĩ quan nầy được thực hiện, và tâm trí anh được yên ổn từ đây.

 

 

Vài trường hợp nhỏ nhặt

 

 

Những vị đoàn viên trẻ của chúng tôi chứng tỏ rất hữu ích khi làm việc ở cơi trần. Một lần kia, những người dân quê chạy trốn một cách hỗn loạn khi quân Đức xông vào những mái nhà tranh của họ để đốt phá. Những vị cứu trợ trẻ hướng dẫn họ chạy đến một hang nhỏ gần bờ sông để ẩn núp, đợi đến khi quân Đức bỏ đi. Sau đó dân làng trở về và cố gắng dập tắt ngọn lửa đang c̣n cháy của một căn nhà, rồi họ tạm ngủ qua đêm nơi ấy, và sáng sớm hôm sau họ di tản qua làng kế bên để tránh bọn cướp quay trở lại.

 

Vài ngày sau, Cyril cứu được hai mạng sống nữa, một trai và một gái. Chúng là người duy nhất c̣n sống sót trong làng, sau khi quân Đức vào làng và giết hết mọi người, trong đó có nhiều trẻ em. Khi quân lính bỏ đi, chúng nó cố chạy trốn đi nơi khác. Trong lúc chúng đang len lỏi giữa những căn nhà th́ chiến trận tái diễn trở lại trong làng. Cyril t́m thấy chúng đang ẩn núp trong một chỗ trũng dưới đất, giữa lùm cây, những tiếng đạn pháo bay tới tấp không ngừng phía trên đầu của chúng nó. Núp dưới chỗ trũng ấy, chúng tránh khỏi lằn đạn, nhưng quân Đức vẫn c̣n ở trong đám rừng nhỏ kế bên có thể nh́n thấy và giết chúng. Sau cùng quân Đức bị đánh bật ra khỏi đám rừng. Quân đồng minh không chiếm giữ nơi đó, và trận chiến vẫn tiếp tục ở vùng chung quanh gần đó suốt ngày đêm, v́ thế chúng không dám di động. Chúng bị ướt và lạnh, đến khi Cyril t́m thấy chúng th́ chúng đă bị đói hai ngày rồi. Em bé trai cởi áo ra để đắp cho đứa em gái, mặc dù chính nó cũng đang bị lạnh run, cả hai có vẻ rất yếu ớt.

 

Cyril hiện h́nh, hai em bé có vẻ sợ sệt, không biết tại sao Cyril lại đến đây, và chúng không hiểu Cyril nói ǵ. V́ thế Cyril phải hỏi người bạn lớn tuổi vài từ ngữ địa phương để làm cho chúng an ḷng. Cyril truyền hơi ấm và sức mạnh cho em bé trai, kế đó nó t́m được trong ba lô của một binh sĩ đă chết một ít bánh ḿ và lạp xưởng đem lại cho chúng. Tuy bụng đói như cào, nhưng em bé trai cũng nhường cho em gái ăn trước. Cũng may! Có thêm một binh sĩ tử thương gần đó! Cho nên có đủ thực phẩm cho cả hai anh em. Sau khi chúng cảm thấy khỏe trở lại, Cyril dẫn chúng chạy. Nhưng cả bọn không biết hướng nào ít nguy hiểm. Cyril bay lên cao để thấy được trọn chiến trường và tính toán con đường an toàn để tẩu thoát. Cyril giúp đỡ, khuyến khích chúng gắng sức thêm, và cuối cùng đem chúng tới được vùng hậu phương của chiến tuyến. Nơi đây, nhóm quân sĩ người Pháp cho chúng thực phẩm và đưa chúng đến một bệnh viện dă chiến. Các cô y tá chăm sóc, đắp ấm, và để chúng ngủ yên. Bây giờ hai em bé được an toàn, yên ổn trong sự săn sóc của những người tốt, trong khi tất cả những người thân của chúng đều bị chết trong chiến loạn.

 

Một trường hợp khác xảy ra trên một chiếc cầu dài bắc ngang qua sông. Một cô gái có ư định vượt qua cầu để lấy vài ổ bánh ḿ đem về cho mẹ và mấy em nhỏ đang bị đói. Đó là một ư định vội vàng nguy hiểm, v́ trận chiến c̣n đang tiếp diễn quanh vùng. Cô gái đợi đến lúc ‘thuận tiện’, rồi bắt đầu chạy qua cầu. Nhưng cô vừa chạy tới giữa cầu th́ một đám đông quân lính bị đánh bại, ồn ào, hỗn loạn chạy lên cầu và phía sau họ là kẻ thù đang đuổi theo, ném những quả lựu đạn vào họ. Đám quân lính chạy tán loạn t́m đường sống, chen lấn, dẫm đạp lên nhau, có người bị rơi xuống cầu. Cô bé vốn đă rất yếu đuối v́ đói, như bị tê liệt v́ quá sợ hăi, không c̣n lối nào để thoát thân. Cyril hiện h́nh và đưa cô ngang qua thành cầu, xuống phía dưới để cô núp giữa hai trụ cột chống đỡ chiếc cầu. Cô tạm nép ḿnh ở đó một cách tương đối an toàn, mặc dù vẫn c̣n run sợ. Đến khi cả hai nhóm quân lính rượt đuổi nhau đă qua khỏi chiếc cầu, cô leo lên trở lại và tiếp tục công việc t́m thực phẩm cho mẹ và các em.

 

Gần đây Cyril khám phá ra một công việc rất hữu ích, đó là giúp cho những tàu thuyền tránh các thủy lôi, bằng cách ảnh hưởng lên trí năo của người lái tàu. V́ khi ở trong thể vía, em có thể nhận thấy các thủy lôi dưới nước một cách dễ dàng, và em đă thành công trong việc hướng dẫn một số tàu thuyền tránh khỏi những cạm bẫy. Trước hết, em thử nói cho tài công biết rằng có thủy lôi trên đường tàu chạy. Nhưng thuờng th́ không dễ dàng gây ấn tượng vào trí hắn. Cho nên nhiều lúc em phải làm cho hắn bị lạc tay lái trong vài phút, đủ để vượt qua khỏi chướng ngại. Khi tài công sực tỉnh lại, thường anh ta hốt hoảng khi thấy chiếc tàu chạy lệch hướng, anh ta lật đật bẻ bánh lái lại cho đúng, hy vọng rằng không ai thấy anh ‘ngủ gật’ làm lệch lối đi. Có trường hợp vị thuyền trưởng thấy hướng đi bị lệch, ông rầy la người tài công, làm cho anh ta vô cùng bối rối và đổi hướng trở lại, nhưng may mắn là chiếc tàu đă vượt qua vùng nguy hiểm.

 

Muốn đạt được kết quả, nhiều lúc cũng không phải dễ dàng, v́ không dễ ǵ làm lạc hướng một hoa tiêu có kinh nghiệm. Trong một trường hợp, em không thể làm cho người tài công thay đổi hướng đi trong lúc sự nguy hiểm cận kề, một bàn tay của Cyril hiện h́nh, kéo tay lái cho chiếc tàu tránh sang một bên. Khi thấy bàn tay, người tài công quá sợ hăi, mất b́nh tỉnh, bỏ chạy và la lên. Lợi dụng lúc ấy, Cyril lái chiếc tàu tránh khỏi thủy lôi. Khi vị thuyền trưởng chạy đến pḥng lái để kiểm soát th́ lúc đó chiếc tàu đă vượt qua khỏi vùng nguy hiểm. Những người trên tàu bàn tán rằng, có lẽ anh tài công say rượu hoặc đang mơ màng ǵ đó, và hắn trở thành cái bia để mọi người chế diễu. Nhưng hắn vẫn một mực nói rằng, có một bàn tay trắng xóa đă kéo tay lái và đă làm cho chiếc tàu chạy lệch hướng. Đối với những thủy thủ có ḷng tin về những hiện tượng siêu nhiên th́ đây là một câu chuyện ma khá hấp dẫn.

 

 

Bé Ethan

 

 

Sau đây là câu chuyện của bé Ethan, cha của em đă bị chết vào những ngày đầu của cuộc chiến. Mẹ của em đă qua đời lúc em c̣n rất nhỏ, và cha của em phải chịu cảnh ‘gà trống nuôi con’, hai cha con rất thương yêu, khắn khít nhau. Ethan rất ngưỡng mộ người cha cao lớn, khỏe mạnh, nhưng cư xử rất mềm mỏng với con. Em bé luôn hiểu được những ǵ cha em dạy bảo, và hai người thường bàn luận với nhau nhiều đề tài mà thường những đề tài ấy không được đem ra nói với trẻ em khoảng tám tuổi. Hai cha con rất thông cảm lẫn nhau, và họ biết tâm ư của nhau mà không cần dùng ngôn ngữ. Khi người cha phải gia nhập vào quân đội, ông giao Ethan lại cho người anh họ chăm sóc, đây là một người đàn ông vui tính có giọng nói to. Gia đ́nh mới nầy rất đông người, ồn ào, nhưng họ đối xử với Ethan rất tốt, tuy họ không hiểu được chiều sâu tâm hồn của em. Khi cha em bị chết, có để lại của cải đủ cho em khỏi thiếu thốn về vật chất. Những người trong nhà rất xúc động và thương tiếc về cái chết của cha em. Họ lo lắng cho em rất chu đáo, họ làm bất cứ điều ǵ để an ủi em. Ethan hoàn toàn hiểu và biết ơn ḷng tốt của những người trong nhà, nhưng những điều ấy không làm nguôi được ḷng thương nhớ cha từng giờ từng phút, và không có ǵ có thể thay thế được người cha thân yêu. Em chết dần ṃn với sự nhớ nhung, và những người trong nhà không biết làm cách nào để khuyên giải.

 

Trong thời gian nầy, người cha rất lo lắng và lẩn quẩn bên Ethan. Mỗi đêm, khi Ethan rời khỏi xác thân, họ lại gặp nhau và cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc như xưa. Nhưng khi thức dậy vào buổi sáng, Ethan không nhớ được ǵ xảy ra trong giấc ngủ, mặc dù nó có cảm giác mơ màng là đă trải qua những giờ phút đẹp đẽ, vui tươi trong giấc mộng. V́ thế vào mỗi buổi sáng nó có được một lúc vui vẻ, nhưng sau đó, cảm giác chán nản, trống rỗng và buồn bă lại đến.

 

Lúc đầu, Cyril chú ư đến câu chuyện, muốn giúp đỡ người cha, nhưng sau đó nó cảm thấy thương xót bé Ethan, và quyết định làm mọi cách để cứu em khỏi chứng ưu sầu đang bào ṃn cuộc sống của em. Điều hiển nhiên là cần phải giúp cho em nhớ lại được những sự việc xảy ra trong đêm, khi em tách ra khỏi xác thân. Nhưng tất cả những cố gắng đều không thành công v́ Ethan không có chút ư niệm nào về vấn đề nầy, cho nên trí óc của em bị khép kín đối với khả năng ấy.

 

 

Nơi cơi trung giới, Cyril được sự tín nhiệm của em bé Ethan rụt rè nầy, và họ trở nên bạn tốt. Nhưng tất cả những chỉ dẫn của Cyril để bù đắp chỗ khiếm khuyết của Ethan h́nh như hoàn toàn thất bại, Cyril phải buộc ḷng dùng lại ‘chiêu thức’ cuối cùng. Một buổi sáng, khi Ethan thức dậy, em vừa mở mắt ra th́ thấy Cyril đang đứng bên cạnh giường, Cyril mỉm cười và nói:

- Bây giờ bạn biết rơ tôi là ai rồi, phải không? Bạn có nhớ lúc năy tôi đứng một bên nắm tay bạn, trong khi cha của bạn nắm bàn tay kia của bạn?

- Đúng rồi! đúng rồi!

Ethan la lên một cách thích thú.

- Nhưng bây giờ cha tôi đâu rồi?

- Ông vẫn c̣n nắm tay bạn, nhưng bạn không thể thấy được ông ấy. Tôi chỉ có thể làm cho bạn thấy được tôi trong một lúc ngắn ngủi, và tuy tôi không thể làm cho bạn nh́n thấy được cha, nhưng tôi có thể làm cho bạn cảm giác được bàn tay của ông.

- Tôi nhận thấy được rồi! -Ethan nói- Bàn tay thân yêu của cha tôi, đặc biệt nhất trên thế gian.

Sau kinh nghiện nầy, Ethan có thể nhớ lại tất cả những ǵ mà cha nó đă nói trong đêm đó.

 

Sáng sớm hôm sau, chỉ cần hai bàn tay của Ethan được siết chặt, một bên bởi bàn tay bé nhỏ của Cyril, một bên bởi bàn tay to lớn của cha em, là em có thể nhớ lại được những sự việc xảy ra trong đêm, mà Cyril không cần phải hiện h́nh nữa. Từ đó Ethan có thể nhớ càng ngày càng nhiều những sinh hoạt của thể vía trong đêm, và Cyril dẫn giải giáo lư Minh Triết Thiêng Liêng cho cả hai cha con.

 

Ethan rất hạnh phúc và thân thể mạnh khỏe, tươi tắn trở lại. Người trong nhà không hiểu v́ sao nó được b́nh phục, cũng như họ đă không hiểu về chứng bệnh u uất của nó, mà Ethan cũng không thể nào giải thích cho họ hiểu được.


CHƯƠNG 18

 

 

Những nhiệm vụ khác

 

 

Bây giờ chúng ta hăy tạm ngưng nói về những công việc giúp đỡ người chết để bàn sơ lược những điểm chính yếu trong công việc giúp đỡ người sống, v́ nếu không đề cập đến những công việc dành cho người sống là thiếu sót quá nhiều trong việc tường thuật những nhiệm vụ của các vị cứu trợ vô h́nh. Có rất nhiều điều được thực hiện, bằng sự gợi ư, hoặc bằng cách dùng những tư tưởng tốt lành để gây ấn tượng lên trí năo của những người xứng đáng và sẵn sàng đón nhận nó.

 

Mong rằng bạn đọc không hiểu lầm điều mà chúng tôi diễn tả ở trên. Vị cứu trợ vô h́nh rất dễ dàng chế ngự trí năo của một người b́nh thường, và tùy ư điều khiển tư tưởng của người ấy, trong khi ‘nạn nhân’ không có chút ǵ nghi ngờ rằng có người đă ảnh hưởng lên tư tưởng của họ. Cách thức chế ngự tư tưởng người khác rất có hiệu quả, nhưng phương pháp ấy không được chấp nhận, những vị cứu trợ phải biết tự hạn chế xử dụng nó. Chúng ta chỉ được đưa tư tưởng tốt lành vào trí năo của người ḿnh muốn giúp, trong số cả trăm tư tưởng khác không ngừng đi qua tâm trí của người đó. Rồi việc tiếp nhận, đồng hóa và thực hành hay không th́ hoàn toàn do chính người đó quyết định. Nếu họ không chấp nhận tư tưởng ấy, th́ dĩ nhiên nhân quả tốt do ư định tốt chỉ có vị cứu trợ được hưởng mà thôi. Như vậy họ chỉ là phương tiện để vị cứu trợ thực hành sự chia sớt t́nh thương, và đó không phải là điều mà chúng tôi muốn.

 

Công việc giúp đỡ nầy được thực hiện bằng nhiều cách. Khuyên giải những người đang buồn rầu, đau khổ. Cố gắng hướng dẫn, giải thích chân lư cho những người thành tâm t́m  kiếm. Đối với người đang gặp khó khăn trong việc nghiên cứu những vấn đề tâm linh hoặc siêu h́nh và họ đang bị xáo trộn, bứt rứt, th́ vị cứu trợ có thể tŕnh bày và đưa vào trí năo của người ấy phương pháp giải quyết, mà không làm cho họ nghi ngờ chút nào là ư kiến đó đến từ người khác.

 

Một vị đệ tử có thể được dùng như là một ‘đại diện’ để đáp ứng lại những lời cầu nguyện. Bởi v́ những ước vọng chân thành phát ra từ người cầu nguyện sẽ nhận được vài kết quả. Cố gắng tinh thần như thế thường được đáp ứng từ Đấng Tối Thiện. Đôi khi vị cứu trợ được xử dụng như là một vận hà cho năng lực tuôn xuống từ cơi trên. Sự kiện nầy đem lại hữu ích cho người cầu nguyện và càng hữu ích hơn cho những người thực hành thiền định.

 

Ngoài những phương pháp tổng quát, c̣n có những cách thức riêng rẽ để giúp đỡ trong những trường hợp đặc biệt, ít xảy ra. Như những vị đệ tử có thể đưa những tư tưởng chân chính, cao đẹp để gợi hứng cho những văn, thi sĩ, mỹ thuật gia và nhạc sĩ. Nhưng không phải tất cả những vị cứu trợ đều có khả năng để làm công việc đó.

 

Đôi khi, tuy rất hiếm, vị cứu trợ phải báo trước những sự nguy hiểm có thể xảy ra cho người đang phát triển tâm linh theo chiều hướng dễ bị ảnh hưởng từ những phần tử xấu, và vị cứu trợ phải làm vô hiệu hóa những âm mưu đen tối của nhóm hắc đạo. Thường th́ giáo huấn về những chân lư cao siêu ít khi được chỉ dạy trực tiếp, ngoại trừ cho những sinh viên huyền bí. Nhưng đôi khi những chân lư ấy được đưa vào tâm trí của những giáo sĩ, những giảng sư như là một chuỗi những tư tưởng bao quát, với quan điểm tự do hơn.

 

Có một ứng dụng khác rất quan trọng đối với phương pháp gợi ư nầy, được thực hiện bởi những vị cứu trợ cấp cao, có nhiều kinh nghiệm. Ở cấp độ thấp, vị cứu trợ có thể trợ giúp cho một người đang gặp phải những khó khăn cá nhân hoặc một số người thân thuộc liên hệ. Ở cấp độ cao hơn, sự gợi ư như thế có thể áp dụng đối với những người chịu trách nhiệm trong chính giới hoặc tôn giáo, như tổng thống, bộ trưởng, các vị cầm đầu trong giáo hội. Nếu những vị có thẩm quyền cảm nhận được những ư kiến mới và đem ra thực hành sẽ mang lại lợi ích cho cả quốc gia, có khi cho cả sự tiến bộ của thế giới. Cần biết rằng, phía sau những sự việc hỗn độn, tham lam, ích kỷ của thế gian, có sự tiến hóa trong trật tự. Những vị Chân Sư trong Thiên Đoàn cao cả tạo thành chính phủ thật sự bên trong, cai quản toàn thế giới.

 

Khi tiến bước trên đường đạo, sinh viên huyền bí dần dần hoạch đắc những khả năng cao siêu mà họ có thể xử dụng để giúp đời. Thay v́ chỉ giúp đỡ những cá nhân, họ có thể giúp cho cả một quốc gia, chủng tộc. Dần dần họ được giao phó cho một phần trong những công việc quan trọng của Chân Sư. Trong khi thâu thập những khả năng và kiến thức cần thiết, họ bắt đầu dùng được những năng lực mạnh mẽ hơn của cơi trí và cơi t́nh cảm. Họ cũng được chỉ dẫn về ảnh hưởng thuận lợi của từng chu kỳ. Họ sẽ đưọc kết nối với những vị Nirmânakâya, nhũng vị nầy có khi được gọi tượng trưng là ‘Những viên đá của bức tường bảo vệ’ (Stones of the Guardian Wall). Trước hết, ở bậc thấp nhất, sẽ là một nhân viên trong nhóm những vị ban ân huệ, và học tập cách phân phát những mănh lực nầy, vốn là thành quả của sự hy sinh cao thượng. Họ tiến lên như vậy, từ cấp nầy đến cấp kia, để cuối cùng đến bậc Chân Sư. Chừng đó họ có thể gánh lấy trách nhiệm của một vị Chân Sư Minh Triết và giúp đỡ kẻ khác đang đi trên con đường mà họ đă đi qua.

 

Công việc ở cơi thượng giới, có khác hơn chút ít; Giáo lư có thể đồng thời ban ra và nhận lănh một cách trực tiếp, mau lẹ và đầy đủ hơn. Mặt khác, những ảnh hưởng được vận dụng sẽ mạnh mẽ hơn vô cùng. Hiện tại, nếu đề cập nhiều chi tiết cũng không ích lợi ǵ, v́ trong chúng ta, chưa người nào có được đầy đủ ư thức trên cơi đó trong lúc c̣n sống ở cơi trần. Nơi cơi trần và cơi trung giới, nếu chúng ta có khả năng, chúng ta có rất nhiều công việc để làm. Trải qua vô số thời đại, chắc chắn không bao giờ chúng ta phải lo thiếu môi trường để chúng ta hoạt động phụng sự bất vụ lợi.


CHƯƠNG 19

 

 

Những điều kiện cốt yếu

 

 

Câu hỏi được đặt ra là, làm thế nào có đủ khả năng để dự vào công việc vĩ đại nầy? Những điều kiện mà một người chí nguyện cần phải có để trở thành một vị cứu trợ vô h́nh không có ǵ huyền bí. Sự khó khăn không phải là vấn đề học hỏi về những đặc tính đó như thế nào? Mà chính là phải phát triển những đặc tính đó trong bản thân của chúng ta. Những điều đó đă được miêu tả sơ lược ở trên. Tuy nh́ên, chúng ta cũng cần tŕnh bày và phân loại một cách có hệ thống và đầy đủ hơn.

 

1- Mục đích cố định. Điều kiện đầu tiên là chúng ta phải hiểu rơ nghĩa vụ cao quí mà các vị Chân Sư mong muốn cho chúng ta thực hiện, và chúng ta phải nhận thấy rằng nghĩa vụ nầy cũng sẽ đem lại lợi ích cho chính chúng ta. Phải tập phân biệt chẳng những công việc hữu ích với việc vô ích, mà c̣n phải phân loại các công việc hữu ích nhiều hoặc ít. Để mỗi người chúng ta có thể hiến dâng cho công việc cao thượng nhất mà ta có thể đóng góp vào, thay v́ hoang phí thời giờ và sức lực để theo đưổi một công việc nhỏ nhặt, có thể là rất tốt đối với một người b́nh thường, như thế có vẻ phí phạm đối với sự hiểu biết và khả năng của người Thông Thiên Học. Muốn đủ sức lănh  nhiệm vụ ở cơi cao, ta phải bắt đầu tận tâm tận lực làm những công việc hữu ích nơi cơi thấp nầy theo mục đích của Thông Thiên Học.

 

Dĩ nhiên, tôi không có ư nói rằng phải xao lăng những phận sự thông thường trong cuộc sống. Chúng ta không cần phải đảm đương thêm một phận sự mới nào ở cơi trần, nhưng những ǵ đă gánh trên vai là bổn phận do sự ràng buộc nhân quả, chúng ta không có quyền bỏ quên. Nếu chúng ta chưa làm xong bổn phận mà nhân quả đă định cho, th́ chúng ta chưa tự do để lo những nhiệm vụ cao hơn. Tuy nhiên, những nhiệm vụ cao hơn nầy đối với chúng ta phải là mục tiêu duy nhất, xứng đáng trong cuộc sống, một nền tảng bên trong cuộc sống mà chúng ta đă hiến dâng vào công việc của các đấng Chân Sư từ ái.

 

2- Hoàn toàn tự chủ. Trước khi các năng lực cao thuộc cơi trung giới có thể được giao phó cho chúng ta mà không nguy hiểm, chúng ta cần phải tự chủ hoàn toàn. Thí dụ, tánh nết của chúng ta phải được kiểm soát trọn vẹn để bất  cứ điều ǵ chúng ta thấy hoặc nghe cũng không thể làm cho chúng ta bị kích động, v́ hậu quả của sự kích động ở cơi trung giới sẽ trầm trọng hơn ở cơi trần rất nhiều. Tư tưởng luôn luôn có năng lực vĩ đại, nhưng ở cơi thấp nó bị ngăn trở, tŕ trệ, v́ phải tác động qua những tế bào thần kinh thô sơ. Nơi cơi trung giới nó tác động một cách tự do và mạnh mẽ hơn, khi một người có năng lực hoàn toàn linh hoạt ở cơi nầy mà tức giận một người khác, sẽ gây ra cho người ấy những ảnh hưởng rất tai hại, nguy hiểm.

 

Chẳng những cần phải kiểm soát những tâm trạng của chúng ta, mà c̣n phải giữ b́nh tĩnh để khỏi bị bất cứ quang cảnh kỳ quái hay ghê gớm nào mà chúng ta có thể gặp phải, làm lung lạc sự can đảm của chúng ta. Nên nhớ rằng, khi làm cho một người được thức tỉnh ở cơi trung giới, vị đệ tử phải chịu trách nhiệm, trong phạm vi nào đó, về hành vi và sự an toàn của họ. Do đó nếu người tân đoàn viên không đủ can đảm ở một ḿnh th́ vị cứu trợ già dặn hơn phải mất thời giờ để đi theo bảo vệ hắn. hiển nhiên là điều đó không được hợp lư.

 

Để biết chắc sự vững tâm, b́nh tĩnh của các thí sinh và chuẩn bị cho họ bắt tay vào phận sự đang chờ đợi, vào thời đại nầy cũng như thuở xưa, luôn luôn họ phải trải qua những cuộc thử thách về: đất, nước, gió và lửa. Nói cách khác, họ phải học tập với ḷng tin tuyệt đối, không phải trên lư thuyết suông mà c̣n trên thực hành và kinh nghiệm, rằng trong thể vía, không có một yếu tố nào có thể làm có thể làm hại họ được, không  có chướng ngại nào ngăn cản được họ thi hành phận sự.

 

Chúng ta hoàn toàn tin chắc là lửa đốt cháy được xác thân của chúng ta, nước làm cho chết ngộp, đá rắn chắc ngăn trở không cho ta đi xuyên qua, chúng ta không thể phóng ḿnh ra giữa không gian nếu không có vật ǵ nâng đỡ chúng ta lên. Sự tin tưởng nầy đă thấm sâu vào trí chúng ta cho đến nỗi thường thường phải cần một sự cố gắng lớn lao để vượt qua các động tác tự nhiên. Phải nhận thức rằng khi ta ở trong thể vía th́ viên đá đông đặc nhất cũng không cản được sự đi lại của chúng ta. Ta có thể gieo ḿnh từ nơi cao của bờ dốc rất hiểm trở, mà không gây hậu quả nào, và hoàn toàn tin chắc rằng dù có chui vào miệng hỏa diệm sơn đang phun lửa, hoặc lặn xuống vực thẳm của đại duơng, cũng không hại ǵ.

 

Nếu chưa hiểu rơ và đầy đủ như vậy để có thể hành động một cách tự nhiên, đầy ḷng tin, th́ người ấy chưa thích hợp với công việc trong cơi trung giớí. Những sự việc khẩn cấp xảy ra rất thường xuyên, nên người như thế không thể hành động ǵ được v́ những lo sợ tưởng tượng. Vậy hắn phải trải qua những cuộc thử thách, và qua nhiều kinh nghiệm lạ lùng khác. Phải b́nh tĩnh và can đảm để đối đầu với những ma quái hiện h́nh kinh khủng nhất, trong những môi trường đáng ghê tởm nhất. Cuối cùng chứng minh rằng sự vững tâm, b́nh tĩnh của người ấy xứng đáng với tất cả ḷng tín nhiệm, dù ở hoàn cảnh nào và bất cứ lúc nào.

 

Sự kiểm soát trí năo và dục vọng cũng cần thiết cho ta, v́ nếu không có năng lực định trí, th́ không thể nào làm được công việc có hiệu quả trong hoàn cảnh bị nhiều chi phối làm cho rối trí, ở cơi trung giới. Ở cơi nầy, hễ ham muốn điều ǵ th́ thường được điều đó, cho nên nếu chưa kềm chế được bản tánh dục vọng th́ chúng ta có thể tạo ra một số sự vật để thỏa măn, đến khi nh́n lại chúng ta sẽ tự xấu hổ vô cùng.

 

3- Sự trầm tĩnh. Cũng là một đặc tính rất quan trọng. Không bao giờ nên lo lắng hoặc chán nản. Có rất nhiều công việc cần phải trấn tĩnh những người đang bị bối rối, hoặc ủy lạo những người đang buồn khổ, như vậy vị cứu trợ vô h́nh làm sao đủ khả năng để làm việc ấy, trong khi chính ḿnh lại xao động v́ thiếu b́nh tĩnh, hoặc lo lắng, hay là hiện ra sắc mặt tái mét, triệu chứng của một t́nh trạng yếu kém tinh thần. Tất nhiên là không có ǵ nguy hiểm cho sự tiến bộ, hoặc cho phận sự huyền bí của chúng ta. Trong thời đại nầy, chúng ta lại có thói quen lo nghĩ về những việc không đâu, không ngừng làm những quả núi từ những nấm đất trên miệng hang chuột nhũi. Nhiều người trong chúng ta, trải qua trọn kiếp sống để thêu dệt những chuyện tầm phào, nhỏ nhặt, và trịnh trọng, gắng sức tự làm cho ḿnh khốn khổ về những chuyện không đâu.

 

Vốn là người Thông Thiên Học, chúng ta phải vượt qua khỏi thời kỳ dao động phi lư và nản ḷng vô căn cứ. Chắc rằng chúng ta đang cố gắng thâu thập những kiến thức đúng đắn theo trật tự vũ trụ, chúng ta phải nhận thức một cách lạc quan về mọi sự vật. Sự nhận thức ấy luôn luôn gần gũi với quan điểm thiêng liêng, v́ thế tương hợp với chân lư. Bởi v́ trong con người, chỉ có những ǵ tốt đẹp mới tồn tại vĩnh cửu, c̣n điều xấu, chính do bản chất của nó, là giả tạm. Sự thật, cũng như Browning đă nói: “Điều quấy không tồn tại mà cũng không phải thực tại. Chính sự yên lặng làm cho ta nghe được âm thanh.” Đang khi ấy, ở nơi cao và xa hơn th́: “Hồn của sự vật th́ diu dàng, tâm của sự hiện tồn là an nghỉ nơi thiên đàng.” Cũng thế, các vị đă ‘thông đạt’ th́ giữ sự trầm tĩnh, không có ǵ làm xao động được, và kết hợp vào tâm từ bi cao cả của các Ngài với một sự an tĩnh vui tươi v́ tin chắc rằng tất cả sẽ kết thúc tốt đẹp. Người nào mong muốn phụng sự, cần phải học tập theo gương các Ngài.

 

4- Sự hiểu biết. Muốn được hữu dụng thí ít ra con người phải hiểu biết những  điều cương yếu để thi hành, và càng hiểu biết về nhiều phương diện th́ người ấy càng hữu ích cho công việc. Phải tập có khả năng thích hợp cho công việc, bằng cách nghiên cứu kỹ lưỡng tất cả những điều đă được ghi về vấn đề nầy trong văn chương Thông Thiên Học. Không nên mong đợi những vị đă quá bận rộn, phải bỏ phí một phần thời giờ để giải thích cho ta những điều mà ta có thể học hỏi tại cơi trần, và chịu khó tham khảo sách vở. Nếu ta chưa học tập xong những điều chính yếu, thích hợp với những khả năng và những cơ hội như đă được qui định, th́ có lẽ là chưa đúng lúc nghĩ đến sự gia nhập vào hàng ngũ của những người phụng sự nơi cơi trung giới.

 

5- Ḷng vị tha. Có thể cũng không cần nói rằng Đây là một điều kiện. V́ chắc rằng tất cả mọi người, dù chỉ hiểu biết rất ít về Minh Triết Thiêng Liêng, cũng biết rằng một sự ích kỷ, dù nhỏ nhặt, sẽ ngăn trở thí sinh hoạch đắc những năng lực cao. Và người dấn thân vào công việc phụng sự phải tự quên đi bản ngă để chuyên tâm lo cho kẻ khác. Người nào c̣n những tư tưởng ích kỷ, người mà cá nhân tính c̣n quá mạnh, hoặc có những cảm giác kiêu căng nhỏ mọn, th́ chưa sẵn sàng để nhận lănh những công việc vô vị lợi của vị cứu trợ.

 

6- T́nh thương. Đây là điều kiện chót và là điều kiện chủ yếu cần phải có, cũng là điều dể làm cho người ta hiểu lầm nhất. Tôi xác nhận rằng, t́nh thương nầy không phải là sự đa sầu đa cảm rẻ tiền, làm bộ và không thực tế, cứ thố lộ măi những sự tầm thường, viễn vông cùng những phiếm luận tổng quát, mà không có lập trường vững chắc về ư kiến riêng của ḿnh, bởi họ lo sợ những kẻ dốt nát nói xấu rằng ḿnh không có t́nh huynh đệ. Điều cần thiết là phải có t́nh thương thật mạnh mẽ, hầu gạt bỏ tánh khoe khoang, và làm việc trong im lặng. Đó là ḷng khao khát phụng sự, luôn luôn nắm lấy cơ hội để phụng sự, nhưng ưa thích ẩn danh. Đó là đạo nghĩa phát xuất từ trong tâm con người vào ngày mà họ hiểu được vai tṛ bao la của Đấng Tối Cao. Một lần nhận thấy được điều đó, họ sẽ biết rằng trong ba cơi thế giới, họ không thể sống riêng cho ḿnh, mà phải đồng hóa với vai tṛ nầy cho đến khi sức cùng lực tận. Dù trong phạm vi nhỏ nhặt nhất trên một đoạn đường vô hạn, họ phải trở thành một vận hà bé nhỏ cho ḷng bác ái tuyệt diệu của Ngài, giống như sự an lạc của Ngài, vượt qua sự hiểu biết của loài người.

 

Đó là những đức tính mà vị cứu trợ phải cố gắng rèn luyện không ngừng và phần lớn phải được mở mang, trước khi hy vọng được các đấng cao cả đang chăm sóc chu kỳ tiến hóa, nh́n nhận là xứng đáng để được thức tỉnh hoàn toàn. Tôi cũng biết, đây là một lư tưởng thật cao siêu, nhưng không có lư do nào để từ chối hoặc để mất ḷng tự tin. Cũng không phải để có ư tưởng tiêu cực rằng, việc theo đuổi lư tưởng hăy c̣n khó khăn, nên phải chịu hoàn toàn vô dụng ở cơi trung giới. Khi ta chưa được thức tỉnh trọn vẹn và chưa lănh những nhiệm vụ nguy hiểm, th́ ta cũng có thể trở nên hữu ích trong những phần việc an toàn hơn.

 

Mỗi đêm, hầu hết chúng ta, ít ra cũng có làm được một công việc bác ái, đầy thiện ư, sau khi xuất vía ra khỏi xác thân. Không nên quên rằng, trong giấc ngủ, chúng ta thường hay ch́m đắm trong sự suy tư, chúng ta theo đuổi những tư tưởng đă làm cho chúng ta bận rộn nhất trong ngày, đặc biệt là tư tưởng chót trong trí, lúc chúng ta sắp ngủ. Bây giờ, nếu chúng ta tập cho có được tư tưởng chót là quyết định đi giúp đỡ một người mà chúng ta biết là họ đang cần đến sự giúp đỡ. Th́ chắc chắn linh hồn khi thoát ra khỏi chướng ngại xác thân sẽ thực hành ư muốn nầy và sự giúp đỡ sẽ được mang đến cho người ấy. Người ta có kể nhiều trường hợp mà cách thức nầy được thực hiện, kẻ được trợ giúp biết rất đầy đủ về sự cố gắng của người bạn có ư tốt, và cũng có thể thấy được thể vía của người bạn đang thực hành nghĩa vụ có ảnh hưởng đến họ.

 

Mong rằng sẽ không có ai buồn rầu nghĩ rằng họ không thể dự phần vào công việc tốt đẹp nầy. Một ư tưởng như vậy là tuyệt đối sai lầm, bởi v́ hễ người nào có tư tưởng là có thể trợ giúp được. Thật ra công việc hữu ích nầy không phải chỉ được thực hiện trong giấc ngủ. Nếu bạn biết được một người nào đó đang ở trong tâm trạng buồn thảm, hoặc đau khổ, th́ dù bạn không thể giữ cho thể vía có đủ ư thức để ở bên cạnh hắn được, bạn cũng có thể gởi đến hắn những tư tưởng thân thiết và sự chúc lành chân thành. Những tư tuởng và sự chúc lành nầy phải thực tế, sống động và mạnh mẽ. Khi bạn gởi chúng đi, tất nhiên chúng sẽ thi hành theo ư chí của bạn, cân xứng với sức mạnh mà bạn đă dùng. Tư tưởng là những ‘vật’, những vật thực tế theo đúng nghĩa của chữ ấy. Người nào đă mở nhăn quan sẽ trông thấy nó rất rơ ràng, và nhờ vào phương tiện tư tưởng, người nghèo nhất cũng có thể tham dự vào công việc từ thiện ở thế gian, không khác ǵ người giàu. V́ thế, dù chưa được thức tỉnh hoàn toàn nơi cơi trung giới, ít ra chúng ta cũng có thể gia nhập và liên kết với nhóm cứu trợ vô h́nh trong phạm vi nầy.

 

Nhưng nếu thí sinh quyết định gia nhập vào nhóm cứu trợ ở cơi trung giới, đang làm việc dưới sự hướng dẫn của những vị Chân Sư Minh Triết, th́ phải tự chuẩn bị trước, và đó chỉ là một trong các giai đoạn của sự phát triển vô cùng rộng lớn hơn. Thay v́ chỉ cố gắng để được thích hợp trong phần việc đặc biệt của các Ngài, họ sẽ tiến xa hơn và nhận lănh một phận sự to lớn hơn, ấy là tập luyện để theo chân các Ngài, tận tâm tận lực theo đuổi mục đích mà chính các Ngài đă đạt được, để cho các phương tiện giúp đời không bị hạn chế ở cơi trung giới, mà có thể đến cả những cơi cao hơn, vốn là quê hương thật sự của Chân Ngă.

 

Con đường đă được vạch sẵn từ lâu bởi các nhà hiền triết. Từ thuở xa xưa, chính các Ngài cũng đă trải qua, ấy là con đường tự phát triển, mà không sớm th́ muộn, mọi người đều phải đi. Con người có tự do ư chí để quyết định ‘đi’ ngay bây giờ, hay là hoăn lại cho đến khi trải qua nhiều kiếp sống, gánh chịu những đau khổ triền miên. Rồi sau cùng, sức mạnh của sự tiến hóa tuy chậm chạp nhưng không thể cưỡng lại được, cũng sẽ đẩy họ tiến tới, chung với những người chậm trễ trong gia đ́nh nhân loại. Đối với những người sáng suốt th́ họ lập tức bước vào đường đạo với ḷng nhiệt thành, nhất định hướng về mục đích đắc quả Chơn Tiên, hầu được giải thoát trọn vẹn măi măi khỏi sự nghi ngờ, sợ hăi và đau khổ, và c̣n có thể d́u dắt kẻ khác đến trạng thái an toàn, hạnh phúc. Trong chương kế, chúng tôi sẽ đề cập đến những giai đoạn của Thánh Đạo, con đường giải thoát, theo như các Phật tử đă gọi, và thứ tự liên tiếp của nó.


CHƯƠNG 20

 

 

Đường đạo lúc sơ tu

 

 

Những sách đạo đức đông phương dạy rằng nhân loại có bốn phương tiện để t́m cửa đi vào con đường tiến bộ tinh thần: (1) Sự giao thiệp với những người đă đi trước trên con đường đạo. (2) Nghe giảng hoặc đọc những tài liệu về triết lư huyền bí. (3) Suy nghĩ và trực nghiệm, nói cách khác, nhờ mănh lực của trí tuệ và sự suy luận, mà con người có thể tự thấu đạt được chân lư, hoặc ít ra cũng một phần chân lư. (4) Thực hành đức hạnh, nghĩa là nhờ sống đức hạnh trong nhiều kiếp liên tiếp, mà không bắt buộc phải mở mang trí thức, cuối cùng cũng phát sinh được trực giác trong con người, từ đó họ có thể hiểu được sự lợi ích của con đường đạo, và hướng dẫn họ nhận thấy được cửa để đi vào.

 

Bằng cách nầy hay cách khác, khi con người đă đến tŕnh độ nầy th́ con đường đưa đến quả vị Chân Sư cao cả đă bày ra trước mắt, phận sự của con người là bắt đầu tiến bước. Đối với các sinh viên huyền bí học, cũng cần nhắc là ở vào tŕnh độ tiến hóa hiện tại, chúng ta không thể nào hiểu được trọn vẹn hoặc gần đầy đủ về các cấp bậc cao cả khác, mà chỉ cần biết những cấp độ thấp của con đường nầy. Đối với những cấp bậc cao hơn, chúng ta chỉ biết rất ít ngoại trừ tên gọi, mặc dù thỉnh thoảng chúng ta có thể thoáng thấy sự vinh quang không thể tả đi kèm theo các cấp bậc ấy.

 

Giáo lư bí truyền cho biết rằng, những giai đoạn nầy được phân nhóm thành ba thời kỳ chính:

 

1- Thời kỳ sơ tu (The probationary period). Ở giai đoạn nầy hành giả không  buộc phải nhận một lời cam kết đặc biệt nào, và cũng không có một cuộc điểm đạo thiệt thọ nào được thừa nhận. Giai đoạn nầy đưa con ngựi đến tŕnh độ có thể vượt qua một cách an toàn điều mà Thông Thiên Học thường gọi là giai đoạn phán xét của cuộc tuần huờn thứ năm.

 

2- Thời kỳ tuân giữ lời thệ nguyện (The period of pledged discipleship), hay là con đường thiệt thọ (The Path proper). Được chia làm bốn cấp bậc, theo các kinh sách Đông Phương đó là bốn thánh đức. Cuối thời kỳ nầy, người đệ tử sẽ đắc quả vị Chân Tiên. Đó là cấp bậc mà nhân loại phải đạt đến, vào lúc chấm dứt cuộc tuần huờn thứ bảy.

 

3- Thời kỳ chánh thức (Official period). Trong giai đoạn nầy, vị Chân Tiên sẽ lănh một phần việc nhất định trong sự cai quản thế giới, theo đại luật vũ trụ. Đành rằng tất cả những vị Chân Tiên và cả đến những vị đệ tử khi đă được thâu nhận thiệt thọ rồi, đều trợ lực vào công việc vĩ đại là giúp đỡ cho sự tiến hóa của nhân loại. Nhưng các vị cao cả hơn nhận lănh trách nhiệm cai quản những bộ phận đặc biệt trong tổ chức của vũ trụ. Giống như các vị bộ trưởng trong một quốc gia có tổ chức trật tự ở thế gian.

 

Trước khi bàn tới chi tiết của thời kỳ sơ tu, chúng ta cần nhận thấy rằng, phần nhiều các thánh thư Đông Phương chỉ xem thời kỳ nầy như phần dự bị, chớ chưa đi hẳn vào con đường thiệt thọ. V́ sau khi chấp nhận những lời thệ nguyện rồi, người đệ tử mới được xem như đă thật sự nhập vào đường đạo. Có nhiều sự lẫn lộn khác nhau, có khi người ta bắt đầu kể thời kỳ sơ tu, nhưng lại khởi sự từ khi bước vào đệ nhị cấp (đệ tử thiệt thọ). Có khi chính các giai đoạn được kể, có khi lại kể các cuộc điểm đạo đưa đến các giai đoạn ấy. V́ thế khi đọc sách, chúng ta cần kiên nhẫn nhận định để tránh hiểu sai lệch ư nghĩa.

 

Đặc tính của thời kỳ sơ tu khác hẳn các thời kỳ khác, sự phân chia những giai đoạn của thời kỳ nầy không được rơ ràng như ở các nhóm cao, và những giới luật cũng kém chính xác. Nhưng điểm sau cùng sẽ dễ giải thích hơn sau khi liệt kê năm cấp bậc của thời kỳ với những điều kiện tất yếu cho mỗi bậc. Bốn bậc đầu đă được ông Mohini Mohun Chatterji miêu tả một cách khá rơ ràng trong tập thứ nhất của bản tường tŕnh tại trụ sở Luân Đôn. Độc giả nên t́m đọc v́ trong đó có những định nghĩa đầy đủ hơn trong khuôn khổ của quyển sách nầy. Nhiều điều chỉ dẫn rất quí báu về vấn đề nầy cũng đă được bà hội trưởng Annie Besant tŕnh bày trong những quyển sách: ‘Con Đường Của Người Đệ Tử’ (The Path of Discipleship) và ‘Trước Thềm Thánh Điện’ (In The Outer Court).

 

Những tên gọi các cấp bậc có thể không giống nhau, v́ trong những sách đó, tác giả đă dùng danh từ Bắc Phạn Ấn Độ (Sancrit), trong khi từ ngữ Nam Phạn (Pali) được dùng ở đây là của Phật Giáo. Có thể nói là chủ đề đem ra bàn từ một khía cạnh khác nhau, nhưng những điều kiện tất yếu vốn giống nhau, tuy h́nh thức bên ngoài thay đổi.

 

Sau đây mỗi danh từ, trước tiên sẽ được dịch nghĩa theo tự điển và đặt trong dấu ngoặc, kế đó là sự giải thích thường được Chân Sư giảng giải. Thời kỳ thứ nhất được các Phật tử gọi là:

 

1- Manodvaravajjana (sự mở cửa trí tuệ, hoặc có thể gọi là, thoát ra từ cửa trí tuệ). Thí sinh đạt được một ḷng tin vững chắc về tính vô thường và vô giá trị của tất cả lợi lộc trần gian. Đó là điều mà người ta thường diễn tả là, nghiên cứu sự khác biệt giữa điều chân và điều giả. Muốn đạt đến mức độ nầy, thường phải cần nhiều thời giờ và nhiều bài học khó khăn. Lẽ tất nhiên ở bước đầu tiên không ai có thể làm ǵ khác hơn để tiến bộ thật sự. V́ không người nào quyết tâm đi vào đường đạo mà không có ư ham thích những điều cao thượng, và từ chối vật chất trần gian. Sự quyết định nầy có được do ḷng tin chắc rằng, ở thế gian chẳng có điều ǵ có giá trị so với đời sống cao thượng. Người Ấn gọi bước đầu tiên nầy là ‘Viveka’ hay là tánh phân biện. Ông Sinnett diễn tả điều ấy như là sự phục tùng theo Chân Ngă.

 

2- Parikamma (chuẩn bị thực hành). Trong thời kỳ nầy thí sinh học tập làm điều tốt, chỉ bởi v́ đó là điều tốt, mà không nghĩ đến việc có lợi hoặc có hại cho ḿnh trong hiện tại hay trong tương lai. Như lời dạy của cách kinh sách Đông Phương, phải nhận lănh quả báo do hành vi của ḿnh một cách b́nh thản. Tánh thản nhiên nầy là kết quả tự nhiên của giai đoạn trước, v́ sau khi nhận thấy được tính chất hư ảo và tạm bợ của tất cả những lợi lộc ở thế gian, hành giả không cần đến nó nữa. Một khi linh hồn đă được soi sáng bởi ánh quang minh rực rỡ của chân lư, nó không thể nào c̣n ham muốn những điều kém cao thượng nữa. Người Ấn gọi sự dứt bỏ nầy là ‘Vairagya’.

 

3- Upacharo (chuyên tâm hay phẩm hạnh). Đây là giai đoạn phải tập cho được sáu đức tính tốt, những đức tính đó được gọi theo danh từ Nam Phạn (Pali) như sau:

 

(a) Samo (sự trầm tĩnh). Sự trong sạch và b́nh tĩnh của tư tuởng do kiểm soát được hoàn toàn cái trí. Ấy là kết quả rất khó đạt được nhưng rất hữu ích, v́ nếu cái trí không tuân theo ư chí th́ nó không trở thành một dụng cụ hoàn hảo cho công việc của Chân Sư trong tương lai. Đức tính nầy có một ư nghĩa rất rộng răi, nó gồm có sự tự chủ, đồng thời với sự b́nh tĩnh, được diễn tả trong chương 19, rất hữu ích khi làm việc ở cơi trung giới.

 

(b) Damo (sự chế ngự). Hành động và lời nói hoàn toàn trong sạch và uy nghi. Đức tính nầy cũng là kết quả tự nhiên của đức tính trước.

 

(c) Uparati (sự ngưng lại). Tức là từ bỏ sự mê tín, hay là từ bỏ sự tin tưởng rằng một hành vi hay nghi lễ do một tôn giáo nào đó qui định là cần thiết. Nhờ đó kẻ chí nguyện sẽ được độc lập về tư tưởng, cùng với sự khoan dung rộng răi, cao thượng.

 

(d) Titikha (tính nhẫn nại hay chịu đựng). Cần phải hiểu nghĩa danh từ nầy là cách xếp đặt cho con người sẵn sàng chịu đựng một cách vui vẻ tất cả những ǵ mà quả báo có thể đưa đến. Và từ bỏ vật chất trần gian, những khi cần phải bỏ, bất kỳ thứ nào. Danh từ nầy cũng bao hàm ư tưởng hoàn toàn không thù hận, v́ ta hiểu rằng kẻ nào làm đ́ều quấy với ta th́ kẻ ấy sẽ gặt hái nhân quả riêng của họ.

 

(e) Samadhana (sự chú tâm). Đó là sự tập trung tâm trí, chỉ rằng, dù có bị cám dỗ cũng không thể rời bỏ con đường đạo. Đức tính nầy rất tương ứng với mục tiêu cố định, đă được bàn đến trong chương  trước.

 

(f) Sađha (faith). Ḷng tin cậy vào Chân Sư và chính ḿnh. Nói cách khác, đệ tử phải vững tin vào khả năng của Chân Sư. Nếu đệ tử c̣n ngờ vực về những năng lực của chính ḿnh, th́ trong lúc ấy, hắn cũng đă có sẵn trong người vài tia sáng thiêng liêng, một ngày kia, khi nó trở thành ngọn lửa, nó sẽ giúp hắn làm được những ǵ mà Thầy của hắn đă làm.

 

4- Anuloma (mạng lệnh trực tiếp hay là sự kế thừa). Đức tính nầy là kết quả tự nhiên của ba đức tính trước. Trong giai đoạn nầy, hành giả có sự mong muốn nhiệt thành được giải thoát khỏi đời sống thế gian và hiệp nhất với sự sống tối thượng.

 

5- Gotrabhu (điều kiện để được điểm đạo). Ở giai đoạn nầy, thí sinh gom lại những điều đă thâu thập được lúc trước và làm cho nó vững chắc thêm, rất cần thiết cho sự tiến bộ kế tiếp. Khi đó họ đặt chân lên đường đạo thiệt thọ, và được thâu nhận làm đệ tử chính thức. Đạt đến tŕnh độ nầy rồi th́ sự điểm đạo để vào bậc kế tiếp sẽ thành tựu rất mau lẹ. Về câu hỏi: “Ai là người Gotrabhu?” Đức Phật trả lời: “Người nào thực hành đầy đủ những điều kiện mà tiếp theo đó là sự khởi đầu thánh đạo, kẻ ấy là vị Gotrabhu.”

 

Sự minh triết cần phải có để được thâu nhận vào Con Đường Thánh Đức (The Path of Holiness) được gọi là Gotrabhu-gnana.

 

Chúng ta đă thoáng nh́n qua các bước tiến của thời kỳ sơ tu. Bây giờ tôi phải nhấn mạnh lại về điểm đă đề cập lúc ban đầu. Ở cấp bậc sơ đẳng nầy, những điều kiện và những đức tính đă kể ra, không bắt buộc hành giả phải thi hành đến mức hoàn toàn. Ngài Mohini nói rằng: “Nếu tất cả các đức tính đều phát triển đầy đủ th́ đệ tử sẽ trở thành Chân Tiên nội trong một kiếp sống.” Nhưng đương nhiên, trường hợp nầy rất ít có. Thí sinh phải phấn đấu không ngừng để rèn luyện các đức tính nầy. Nhưng sẽ là một sự sai lầm nếu nghĩ rằng không ai tiến lên được bước kế tiếp nếu chưa phát triển đầy đủ các đức tính nầy một cách trọn vẹn. Cũng không bắt buộc phải phát triển theo thứ tự nối tiếp nhau của từng đức tính. Thật ra trong nhiều trường hợp, hành giả có thể mở mang cùng một lúc tất cả các đức tính, chớ không cần phải theo thứ tự.

 

Cũng nên hiểu rằng một người kia có thể theo con đường đạo một cách tốt đẹp, mà không nhận thức chút nào về sự hiện hữu của nó. Có nhiều tín đồ thuần thành của Cơ Đốc Giáo, cũng như có nhiều người nhiệt thành theo phái Tự Do Tư Tưởng (Freethinker) đă tiến xa trên đường đạo đưa họ đến cuộc Điểm Đạo, mà trong suốt đời sống, họ chưa bao nghe nói đến danh từ huyền bí học. Tôi đặc biệt nêu ra hai hạng người nầy, bởi v́ những tôn giáo khác đều công nhận là có thể phát triển được huyền bí học. Nguời nào mong muốn t́m hiểu những ǵ khác hơn là những lễ bái công truyền, th́ chắc chắn họ sẽ t́m ṭi cho kỳ được.

 

Cũng cần phải lưu ư là những giai đoạn của thời kỳ sơ tu không cách nhau bởi những cuộc điểm đạo đúng theo ư nghĩa của nó. Và chắc chắn ở những giai đoạn nầy cũng phải gặp nhiều gian nan, cùng đủ các loại thử thách ở tất cả các cơi. Nhưng có thể được bù đắp lại bằng những kinh nghiệm quí giá, và nếu không có ǵ trở ngại, họ có thể nhận được những sự trợ giúp và những chỉ dẫn gián tiếp. Đôi khi chúng ta dùng danh từ Điểm Đạo một cách quá hời hợt, thí dụ như dùng để nói đến những cuộc thử thách mà tôi vừa kể ra. Nói một cách chính xác, danh từ nầy chỉ nên áp dụng cho những nghi thức trang nghiêm dùng để thừa nhận chính thức cho người đệ tử lên được cấp cao hơn. Nghi thức nầy phải do một vị cao cả được chỉ định, nhân danh Đấng Duy Nhất Chí Tôn cầm quyền điểm đạo và đặt vào tay thí sinh chiếc ch́a khóa trí thức mới, chiếc ch́a khóa cần thiết để dùng ở tŕnh độ mới mà thí sinh vừa đạt được. Một cuộc điểm đạo như thế đánh dấu sự tiến bước lên cấp bậc mà chúng tôi sắp đề cập đến, và cũng là sự vượt qua mỗi giai đoạn của thời kỳ kế tiếp.


CHƯƠNG 21

 

 

Con đường đạo thiệt thọ

 

 

Trong khi tiến hành qua bốn giai đoạn đánh dấu con đường đạo nầy, cần phải dứt bỏ cho được 10 Samyojana, hay là chướng ngại, v́ nó ràng buộc con người vào ṿng luân hồi và ngăn cản không cho đến cơi niết bàn. Nơi đây, ta sẽ thấy sự khác biệt giữa thời kỳ phải tuân giữ lời thệ nguyện và thời kỳ sơ tu, là v́ ở thời kỳ nầy đệ tử phải gắn bó bởi những lời cam kết. Bây giờ, điều quan hệ không phải là sự cởi bỏ được nhiều hay ít chướng ngại. Trước khi có thể tiến được từ cấp nầy sang cấp khác, thí sinh phải hoàn toàn giải thoát được vài dây trói buộc trong số những chướng ngại nầy. Khi liệt kê những chướng ngại, chúng ta sẽ nhận thấy được sự gắt gao của những điều kiện nầy, và người ta sẽ không c̣n lấy làm lạ khi đọc được trong các thánh thư, là có khi phải cần 7 kiếp luân hồi mới vượt qua khỏi đoạn đường.

 

Mỗi giai đoạn trong bốn giai đoạn, hay bước tiến, lại được chia ra thành bốn phần như sau: (1) Maggo (đường đạo). Lúc nầy, sinh viên cố gắng dứt bỏ các mối dây ràng buộc. (2) Pala (kết quả). Trong đó sinh viên nhận thấy kết quả do sự hành động hiện ra càng ngày càng rơ ràng. (3) Bhavagga (hoàn thành). Là thời kỳ mà kết quả đă thu hoạch đầy đủ, sinh viên trở nên có khả năng làm tṛn phận sự một cách thỏa đáng, và đứng vững ở tŕnh độ nầy. Cuối cùng là (4) Gotrabhu (có tư cách được điểm đạo). Đánh dấu thời giờ họ được xứng đáng nhận lănh kỳ điểm đạo kế tiếp. Giai đoạn thứ nhất là:

 

I. Sotapati hay Sowan (Tu Đà Huờn). Đệ tử lên đến bậc nầy được gọi là Sowani hay Sotapanna, người đă nhập lưu, v́ từ đây, nếu sự tiến bộ của họ có thể bị chậm lại, hay nếu họ không chống nổi những cám dỗ tinh vi hơn, và nhất thời rời khỏi đường đạo, th́ họ cũng không thể nào hoàn toàn ĺa khỏi tinh thần để trở thành người tầm thường được. Họ dă nhập vào ḍng tiến hóa cao thượng của nhân loại, mà tất cả nhân loại phải nhập vào khi đến giữa cuộc tuần hoàn thứ năm sắp tới, ngoại trừ những người bị rớt lại, do tạm thời chưa đủ sức tiến theo làn sóng sinh hoạt vĩ đại, và phải đợi đến lúc dăy hành tinh sau được thành lập.

 

Khi đạt đến tŕnh độ điểm đạo nầy, vị đệ tử đă vượt qua đa số nhân loại, và đi trước họ cả một cuộc tuần hoàn, tức là một ṿng 7 bầu hành tinh của chúng ta, và do đó, họ đă được chắc chắn không bị loại khỏi triều lưu vào cuộc tuần hoàn thứ năm. Do đó có khi họ được gọi là “người được cứu vớt” (the saved) hay là “người được an toàn” (the safe one). Ư tưởng nầy bị hiểu lầm và là nguyên nhân cho lư thuyết lạ lùng về sự cứu rỗi, do một vài thành phần của giáo hội Thiên Chúa công bố. Sự vĩnh phúc nầy có ghi trong vài kinh sách, giúp con người không phải để tránh khỏi những nỗi thống khổ đời đời, như được ngụ ư bởi những kẻ vô minh, mà chỉ làm phí phạm phần c̣n lại của thời đại nầy, và tách rời khỏi đường tiến hóa thông thường. Những chướng ngại mà người đệ tử phải trừ khử trước khi bước qua giai đoạn kế, là:

 

   1. Sakkayaditthi (ảo vọng của bản ngă).

   2. Vichikichchha (nghi ngờ hay không chắc chắn).

   3. Silabbataparamasa (mê tín dị đoan).

 

Chướng ngại thứ nhất là ư thức của bản ngă. Khi con người tự đồng hóa với ‘phàm nhơn’ th́ đó chỉ là ảo tưởng, cần phải loại trừ trước khi bước vào con đường hướng thượng chân chánh. Nhưng việc loại trừ trọn vẹn chướng ngại nầy c̣n có ư nghĩa cao hơn nữa, nó bao hàm việc nhận thức sự kiện là con người trong bản chất là một với tất cả. V́ thế sẽ không có những quyền lợi nào trái nghịch với quyền lợi của các huynh đệ, và những tiến bộ thực sự th́ tương xứng với những cố gắng để giúp cho những tiến bộ của kẻ khác.

 

Dấu hiệu trọng yếu, hay ấn chứng cho biết vị đệ tử đă đạt được quả vị Tu Đà Huờn là lần đầu tiên vị đệ tử được vào cơi kế tiếp, bên trên cơi thượng giới, gọi là cơi bồ đề. Lần đầu tiên, trong một lúc ngắn ngủi, vị đệ tử nhận thấy thoáng qua cảnh trạng kỳ diệu cao tột cũa cơi giới nầy. Tuy chỉ thoáng tiếp xúc với cảnh thấp nhất của cơi bồ đề, vị đệ tử đạt được kinh nghiệm không thể quên được. Từ đây, tầm mắt của họ mở rộng đến một thế giới mới, và làm cho cảm giác và tư tưởng của họ được biến đổi hoàn toàn. Đây là lần thứ nhất, nhờ sự mở rộng tâm thức nơi cơi nầy, vị đệ tử nhận chân được đặc tính duy nhất ẩn tàng bên trong toàn thể. Đó không phải chỉ là một ư tưởng suông của lư trí mà là một sự kiện xác thực, phô bày ra trước mắt. Đó là lần thứ nhất mà hành giả thật sự nhận biết được vài điều cương yếu chính xác của thế giới mà họ đang sống. Đó cũng là lần đầu hành giả thoáng thấy được thế nào là t́nh thương và ḷng từ bi của các vị Chân Sư cao quí.

 

Đối với điều chướng ngại thứ hai (sự nghi ngờ), chúng ta cần phải cẩn thận về danh từ. Chịu ảnh hưởng của thói quen suy nghĩ theo tinh thần Âu Châu, nên chúng ta thấy thật là bất hạnh, nếu phải tuân theo những ư kiến độc đoán, bắt buộc đệ tử phải thực hành. Cũng như khi nghe một nhà huyền bí học cho rằng sự nghi ngờ là một chướng ngại cho sự tiến bộ, chúng ta nghĩ rằng như vậy có khác ǵ những người mê tín hiện nay, họ tin tưởng mù quáng vào những tín điều. Nghĩ như thế là hoàn toàn sai lầm.

 

Sự nghi ngờ (hay nói đúng hơn là không tin chắc) về vài vấn đề, sẽ cản trở sự tiến bộ tâm linh. Và chính sự tin tưởng mù quáng cũng là một chướng ngại. Ḷng tin xác quyết phải có căn cứ trên kinh nghiệm cá nhân hoặc do suy luận theo toán học. Một đứa trẻ c̣n nghi ngờ sự đúng đắn của bảng cửu chương th́ không thể nào hy vọng học toán được tiến bộ. Chỉ khi nào nó hiểu được sự chính xác của bảng cửu chương, nhờ suy luận hoặc nhờ kinh nghiệm th́ nó mới hết nghi ngờ. Khi đó nó tin rằng hai nhân với hai là bốn, chẳng phải do người ta bảo nó như vậy, mà v́ cái kết quả đó đối với nó là một sự kiện hiển nhiên. Đó chính là phương pháp, và là một phương pháp duy nhất mà nhà huyền bí học đă thực hành để chiến thắng tính nghi ngờ.

 

Vichikichchha được định nghĩa là sự nghi ngờ đối với những giáo lư về nhân quả và luân hồi, và hiệu quả tốt lành mà con đường Thánh Đức đưa đến. Khi dứt bỏ được chướng ngại nầy th́ hành giả sẽ có ḷng tin tuyệt đối rằng, giáo lư bí truyền về những vấn đề nầy là đúng thực. Sự tin tưởng nầy đặt căn bản trên sự hiểu biết trực tiếp của cá nhân hoặc do trí phán đoán.

 

Chướng ngại thứ ba phải loại trừ gồm tất cả những tín ngưỡng lầm lạc không do suy luận. Tất cả những khuynh hướng cho rằng việc huấn luyện tinh thần phải lệ thuộc vào những cuộc hành lễ và những nghi thức bề ngoài. Muốn trừ bỏ được trở ngại nầy, hành giả phải tập tính tin cậy nơi chính ḿnh, chớ không nhờ vào kẻ khác, cũng không nhờ cậy vào h́nh thức bên ngoài của một tôn giáo nào.

 

Ba chướng ngại đầu tiên tạo thành một chuỗi không rời nhau. Kế đó hành giả có thể nhận thức được phần nào sự diễn tiến của luật luân hồi, và do đó không c̣n nghi ngờ về vấn đề nầy nữa. Khi ấy sự hiểu biết Chân Nhân là tinh thần bất diệt sẽ giúp cho vị đệ tử tin tưởng vào sức mạnh tâm linh của chính ḿnh, và dứt bỏ được sự mê tín dị đoan.

 

II. Sakadagami (Tư Đà Hàm). Đệ tử được thu nhận vào giai đoạn thứ hai nầy được mệnh danh là Tư Đà Hàm “người sẽ trở lại chỉ một lần”, nói cách khác, một người đến bậc nầy th́ chỉ cần một kiếp luân hồi nữa là đến bậc A La Hán (Arhat). Trong giai đoạn nầy, không c̣n chướng ngại nào khác cần phải trừ bỏ. Nhưng vị đệ tử cần cố gắng làm giảm bớt đến mức tối thiểu những điều c̣n trói buộc họ. Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ về tâm linh lẫn trí thức.

 

Những năng lực thần thông (psychic faculties), nếu chưa được mở mang, cần phải được hoạch đắc trong thời kỳ nầy. V́ thiếu nó, đệ tử sẽ không thể đồng hóa được những trí thức mà bây giờ cần phải truyền đạt cho họ, và vị đệ tử cũng sẽ không có đủ tài làm công việc ở cơi trên để giúp đỡ nhân loại, đó là phận sự mà từ đây họ có đặc quyền cộng tác. Vị đệ tử phải có đủ sức tùy ư xử dụng một cách có ư thức thể vía, trong lúc xác thân đang thức, và đến lúc ngủ th́ cơi thiên đàng sẽ mở rộng cho họ, bởi v́ tâm thức của con người khi tách ra khỏi xác thân, luôn luôn ở vào cấp bậc kế bên trên, cao hơn cấp bậc mà tâm thức tác động lúc đang ở trong xác thân.

 

III. Anagami (A Na Hàm). “Ngựi sẽ không trở lại nữa,” được gọi như thế bởi v́ khi đă đến cấp bậc nầy rồi, sẽ đủ sức tiến lên cấp kế trên ngay trong kiếp hiện tại. Trong khi thi hành phận sự hàng ngày, người vui hưởng được nhiều sự tiến bộ cao quí, nhờ đă có được toàn vẹn những quyền năng vô giá, tương xứng với cơi thiên đàng. Vào lúc ban đêm, khi tách ra khỏi xác thân, người lại thấy tâm thức của ḿnh mở rộng một cách tuyệt diệu thuộc bồ đề tâm. Khi thành tựu bước đi nầy, ngựi sẽ giải thoát khỏi các chướng ngại  cuối cùng c̣n xót lại, đó là:

 

   4. Kamaraga (quyến luyến những cảm giác vui thích, theo kiểu luyến ái ở thế gian).

   5. Patigha (Tất cả những điều có thể sinh ra phẫn nộ hoặc oán ghét).

 

Thí sinh nào đă dứt bỏ được các chướng ngại nầy th́ không c̣n bị ảnh hưởng của t́nh cảm, hoặc thương yêu hay oán ghét. Những trạng thái quyến luyến hoặc mất b́nh tĩnh ở cơi trần không thể ảnh hưởng và đeo níu họ nữa.

 

Đến đây, chúng ta cần đề pḥng một quan niệm sai lầm thông thựng có thể xảy ra. T́nh yêu nhân loại dưới h́nh thức thanh khiết nhất và cao thượng nhất không bao giờ mất đi, cũng không bao giờ giảm đi do sự luyện tập huyền bí học. Trái lại tâm bác ái sẽ tăng thêm và mở rộng ra cho đến khi lan tràn khắp cả nhân loại, bằng với sự nhiệt tâm mà ban đầu họ chỉ ban ra cho một vài người. Cuối cùng th́ sinh viên cũng vượt lên trên những điều nghị luận từ phàm nhân của những người chung quanh, và được tự do tự tại thoát khỏi sự bất công, thiên vị của loại t́nh cảm thông thường ở thế gian.

 

Chúng ta cũng không bao giờ nên cho rằng, khi tập được t́nh thân ái bao la đối với tất cả mọi người th́ sẽ bị mất đi t́nh thương riêng biệt đối với những người thân. Mối liên hệ mật thiết giữa Ananda và Đức Phật, hoặc Thánh John với chúa Jesus là một bằng chứng chỉ rằng, t́nh thân ái nầy tăng trưởng vô lượng. Sợi dây liên lạc giữa Chân Sư và các đệ tử của ngài bền vững hơn tất cả mọi mối ràng buộc nào khác ```ở thế gian. Bởi v́ ḷng thân ái phát khởi khi đi trên con đường thánh đức là ḷng thân ái giữa các chân nhân (egos), chớ không chỉ là giữa các phàm nhân (personalities), cho nên nó mạnh mẽ và vững bền, không bị giảm sút hay thay đổi. Bởi v́ “T́nh yêu tuyệt đối giải trừ được mọi mối sợ hăi.”

 

IV. Arhat (A La Hán). Người đáng tôn kính, người hoàn toàn. Khi đến cấp bậc nầy, người chí nguyện được an lạc thường xuyên trong tâm thức cơi bồ đề và có thể dùng sức mạnh và năng lực của cơi ấy trong lúc đang ở trong thể xác. Khi tách ra khỏi xác thân, trong lúc ngủ hoặc lúc đại định, người liền nhập vào cơi niết bàn, là cảnh cực lạc không thể tả xiết. Trong giai đoạn nầy, nhà huyền bí học phải đoạn trừ những tàn tích cuối cùng của năm chướng ngại c̣n sót lại, đó là:

 

   6. Ruparaga (ham thích cơi sắc giới, hữu h́nh).

   7. Aruparaga (ham thích đời sống vô sắc giới).

   8. Mano (sự kiêu căng).

   9. Uddhachcha (sự náo động hay tánh dễ giận).

  10. Avijja (vô minh).

 

Nơi đây, chúng ta có thể nhận ra rằng, khi đoạn trừ được Ruparaga, sự ham thích ở cơi sắc giới, hữu h́nh, nhà huyền bí học sẽ dứt bỏ sự ham muốn đời sống thế gian, dù là cuộc sống vĩ đại, cao quí nhất. Và cũng dứt bỏ đời sống ở trung giới và thượng giới, dù có đẹp đẽ huy hoàng đến đâu đi nữa. Người cũng phải dứt bỏ các khuynh hướng về sự ưa thích và chán ghét cái vẻ đẹp hay xấu bề ngoài của người hay vật.

 

Aruparaga, sự ham sống, dù ở những cơi cao nhất, không h́nh thể, như cơi thượng trí, hoặc cao hơn nữa là cơi bồ đề. Tuy cao nhă, ít tham dục, nhưng vẫn c̣n có h́nh thức ích kỷ, cho nên cũng cần phải dứt bỏ, cũng như phải dứt bỏ các dục vọng thấp kém.

 

Uddhachcha, đúng nghĩa là tính chất xao động của cái trí. Người nào giải trừ được tận gốc chướng ngại nầy sẽ giữ vững được sự b́nh tĩnh không lay chuyển. Tất cả những ǵ xảy đến không c̣n lay động được sự an tĩnh, trang nghiêm của người.

 

Giải thoát khỏi sự vô minh sẽ đem đến một trí thức trọn vẹn, nói đúng hơn là sự toàn tri (omniscience) đối với các sự việc thuộc về dăy địa cầu của chúng ta. Khi tất cả các chướng ngại đă được giải trừ, Chân Nhân tiến lên đến giai đoạn thứ năm và trở thành Chân Tiên.

 

V. Aseka (Chân Tiên). “Ngựi không c̣n điều ǵ phải học nữa.” Đây là nói về dăy địa cầu của chúng ta. Ở giai đoạn hiện tại, chúng ta không thể hiểu biết được cấp bậc mới nầy gồm có những ǵ. Tất cả vẻ huy hoàng, sáng chói của cơi niết bàn phơi bày trước mắt của vị Chân Tiên, lúc đang ở trong xác thân. Khi người thấy thích hợp phải rời bỏ xác thể, người có thể vượt lên cao hơn, đến một cơi mà chúng ta chỉ mới biết tên thôi. Cũng như giáo sư Rhys Davids đă giải thích: “Người đó bây giờ không c̣n một chút lỗi lầm nào, người thấy và định giá trị đúng thật về những sự việc của thế gian. Tất cả những sự xấu xa đă bị diệt tận gốc khỏi linh hồn của người, người chỉ c̣n cảm thấy những ư muốn đức hạnh cho ḿnh. Người biểu lộ ḷng từ bi, dịu dàng và t́nh bác ái bao la đến cho kẻ khác.”

 

Để cho thấy rơ là ḷng bác ái không bị mất nơi người, kinh từ bi (Metta Sutta) đă nói về t́nh trạng tinh thần của vị Chân Tiên như sau: “Như t́nh thương của một bà mẹ, liều ḿnh để bảo vệ đứa con độc nhất, đó là sự thương yêu cần phải biểu lộ với tất cả nhân loại. Mong sao thiện ư bao la ngự trị khắp thế giới, ở trên, ở dưới, khắp bốn phương, không hạn chế, không lẫn lộn một lợi ích đối kháng nào khác. Khi một người giữ vững được t́nh trạng tinh thần nầy, dù đứng hay đi, ngồi hay nằm cũng không thay đổi, th́ người đă thực hành xong thánh ngôn: “Ngay trong kiếp sống nầy, thánh đức đă biểu lộ.”


CHƯƠNG 22

 

 

Vượt khỏi sự tiến hóa của nhân loại

 

 

Qua khỏi thời kỳ nầy, tất nhiên chúng ta không thể hiểu được chút nào về những điều kiện cần thiết cho những cấp cao hơn mà con người khi đă đến bậc chí thiện rồi c̣n phải tiến thêm nữa. Chúng ta không c̣n nghi ngờ là sau khi đắc quả Chân Tiên, tŕnh độ tâm linh của ngài đă phát triển đến mức tột cùng, v́ thế khi nói về sự tiến bộ cao hơn đối với ngài, chỉ có nghĩa là vẫn c̣n những kiến thức rộng lớn hơn và những năng lực tinh thần tuyệt diệu hơn. Chúng ta được biết rằng , khi con người đạt đến tŕnh độ tâm linh cao tột ấy, hoặc theo con đường tiến hóa chậm chạp của đa số nhân loại, hoặc do sự cố gắng vượt lên trước, th́ con người đă tuyệt đối làm chủ định mạng của chính ḿnh và tự chọn con đường cho cuộc tiến hóa sắp tới trong bảy đường mở rộng trước mặt.

 

Ở giai đoạn hiện tại, tự nhiên là chúng ta không thể hiểu được nhiều về việc nầy, những điều chỉ dẫn tổng quát chỉ có thể cho chúng ta biết được một phần nào mà thôi. Chúng ta chỉ biết rằng phần đông các ngài từ bỏ hoàn toàn ngôi vị Chân Tiên ở dăy trái đất của chúng ta, v́ nơi đây không c̣n ǵ cần học hỏi cho sự tiến hóa cao tột của các ngài.

 

Một trong những đường nầy, theo từ ngữ chuyên môn là “nhập niết bàn”. Các ngài sẽ ở vào trạng thái cao siêu nầy một thời gian rất dài, không thể tính được. Các ngài chuẩn bị thi hành công tác ǵ và cách thức tiến hóa sắp tới của các ngài ra sao, chúng ta không biết được chút nào. Nói cho đúng, dù chúng ta có được giải thích về những vấn đề nầy, chắc chắn với tŕnh độ hiện tại, chúng ta vẫn không thể nào hiểu nổi, nhưng ít ra chúng ta cũng biết được một cách tổng quát như sau:

 

Sự toàn phúc ở niết bàn không phải là một sự tịch diệt trống vắng như một số người lầm tưởng. Trái lại, nó bao hàm một sự hoạt động vô cùng mạnh mẽ và hiệu quả hơn. Cứ theo đà tiến lên trên nấc thang tiến hóa thiên nhiên càng cao hơn, con người càng có khả năng rộng lớn hơn, và công tác vị tha trở thành vĩ đại, rộng răi hơn. Đối với vị Chân Sư th́ sự minh triết và quyền năng vô hạn chỉ có nghĩa là một năng lực vô biên để phụng sự, v́ điều đó được hướng dẫn bởi tấm ḷng từ bi vô lượng.

 

Những vị khác chọn sự tiến hóa tâm linh không hoàn toàn xa cách với nhân loại, tuy không trực tiếp đi theo đà tiến hóa với nhân loại sang qua dăy địa cầu kế tiếp như đă được thiên cơ hoạch định cho hệ thống tiến hóa của nhân loại hiện thời, đó là phải tiếp tục trong hai thời kỳ dài, tương ứng với cuộc tuần hoàn thứ nhất và thứ nh́. Sau đó, dường như các ngài cũng sẽ nhập niết bàn nhưng với cấp bậc cao hơn.

 

Một số vị nhập vào đường tiến hóa của thiên thần, hoạt động theo dăy địa cầu vĩ đại gồm bảy dăy, như dăy địa cầu của chúng ta, mà mỗi dăy đối với các ngài như một thế giới duy nhất. Trong bảy đường tiến hóa, con đường nầy có vẻ chậm chạp và ít hiểm trở nhất, có khi nó được gọi là ‘con đường của những vị không muốn trở thành Thượng Đế’. Nếu so sánh với sự từ bỏ cao thượng của các vị Nirmanakaya, th́ con đường nầy dược xem như chỉ từ bỏ có một nửa. Khi vị Chân Tiên lựa chọn con đường đó, th́ một cuộc sinh hoạt vinh quang sẽ phơi bày ra trước mặt. Tuy không phải là con đường ngắn nhất, nhưng nó rất cao quí. Con đường nầy đă được bà Mary, mẹ của đức Jesus, sau khi đă đạt đến tŕnh độ Chân Tiên, bà được giao phó cho chức vụ rất đặc biệt và cao quí, đó là ‘Đức Mẹ Thế Giới’.

 

Những vị Nirmanakaya từ chối tất cả những con đường dễ dàng, để chọn con đường dốc đứng hiểm trở nhất, đưa đến những đỉnh cao tột. Những vị đó hợp thành điều mà người ta gọi một cách thi vị là ‘tường thành bảo hộ’ (guardian wall), như đă được đề cập đến trong quyển Tiếng Vô Thinh (The Voice of the Silence) như sau: “Bảo vệ thế gian khỏi những thống khổ và buồn thảm càng ngày càng gia tăng.” Không phải là bảo vệ thế gian chống lại ảnh hưởng xấu, xâm nhập từ bên ngoài, mà các ngài dùng hết năng lực của các ngài để ban rải khắp thế gian sức mạnh và sự cứu trợ tâm linh. Nếu thiếu sự giúp đỡ ấy, chắc chắn thế gian sẽ lâm vào cảnh trạng tuyệt vọng hơn hiện nay.

 

C̣n có những vị trực tiếp gần gũi với nhân loại, tiếp tục đầu thai trong nhân loại và chọn con đường vượt ra ngoài bốn cấp bậc đầu, mà ở đoạn trước chúng tôi gọi là thời kỳ chính thức (official period). Trong số nầy là những vị Chân Sư minh triết dạy dỗ chúng ta Minh Triết Thiêng Liêng, và chúng ta đă được học hỏi từ các ngài một số ít các điều hiểu biết về sự điều ḥa phi thường trong cuộc tiến hóa thiên nhiên. Dường như chỉ có một số ít các vị Chân Tiên hoạt động theo chiều hướng nầy, có lẽ như thế đă đủ thi hành công việc ở cơi vật nầy.

 

Trong khi nghe nói đến các loại khả năng nầy, thỉnh thoảng một số người vội vàng phát biểu rằng, ngoài sự chọn lựa con đường giúp ích nhiều nhất cho nhân loại, Chân Sư không nên chọn con đường nào khác. Nếu hiểu biết nhiều hơn, những người ấy sẽ không nói như thế.  Chúng ta không bao giờ nên quên rằng, trong thái dương hệ, ngoài cuộc tiến hóa của chúng ta, c̣n có nhiều cuộc tiến hóa khác nữa. Có lẽ có sự cần thiết phải tham dự vào công việc trong toàn thể thiên cơ bao la của Thượng Đế, do đó các vị Chân Tiên chia nhau làm việc trong tất cả bảy đường tiến hóa như chúng tôi đă diễn tả. Chắc chắn là mỗi vị Chân Sư  sẽ lựa chọn đến nơi nào cần các ngài nhất, và quên ḿnh để thi hành phận sự dưới sự xếp đặt của các Bậc Uy Quyền, cai quản phần việc nầy trong toàn thể cuộc tiến hóa vĩ đại.

 

Đó là con đường đạo mở rộng trước mắt chúng ta, con đường mà mọi người đều phải bắt đầu bước đi. Dù rằng cái lư tuởng tuyệt đỉnh nầy rất cao, nhưng nên nhớ rằng chúng ta sẽ tiến đến đích, tuy chậm chạp, dần dần từ bước một, và những người hiện nay đă đến gần đỉnh th́ khi xưa cũng đă khó nhọc lê từ bước trong bùn lầy, nơi các thung lũng, giống như t́nh trạng của chúng ta hiện nay. Khi chúng ta mới bắt đầu tiến bước th́ thấy con đường dường như khắc khổ, gian nan, nhưng khi càng lên cao th́ bước đi càng thêm vững chắc, và phạm vi hiểu biết càng rộng lớn hơn, đồng thời chúng ta cũng có thêm khả năng giúp đỡ các huynh đệ đang leo lên bên cạnh chúng ta.

 

Bởi v́ sự khó khăn và cực nhọc đối với phàm nhân, con đường tiến lên nầy đôi khi bị gọi một cách sai lạc là ‘con đường thống khổ’. Nhưng để thi vị hóa, bà Annie Besant đă viết như sau: “Trong những sự đau khổ, ngự trị một niềm vui sâu xa, vĩnh cửu. V́ sự đau khổ thuộc về bản chất thấp kém, c̣n niềm vui thuộc về bản chất cao cả. Tất cả những thống khổ đều sẽ tiêu tan theo với dấu vết cuối cùng của phàm nhân, c̣n đối với vị Chân Tiên cao cả th́ vẫn luôn luôn sống trong sự b́nh an, hạnh phúc trường tồn. Ngài thấy trọn con đường, đến tận cùng là sự an vui trọn vẹn, những phiền muộn ở cơi đời nầy chỉ là một giai đoạn ngắn, tạm thời trong hành tŕnh tiến hóa rất dài.”

 

“Có một điều ít khi được nhắc đến là cảm giác hạnh phúc sâu xa đạt được trong khi chuyên tâm theo đường đạo. Đó là do từ sự nhận thức được mục đích của con đường đi, cũng như từ sự hiểu biết rằng quyền năng hữu ích trong việc phụng sự càng ngày càng tăng trưởng và bản chất thấp hèn dần dần bị tiêu diệt đến tận gốc rễ. Người ta nói rất ít về những tia hạnh phúc phát xuất từ những cảnh cao tuôn xuống đường đạo, về những lúc thoáng thấy sự vinh quang chói lọi, về sự tĩnh lặng không bị làm rối loạn bởi những băo tố nơi trần gian. Đối với người nào đă dấn thân vào con đường đạo rồi th́ tất cả những con đường khác đều mất hết sự quyến rũ, dù có những sự phiền muộn trên đường đi cũng vẫn là chân hạnh phúc hơn các cuộc vui thú ở thế gian.”

 

Mong sao, không có người nào cảm thấy tuyệt vọng chỉ v́ nghĩ rằng công việc vượt quá khả năng. Điều nào đă có người làm được, th́ người khác cũng có thể làm được, và nếu chúng ta cố gắng giúp đỡ những người ở tŕnh độ thấp hơn, th́ đến lượt chúng ta sẽ được giúp đỡ bởi những vị cao cả hơn. Trên đường đạo, từ người thấp nhất đến kẻ cao nhất đều liên hệ nhau, người nầy liên kết với người kia, bởi một chuỗi dài công việc hỗ tương lẫn nhau.

 

Mong sao, không có ai lầm tưởng rằng ḿnh bị bỏ rơi hoặc cô độc. Những nấc thang dưới thấp của cây thang cao ngất có thể bị che lấp bởi sương mù, nhưng nhờ có nó mới leo lên được những nơi không khí trong lành, hạnh phúc, sáng lạng hơn.

 

 

 

---HẾT---

 

 

 

 

 

 

 

Thông Thiên Học

(Minh Triết Thiêng Liêng)

Hội Thông Thiên Học

 

Hội Thông Thiên học được thành lập năm 1875, là một cơ cấu quốc tế, với mục đích chính yếu là quảng bá t́nh huynh đệ đại đồng, được đặt căn bản trên sự nhận thức rằng sự sống bên trong mọi h́nh thể dị biệt, con người và mọi loài, là duy nhất không thể phân chia. Hội không áp đặt bất cứ sự tin tuởng nào lên hội viên. Hội viên của hội được kết hợp bởi một lư tưởng chung là t́m chân lư và mong muốn t́m hiểu về ư nghĩa cũng như mục đích của sự sống bằng cách học hỏi, quán chiếu, thanh lọc hóa cuộc sống và phụng sự trong t́nh thương.

 

Thông Thiên Học là minh triết ẩn tàng trong tất cả các tôn giáo, nhưng thường bị che phủ bởi những mê tín dị đoan và những giáo điều thêm thắt về sau. Triết lư của Thông Thiên Học giải thích rơ ràng, minh bạch về sự sống, và chứng minh rằng vũ trụ được điều hành bởi t́nh thương và sự công bằng tuyệt đối. Những giáo huấn của Thông Thiên Học giúp mở mang bản chất tinh thần tiềm ẩn trong con người, từ đó con người thoát khỏi mọi sự ràng buộc và sợ hải.