À CEUX QUI SOUFFRENT

Tác giả: AIMÉE BLECH

Dịch giả: TRẦN THỊ DU

CUØNG AI ÑAU KHOÅ

“Hãy để lòng lng nghe mi tiếng kêu than, ta như đóa sen n phơi trn lòng nhy ung ánh sáng ban mai.

“Bn hãy đừng để mt git l nào bc khô dưới ánh nng cháy, trước khi bn chưa t mình chm ráo nhng khóe mt ưu phin.

“Bn hãy để nước mt nóng hi ca thế gian rơi lên tim bn và đọng li đó. Và, bn đừng chm nó, trước khi nim đau gây ra nó chưa phai m.” ***

Hỡi quý bạn, quý anh chị đang đau khổ, dầu quý bạn bị thử thách và đau khổ như thế nào, tôi, một linh hồn đau khổ, cũng xin gởi đến quý bạn những trang giấy nầy, với niềm hoài vọng nồng nàn làm vơi bớt nỗi ưu tư của quý bạn, và làm lóe lên một tia sáng vỗ về trong chuỗi ngày hắc ám của quý bạn.

GIỚI HẠN

Tuy nhiên tôi phải đặt một giới hạn. Trong quý bạn có những người xem thường, hoặc không cần những lời của chúng tôi, vì các bạn ấy được hộ trì bởi tôn giáo hay đức tin dũng mãnh của mình. Những người nầy được an ủi dưới chơn Thập Tự Giá, hay dưới một biểu tượng tôn giáo khác. Đối với các bạn ấy, tôi chỉ biết nói: “Các bạn nên trung kiên với những điều bạn tin tưởng, nếu bạn tin một cách chân thành; các bạn hãy trung kiên với niềm tin ấy nếu nó đủ sức đem lại bạn sự an tĩnh. Như thế, tôi không có gì để hiến thêm cho quý bạn.

Ở đây, tôi chỉ ngỏ lời với những ai không có tôn giáo hay đã rời bỏ tôn giáo mình, với những người hoài nghi đã dần dần hay đột ngột mất cả đức tin, hoặc với những ai, tuy tin tưởng nhưng lòng tin không đủ sức giúp họ chịu đựng các nỗi bất công ở đời.

Với các bạn ấy, trong quyển sách nhỏ nầy, tôi cố giải thích sự đau khổ, nguồn gốc và mục đích của nó để tìm phương thuốc chữa trị. Trong khoa học linh hồn, trong sự minh triết thiêng liêng mà chúng tôi gọi là Thông Thiên Học, tôi còn ở bước đầu và chỉ có thể nêu ra một vài chỉ dẫn nghèo nàn. Ước vọng thúc giục tôi là giúp đỡ một vài huynh đệ. Nếu tôi không thành công, quý bạn nên qui lỗi ở tôi, ở sự dốt nát của tôi và xin chớ trách Thông Thiên Học.

NHỮNG NỖI KHỔ

Hỡi các bạn đau khổ, các bạn đừng quên, không phải chỉ có một mình bạn khổ. Chung quanh bạn còn có biết bao người đau khổ. Bạn nên nghĩ đến họ và an ủi họ, chớ đừng giam nhốt mình trong nỗi khổ riêng biệt một cách ích kỷ và vô bổ. Đau khổ há không phải là số phận chung của nhơn loại hay sao ? Chúng ta gặp đau khổ trên mỗi bước đi, khi thì thầm lặng, kín đáo, khi thì bộc lộ bằng những lời oán than tuyệt vọng. Trong các đô thị, nếu lắng nghe, bạn sẽ nhận ra vô số đau khổ vật chất và tinh thần. Ôi ! nhơn loại khổ nàn và bạc phước làm sao ! Nhưng đồng thời cũng vinh quang cho nhơn loại làm sao ! Là vì, các đau khổ của nhơn loại là những niềm đau khổ sinh sôi; là vì: nhơn loại đang sáng tạo Đấng Siêu Linh ! (Theo Giáo lý Minh triết Cổ truyền thì: Toàn thể nhơn loại đều lần theo một con đường Tiến Hóa Vĩ Đại. Và như Đức Thích Ca đã nói: Chúng sinh đang thành Phật, tức là thành Đấng Giác Ngộ, trọn lành).

Đây cũng chưa đúng lúc để tôi đề cập đến mục đích của sự khổ. Vì trước khi đề cập đến toàn diện vấn đề, tưởng chúng ta cũng nên biết qua ít niềm đau khổ riêng rẽ trên thế gian nầy.

* * *

Hỡi bạn, anh của tôi, bạn rất nghèo khó túng cùng. Đã từ bao lâu rồi, bạn phải lâm cảnh khốn cùng: không nhà, không cửa, bữa đói bữa no. Bạn phải tủi cực vô cùng, chịu đựng một cuộc sống thật là bấp bênh ! Ngày nào cũng thế, bạn sống ngày lại ngày trong lo âu phiền muộn. Tương lai bạn thật là đen tối ! Biết mấy đêm dài bạn sống cảnh màn trời chiếu đất, lạnh lẽo dưới sương gió. Biết bao đơn xin việc làm, trình hết hãng nầy đến sở nọ. Biết mấy cuộc tranh đấu gay go và, đủ điều thiếu thốn đã dày vò bạn ! Số phần bạn quả vô cùng đau khổ !

Hỡi bạn, anh của tôi ơi ! hạnh phúc của bạn đã tiêu tan rồi ! Bạn đã mất người bạn gái mến yêu mà bạn quý hơn chính bạn. Cuộc đời chỉ còn là một gánh rất nặng nề đối với bạn. Bạn đã nếm qua những ngày dằn vặc, rỗng không, những đêm dài trắng mắt ảm đạm, những cơn tỉnh giấc bồn chồn nặng nhọc sau những giấc ngủ chập chờn.

Và bạn, một bà mẹ đau khổ, mới vài tuần nay, bạn còn siết chặt trong tay để ru ngủ một đứa con xinh xắn tợ thiên thần, bạn còn hôn đôi bàn chơn bé nhỏ của nó như điên như dại. Rồi, bỗng nhiên một nấm mộ mở ra, để lạnh lùng khép lại trên tấm hình hài cưng quý ấy, mảnh huyết nhục của bạn ! Vấn đề tử vong, từ nay, đối với bạn là một mối sầu triền miên.

Hỡi bạn, anh của tôi, vì một chứng bịnh kinh niên vô phương chữa trị, bạn không sao rời khỏi giường bịnh, bạn không thể lìa chiếc ghế phế nhân của bạn. Thật không một ngày nào mà bạn chẳng đau đớn vừa thể xác, vừa linh hồn, vì bạn hoàn toàn bất lực, không đi đứng được, và, phải khổ tâm nhờ vả mọi người trong mọi việc.

Hỡi bạn, đứa em gái đáng thương, em đã yêu với tất cả tấm lòng trinh bạch và em đã bị lường gạt bởi một gã Sở Khanh. Em đau khổ vô cùng. Nhữnng chi trước kia em gọi là tình yêu, hạnh phúc, là lời ca tiếng nhạc, nay đã trở thành oán ghét, rẻ khinh và thù hận. Do đó, cuộc đời em trở thành đen tối, nặng nề như địa ngục.

Còn bạn, đứa em gái của tôi ơi, bạn có làm chi nên tội mà người ta luôn luôn bêu riếu nói hành em, khiến kế hoạch em bị trở ngại, hạnh phúc em bị lung lay, hành động em bị nghi ngờ. Em phải ngậm ngùi chịu mất dần bao bạn bè thân yêu. Đấy là một bất công và là một thử thách to lớn cho em, một tâm hồn đa cảm.

Còn anh, anh ước mong danh vọng, tiếng tăm, anh mơ trở thành một nghệ sĩ trứ danh. Nhưng mỉa may thay, số phận cứ mãi dìm anh vào im lặng và bóng tối, trong những công việc ti tiện, những phận sự quá tầm thường ! Sự khao khát một lý tưởng cao cả và những hành động hào hùng của anh bị khinh miệt.

Từng giờ, anh gặp toàn chế giễu và bực dọc. Từng giờ, anh phải cúi đầu trước cái định mệnh tầm thường ấy khiến anh vừa căm hờn vừa chán nản.

*** ***

Còn phần của bạn, bà chị của tôi ơi ! Chị hằng khóc trong cảnh cô đơn. Chị thấy lòng tràn ngập tình cảm mến thương. Thế mà chị phải đè nén nó tận đáy tim. Chị cam chịu cảnh đơn côi, không mẹ, không chồng, cũng không con, để được chăm nom, thương mến và vỗ về. Chị khao khát tình thương. Sự khao khát ấy vò xé chị đêm ngày. Và ngày lại ngày, sự cô đơn ấy càng nặng nề hơn mãi !

******

Còn anh, anh thương mến của tôi ! Tại sao anh chán nản thế ? Thôi ! tôi đã hiểu rồi ! Anh tưởng đã từ bỏ được cái quá khứ tội lỗi, bẩn thỉu của anh ! Sau những cuộc chiến đấu gay go, anh ngỡ mình đã chủ trị được những bản năng bồng bột; anh tưởng đã tìm được sự bằng an, với một tâm hồn trong trắng vui tươi, với những ước vọng tâm linh cao cả mà anh đang ôm ấp. Nhưng rồi, một cám dỗ bất ngờ đột nhiên đến với anh, và trớ trêu thay, cái quá khứ tưởng đã chết kia lại bừng dậy ! Những địch thủ chiến bại xưa, đứng lên, hùng hổ và thô bạo hơn lúc nào cả ! Cái bản chất đê tiện lại hiện ra, hăm dọa anh ! Thôi rồi ! anh đã thua trận, đã kiệt sức và không dám nhìn thẳng tương lai, anh sợ hãi nhiều đổ vỡ mới.

******

Còn chị, chị yêu mến của tôi, chị đang khổ vì đức tin của chị. Đức tin ấy, trước kia chưa được kiên cố nay lại bị khuynh đảo bởi những danh từ mâu thuẫn, những tín điều cạn hẹp, những kẻ giả nhân, giả nghĩa. Chị muốn trở lại với lòng tin xưa, nhưng không được. Chị mến tiếc vị Thượng Đế của thời thơ ấu, nhưng chị không biết cầu nguyện làm sao ! Than ôi ! chị không thể cầu nguyện nữa ! Đối với chị, cõi trời nầy đã vắng tanh, không còn đẹp đẽ huy hoàng nữa ! Chị đã gõ cửa khắp nơi để tìm Chơn Lý, nhưng ở đâu chị cũng gặp toàn là hoài nghị và đen tối !

******

Còn anh, nỗi khổ của anh cao thượng hơn vì tính cách vô ngã của nó. Anh đang khổ tâm vì mảng lo cho nhơn loại. Dưới mắt anh, nhơn loại thật là bệnh hoạn ! Anh đào sâu vấn đề nghèo đói. Anh tìm hiểu các khủng hoảng xã hội và đạo đức vô vùng trầm trọng đang đến hồi bế tắc. Anh lưu tâm đến các nỗi khốn khổ vô phương cứu chữa, đến các tội lỗi xảy ra trong bóng tối, đến sự khao khát lạc thú đang biến con người ích kỷ thành những con ác thú. Anh nghĩ đến các cuộc ăn chơi quá độ với những tai họa có thể ngừa được, nếu nhơn loại tốt đẹp và trong sạch, ngay thẳng và công bình hơn. Anh đau khổ vì anh thấy mình bất lực trước các hoàn cảnh nan giải đó. Anh sẵn sàng hy sinh cho nhơn loại đam mê, dốt nát và đáng thương. Và tận chốn sâu thẳm của tâm hồn anh, mãi vang lên những tiếng kêu thương khó hiểu của: tai nàn, đau khổ, bất công ! Than ôi ! anh tự nói: “Tại sao có những bài tính nguy hiểm ấy ? Và tại sao thế ?”

******

Tôi đã kể nhiều nỗi khổ ở thế gian nầy, nhưng chắc chắn, tôi cũng bỏ sót một số không ít. Nhiều độc giả sẽ nói với tôi: “Bà ấy không đoán được nỗi thống khổ cùng với những thử thách nặng nề khốc liệt của tôi đâu v. v. . . !” Hỡi các bạn, đại để các bạn đừng quên rằng: “Cảnh khổ của chúng ta luôn luôn như có vẻ trầm trọng hơn cảnh khổ của người khác, và chúng ta thường có thói quen xem thường tất cả các thử thách nào không phải là của mình. Đó là tâm lý thường tình của con người.

VẤN ĐỀ ĐAU KHỔ

Song le, thưa chư huynh tỷ, tôi đến với quý bạn không phải để giảng giải khoa tâm lý hay phân tách các thứ đau khổ ở quý bạn. Tôi chỉ có thể đề cập sự đau khổ qua khía cạnh THÔNG THIÊN HỌC mà thôi. Như vậy, tôi sẽ trình bày theo quan điểm của chúng tôi, thế nào là nguyên nhân, là lợi ích, là mục đích của đau khổ. Và như thế, tôi bắt buộc phải nêu ra một ít giáo lý Thông Thên Học. Ước chúng nó soi sáng quý bạn như đã soi sáng tôi.

******

Bàn về vấn đề đau khổ, quả thật là khó khăn ! Nhưng nó rất quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến mỗi người chúng ta. Hằng ngày, đau khổ xảy ra trong mọi đời sống, cho mọi sự tiến bộ trên mọi bước của khách hành hương UUUU[1], trước khi đến tột đỉnh vinh quang của con đường tiến

Có lẽ bạn hỏi: “Phải chăng đau khổ là một định luật ? Không, nó không phải là một định luật. Nếu nó là một định luật thì định luật ấy do con người tạo ra chớ không phải do trời. Đau khổ chỉ là kết quả hiển nhiên của mọi sự vi phạm luật trời. Con người sở dĩ bị đau khổ là vì đã hành động trái luật trời, trong kiếp nầy hay các kiếp trước. Và vì vậy, người không thể không đau khổ, y như một con trẻ không sao tránh khỏi phỏng tay khi đã trót đùa với lửa. Như vậy, đau khổ của chúng ta là hậu quả của các hành động, ngôn ngữ và tư tưởng của chúng ta trong hiện tại hay quá khứ.

Sự nhận định nầy đặt chúng ta trước hai định luật quan trọng: nền tảng của giáo lý Thông Thêin Học, cũng như của nhiều tôn giáo khác từ ngàn xưa. Ấy là luật Tiến Hóa bao hàm cả luật Luân Hồi và Nhơn Quả, mà giáo lý Thông Thiên Học cố gắng trình bày lại cho nhơn loại cận đại, hầu giúp cho họ hiểu nguyên nhân và lợi ích của đau khổ.

THÔNG THIÊN HỌC VÀ TÔN GIÁO

Nhưng đến đây, có lẽ câu hỏi đầu tiên của bạn sẽ là: “Cái tôn giáo mới nào, đột ngột ra đời, mà có thể tiết lộ Chơn lý cho thế gian đây ?”

Tôi xin đáp: “Thông Thiên Học không phải là một tôn giáo mới. Nó cũng không phải là một tôn giáo. Nó đã có từ ngàn xưa và được xem như là nền móng và sự tổng hợp các tôn giáo cùng học thuyết đạo đức. Nó là khoa học của linh hồn. Nó là Minh Triết cổ truyền được trình bày lại trong thời buổi hiện kim. Nền Minh Triết cổ truyền nầy không cố ý đánh đổ các tôn giáo hiện tại, cũng không cố ý xem mình là một đối thủ của chúng. Trái lại, nó có mục đích liên minh với các tôn giáo để chống lại thuyết duy vật và đồng thời liên kết các tôn giáo lại, vì mỗi tôn giáo đều có khuynh hướng cho mình nắm giữ Chơn lý, và cũng không nhận ra Chơn lý ấy dưới một hình thức khác, trong bất cứ một tôn giáo khác nào !”

Thông Thiên Học ước mong giúp đỡ được các tôn giáo mở rộng chơn trời lắm khi bị giới hạn của chúng, hòa giải chúng với khoa học, làm tỏ rạng các biểu tượng bị quên lảng của chúng và đem lại cho giáo lý chúng một sinh lực mới. Nó đến với các tôn giáo, hai tay rộng mở, với những kiến thức dồi dào, và mỗi ngày một phong phú hơn. Đại để, Thông Thiên Học và chức vụ của nó là thế.

TIẾN HÓA VÀLUÂN HỒI

Bây giờ, chúng ta hãy trở lại hai Đại Luật mà tôi đã nói với các bạn khi nãy, trước hết là luật Tiến Hóa hay đúng hơn là luật Luân Hồi.

Sự tin tưởng ở các đời sống kế tiếp của linh hồn đã có từ ngàn xưa. Các tôn giáo cổ của Ấn Độ đã dạy như thế; Pythagore, Platon và các môn phái Néo-Platonisme xác nhận lại, vài linh mục Thiên Chúa Giáo cũng chấp nhận niềm tin ấy, và theo nhiều đoạn kinh Phúc Âm, thì Đức Jésus cũng có dạy qua.

Trên bình diện đạo đức, nếu quý bạn quan sát quan niệm linh hồn tái sinh trong nhiều kiếp quý bạn sẽ thấy rằng quan niệm ấy hữu lý, công bình và thỏa đáng hơn bất kỳ lý thuyết chính thống hay học thuyết nào. Cao cả tuyệt vời và công minh tột bực, luật Luân Hồi vượt xa thuyết tiền định nguy hại. Thuyết nầy biến Thượng Đế nhơn từ thành một đao phủ thủ. Đâu có thể nào Thượng Đế lại đào tạo linh hồn nầy thanh cao, linh hồn kia hèn hạ ! Đâu có thể nào Ngài tạo một linh hồn ưu tú, rồi đặt linh hồn đó trong một hoàn cảnh tốt đẹp, để rồi đưa nó lên Thiên Đàng. Đồng thời, Ngài tạo một linh hồn khác hạ tiện, rồi đem đặt nó vào một hoàn cảnh bỉ ổi, khiến nó không tránh được những tội lỗi nặng nề ! Nếu Thượng Đế hành động như thế, thì quả Ngài là một tội nhơn không hơn không kém ! Ai lại có thể chấp nhận một giáo lý bất công, quái đản như thế ! Trước giáo lý ấy, nhiều người công phẩn thốt lên, không chút ngần ngại: “Nếu Thượng Đế của anh như thế, thì tôi chẳng thích chút nào; thà là tôi sống một nơi hoang liêu, còn hơn sống trên cõi trời do một người không tốt điều khiển !”

Than ôi ! Đức Chúa cao cả đã sáng lập tôn giáo của Tình Thương và của Hy Sinh là: Thiên Chúa Giáo, cao đẹp thế nào mà nay lại thất chân do những tín đồ hẹp hòi, chỉ mang danh nghĩa, mà không tuân giữ giáo lý của vị Giáo chủ thiêng liêng.

Không, Thượng Đế không sinh linh hồn nầy xấu xa, linh hồn kia tốt lành. Xin đừng gán hành động độc ác, bất công ấy cho Đại Từ Phụ của tất cả sinh linh. Linh hồn như thế nào là tùy nó tự đào tạo lấy nó xuyên qua nhiều kiếp làm người kế tiếp. Những linh hồn cao thượng là những linh hồn đã tiến xa, đã trải qua nhiều bài học kinh nghiệm trong cả ngàn kiếp người. Ấy là những linh hồn đã chiến đấu trong nhiều thế kỷ, và đã chế ngự được bản chất thấp hèn, rèn luyện được những đức tánh có được ngày nay.

Còn những người xấu xa, hung dữ và yếu hèn, chẳng qua là những linh hồn thơ ấu, chưa ý thức được điều lành, điều dữ và tâm thức (kết quả của vô số kinh nghiệm) chưa được mở mang. Các linh hồn non nớt ấy còn phải học hỏi nhiều ở trường đời đắng cay, đau khổ.

******

Người Thông Thiên Học chúng tôi xác nhận điều nầy, mà tôi, xin quý bạn chấp nhận như một giả thuyết và đừng vội bác bỏ trước khi nghiên cứu kỹ càng. Điều đó là các điểm dị đồng giữa các linh hồn, chẳng qua là sự khác biệt về tuổi kiếp, nghĩa là trình độ tiến hóa. Linh hồn càng trẻ nó càng dốt nát, xung động, dễ nô lệ cho dục vọng. Khi tâm thức còn cạn hẹp, nó chưa biết được điều phải lẽ quấy, và chưa biết suy luận. Nhưng trên con đường tiến hóa rất dài, rất chậm, và cũng dễ chán ở quãng đầu, linh hồn càng tiến thì càng biến chuyển, càng tăng trưởng, càng cải thiện. Các xác thân mà nó đã nương trụ, các cái Ngã mà nó đã mang (và đã vứt như những chiếc áo cũ) để thể hiện nó ở cõi trần, mỗi lần chúng tan rã là mỗi lần chúng lưu lại ở nó một ít di sản kinh nghiệm. Di sản nầy khá nghèo nàn trong đoạn đầu, dồi dào thêm mãi, và như thế, linh hồn tăng trưởng lần lần. Và tất cả kinh nghiệm ấy – đa số là đau khổ - lần hồi cấu thành Tâm Thức.

Các bạn hãy nghĩ đến vô số kiếp cần thiết để tạo một tâm thức tế nhị. Các bạn hãy nghĩ đến bao nhiêu đau khổ mà linh hồn phải chịu để học một bài học. Và như ta đã thấy ở trên, nếu đau khổ là hậu quả của điều ác, thì điều ác là hậu quả của vô minh. Linh hồn vô minh làm quấy vì nó bị lôi cuốn bởi những xúc động thấp hèn, những cuồng vọng gớm ghiết, và nó làm quấy mãi, cho đến một khi kia, vì quá đau khổ, vì quá đau khổ, nó lưu ý và trực ngộ ra rằng: “Cái khổ luôn luôn phát sinh từ điều ác, chừng ấy nó bắt đầu suy luận, rút tỉa kinh nghiệm và xa lánh điều quấy”. Đó là giai đoạn đầu của sự xây đắp mầm móng của tâm thức.

Lúc đầu tâm thức rất thô sơ. Con người tránh điều quấy không phải vì điều nầy xấu xa mà vì muốn tránh đau khổ do điều quấy gây ra. Tuy nhiên, nhờ các kinh nghiệm kế tiếp, tâm thức một ngày một trở nên phung phí, đồng thời trí thông minh cũng mở mang. Nhờ vậy con người tiến hóa mau hơn. Các bản năng xấu xa, các xúc động thô bạo nhường chỗ cho cảm tình thanh cao, cho tình thương nồng thắm, khiến anh có thể quên mình và biết trọng nhân phẩm mình. Lần lần anh trở thành con người của bổn phận.

******

Chúng ta hãy trở lại Cơ Tiến hóa của nhơn loại. Sau nhiều kiếp tiến hóa nữa, con người của bổn phận trở thành ân nhân của loài người. Trí tuệ anh mở rộng, nguyện vọng anh cao cả.. Tình thương và công lý hướng dẫn anh đến chỗ quên mình: từ bỏ thị hiếu và quên hạnh phúc tư riêng. Anh tiến đến đức hy sinh. Rồi một ngày kia, anh rời bỏ các tình luyến ái chật hẹp, để hợp nhất với Đại Ngã và hòa đồng với nhơn loại, với Thượng Đế. Bản ngã anh tiến hóa trong biển cả của tình thương. Bây giờ anh chỉ muốn sống cho mọi người mà anh xem như huynh đệ, chỉ muốn nhập thế để hiến mình cho công cuộc giúp đời. Nguyện vọng của anh là soi sáng, an ủi và ban rải sự an lạc đã có ở lòng anh. Nhờ được hợp nhất với Đấng Tối Cao, mà anh cảm thấy tràn đầy phúc lạc, và không còn quyến luyến các thú vui vô vị của cõi trần. Anh đã được một sự bằng an trong tâm hồn mà không ai có thể tranh giành và cũng không có một biến cố nào có thể làm phai nhạt. Đó là vầng Thái Dương chói rạng muôn đời trên các nơi phong ba bão tố.

Anh tiến mãi lên cao, lên tận đỉnh vinh quang của con đường dốc. Sau cùng, anh trở thành một Đấng Chơn Sư Minh Triết. Nhưng tuy đã thành một bậc Siêu nhơn, anh vẫn tiếp tục tiến từ Vinh Quang nầy đến Vinh Quang khác. Khi anh hoàn thành sự tiến hóa của loài người, anh sẽ sang qua con đường tiến hóa siêu nhơn loại, ở các cõi giới khác trong các vũ trụ khác nữa. Cuộc tiến hóa vĩ đại nầy khiến ta hoa mắt. Vì quả thật chúng ta còn nhỏ bé quá, trí óc ta cạn hẹp quá, làm sao chúng ta có thể thực hiện sự vinh quang nầy ? Tốt hơn là chúng ta đừng nghĩ tới. Nếu chúng ta hiểu được chút nào, chúng ta có hưởng chút đó. Sau nầy, chúng ta sẽ tiến cao và sẽ hiểu nhiều hơn.

******

Quý bạn chắc sẽ hỏi tôi: “Sự tiến hóa huy hoàng nầy phát sinh từ đâu ? Đâu là nguồn gốc nó ?”

Nguồn gốc nó vốn có từ vô thỉ, rất xa, thật xa chúng ta. Và tôi sẽ trả lời bạn như Đức KRISHNA: “Bản nguyên của vạn hữu không sao hiểu biết được !”

THƯỢNG ĐẾ ẨN TÀNG

Tuy nhiên, Thông Thiên Học dạy chúng ta điều nầy.

Mỗi linh hồn là một điểm Linh Quang của Thượng Đế, hay của Đại Hồn. Vậy, mỗi linh hồn là Thượng Đế trong trạng thái tiềm tàng. Vì Thượng Đế đó chưa ý thức được bản thể thiêng liêng của mình. Và chính để khai mở ý thức nầy mà linh hồn phải trải qua các kinh nghiệm của kim thạch, thảo mộc, cầm thú, nhơn loại, đến Thánh, Thần, Tiên, Phật. Bắt đầu nó hạ sâu xuống vật chất trên con đường nhập thế. Và sau đó, nó tiến lên quả vị siêu linh trên con đường xuất thế, trong một thời gian vô số kiếp.

Khi nhập thế, Chơn Thần bắt đầu nhập vào các loài tinh chất. Kế đó, nó sang loài kim thạch, thảo mộc rồi đến thú cầm, để tiến lần đến sự cá thể hóa mà thành người. Như vậy, cầm thú là đàn em của chúng ta.

Ở đây, tôi không tiện trình bày diễn trình tiến hóa của linh hồn ở các giai đoạn chuẩn bị thành người, vì như thế chúng ta sẽ đi xa đề. Chúng ta chỉ cần suy diễn một vài điều liên hệ đến thuyết luân hồi mà chúng ta đang tìm hiểu.

LỢI ÍCHCỦA ĐAU KHỔ

Chúng ta đã biết đau khổ là hậu quả của điều ác, của sự vi phạm luật trời, và điều ác phát sinh từ sự vô minh. Vậy, cội rễ của đau khổ là vô minh. Như thế, muốn diệt khổ phải bứng cái rễ đó, nghĩa là phải phá vô minh. Và, phá bằng cách nào ? Phải làm cách nào để thay nó bằng minh triết ? Chúng ta phải nhờ kinh nghiệm. Và kinh nghiệm như tôi đã nói, thường là những điều khổ. Thế là ta phải kết luận: đau khổ thật là hữu ích, nó là ân huệ. Đau khổ là một điều kiện thuận lợi, một yếu tố cần thiết cho sự tiến hóa của con người. Nó mở mang tâm thức, rèn luyện linh hồn. Không có nó, cuộc tiến hóa sẽ trì huỡn khôn cùng. Là vì tâm thức chỉ phát triển mau trong bão tố, khi tâm hồn bị khích động bởi những xúc cảm ồ ạt, dục vọng bạo tàn, đời sống khắt khe. Như vậy, đau khổ rất cần ở giai đoạn đầu và hữu ích suốt thời gian tiến hóa. Linh hồn càng trưởng thành, nỗi khổ càng da diết, càng tinh tế. Đau khổ là lò lửa đốt tan các ham muốn đê hèn và ích kỷ. Nó còn là trường học của thiện cảm, và tình thương. Đôi khi, nó ray rứt, nhưng lúc nào nó cũng bồi dưỡng lòng từ ái trong ta, khiến ta dễ thông cảm với mọi nỗi đau khổ quanh ta. Nếu không đau khổ làm sao ta có thể mở rộng vòng tay để đón những người bạc phước, làm sao ta có thể tìm những lời lẽ dịu dàng, thích hợp để xoa dịu những vết thương lòng ?

Như vậy, tại sao ta quá sợ đau khổ ? Tại sao ta cố tránh nó ? Dấu hiệu của thời đại chúng ta là tránh mọi đau khổ. Trong mục đích này, chúng ta sáng chế đủ thứ thuốc. Ta không thể chịu nổi một cơn đau nhức nhẹ. Ta không dám nhìn sự nghèo đói, những khu nhà tồi tàn. Ta không dám xem những trang sách mô tả sự mổ xẻ sinh vật, hay cảnh nô lệ của biết bao nhiêu phụ nữ đáng thương. Như thế, là vì ta muốn tránh cho lòng khỏi rung động, hay xao xuyến, đau khổ.

VẤN ĐỀ THIỆN ÁC

Không có điều quấy thì không có đau khổ. Và, bởi đau khổ cần thiết, bởi nó giúp vào sự tiến hóa của linh hồn, nên điều quấy cũng có sự hữu ích của nó. Quý bạn đừng nên vội nói : “Ý nghĩ nầy thật là vô luân !” Tại sao vô luân ? Nếu chúng ta lãnh hội được luật tiến hóa, thì ta sẽ thấy những chi cản trở bước tiến của con người mới thực là vô đạo, vô luân. Đối với chúng tôi, người Thông Thiên Học, đạo đức là sống hợp với luật trời, là nương theo dòng triều đi lên ấy, tức là dòng tiến hóa. Điều ác, theo chúng tôi là những chi làm trễ nải, những chi ngăn chặn dòng tiến vĩ đại ấy, những chi trái với bước tiến của toàn thể hay của cá nhơn. Quả thật không có chi tương đối những điều quấy. Dục tình ích kỷ rất cần để kích thích các linh hồn thơ ấu, chúng thúc đẩy các linh hồn ấy chiến đấu để gia tăng sức mạnh. Chúng còn mở mang trí tuệ. Như thế, chúng đâu gây nhiều tai hại. Nhưng đối với chúng ta, sáng suốt hơn và tiến hóa hơn, dục tình, ích kỷ và tham vọng là điều quấy vì chúng ngăn cản bước tiến hóa của chúng ta và xui chúng ta chống lại Thiên Luật. Tất nhiên, nếu chúng ta khăng khăng hành động theo các điều quấy ấy, đời sống của chúng ta sẽ đổ vỡ và đau khổ.

Thường thường, linh hồn ấu trĩ cần trải qua điều quấy gây đau khổ, linh hồn mới ý thức được các hành động trái luật trời. Làm sao có thể khuyên dạy một linh hồn chế ngự dục tình, và bản chất đê tiện, nếu nó không bị đau khổ vì chúng ? Lại nữa làm sao một linh hồn thơ ấu có thể hoạt động nếu không được kích thích bởi lòng ích kỷ và tham vọng ? Làm sao chúng ta có thể thuyết phục nó bằng ý niệm bổn phận, bằng lý tưởng hay bằng hạnh hy sinh, vì nó chưa biết thế nào là phải, thế nào là quấy ? Điều nó cần là những chi vừa tầm hiểu biết của nó. Một đứa trẻ phải là xấu xa, mà rất hữu ích, vì chúng thúc giục sự tiến hóa của linh hồn. Ở trình độ tiến hóa của những linh hồn non trẻ ấy, vì trí tuệ còn kém cỏi, nên con người tuy thô bạo, chớ không làm sao có thể đọc những sách khoa học, có thể dùng những dụng cụ giải phẫu ? Trong một tác phẩm sau cùng của bà A. Besant, bà viết : “Làm sao bạn biết lẽ công bình, nếu bạn chưa thấu triệt sự bất công ? Làm sao bạn có thể chọn điều lành, nếu bạn chưa biết việc ác ? Làm sao bạn nhận ra ánh sáng nếu không có bóng tối ? Sức mạnh chỉ có thể nảy nở bằng đấu vật, bằng nỗ lực, bằng thao dượt. Cũng thế, sức mạnh nội tâm không bao giờ phát hiện và gia tăng, nếu linh hồn không thất vọng, đau buồn”.

Tóm lại, đối với chúng ta, người Thông Thiên Học, quấy và ác là: những chi ngăn cản sự tiến hóa của con người. Khi một điều quấy giúp vào sự tiến hóa, nó không còn là một điều quấy mà là một việc cần ích. Vậy chúng ta nên khoan dung đối với linh hồn thơ dại và nghiêm khắc đối với mình. Những linh hồn ấy đang học bài học của họ, như chúng ta đang học bài học khó hơn của chúng ta. Và, một ngày kia, họ cũng sẽ học đến những bài học khó nầy. Khi các ý nghĩ nầy được hiểu rõ, bạn sẽ lãnh hội được thế nào là điều ác.

Khi đọc những dòng chữ nầy, chắc có bạn sẽ thắc mắc như vầy : “Vì điều quấy cũng tốt, thì tôi sẽ thỏa mãn lòng dục của tôi, tha hồ, cần gì thận trong !”. Bạn ấy đã hiều lầm tôi. Các độc giả hãy tin chắc rằng, đối với các bạn, điều quấy không còn là một sự lợi ích, tốt lành nữa, khi mà bạn cố ý làm quấy, nghĩa là bạn làm ác một cách có ý thức; tất nhiên nó phải hại bạn và ngăn cản bước tiến của bạn.

SỰ BÌNH ĐẲNG VÀ TÌNH HUYN ĐỆ

Thế là trong nhơn loại, có đủ hạng linh hồn, khác nhau về tuổi tác, khác nhau về trình độ tiến hóa. Có những linh hồn ấu trĩ và cũng có những bậc siêu nhân đã tiến đến tột đỉnh tiến hóa của nhơn loại. Ấy là những bậc mà chúng ta gọi là các Đấng Chơn Sư Minh Triết với một lòng tôn kính chơn thành. Vì vậy, mà không sao có sự bình đẳng trên thế gian nầy được. Làm sao ta có thể thiết lập sự bình đẳng trong xã hội khi nó không có trong thiên nhiên, trong vũ trụ ? Trong gia đình nhơn loại, luôn luôn có kẻ nhỏ, người lớn, kẻ thanh, người trược, kẻ ngu khờ, người lỗi lạc.

Nhưng nếu luật tiến hóa quả quyết không sao có sự bình đẳng giữa loài người, thì nó dạy ta một bài học quan trọng về tình huynh đệ, về sự liên đới giữa con người.

Trên chiếc thang tiến hóa, chúng ta đã trải qua các nấc thấp. Ở một thuở nào, chúng ta đừng lạm dụng sức lực chúng, mà phải thương yêu và dìu dắt chúng. Những ai thương thú vật và sống gần gũi chúng, đều biết rằng tình thương giúp chúng tiến mau; chúng tỏ ra hiền lành, thông minh và biết suy nghĩ; chúng có trí khôn gần giống con người. Thật hết sức đúng mà nhận rằng: “Chúng nó là những đứa em thấp kém của chúng ta, chúng quả là những thí sinh sắp sửa vào hàng nhơn loại. Và, cái quyền mà chúng ta tự phụ đối xử với chúng, chẳng qua là quyền của kẻ mạnh”.

Tiến lên một vài nấc nữa, chúng sẽ ở vào thời kỳ cổ lổ của nhơn loại. Ở giai đoạn nầy, tất cả chúng ta đều có làm ác, đều có gieo đau khổ để mưu lợi cho mình, bằng tư dục ích kỷ. Có thể chúng ta là kẻ sát nhơn hay ít nhứt cũng là người hung ác, ngu đần, bởi vậy, bổn phận của chúng ta là giúp đỡ các linh hồn thơ ấu, đàn em trẻ dại của chúng ta, bằng các nâng cao tâm tình chúng và đánh tan sự vô minh đang bao bọc chúng.

Trên tất cả nấc thang tiến hóa, chúng ta đều có bổn phận đối với đàn em thơ dại, đối với các bạn ngang hàng cũng như đối với các bậc lão thành.

Tình huynh đệ và liên đới thay thế sự bình đẳng một cách tốt đẹp. Là vì, nơi nào bình đẳng duy trì sự oán ghét, ngờ vực và hoài nghi, thì nơi ấy tình huynh đệ nới rộng vòng tay kết hợp và thương mến. Điều nầy là một ưu điểm và là một sức mạnh của Hội Thông Thiên Học được truyền bá trên khắp thế giới. Nó đặt nhẹ sự giúp đỡ vật chất mà nhiều công cuộc từ thiện đã đảm trách. Nó chuyên chú vào sự giúp đỡ đạo đức, trí thức và tâm linh [2].

Các bạn hãy tưởng tượng các kiếp sống ở cõi trần như một cuộc đăng sơn vĩ đại và khó khăn đến đỗi có vẻ như không thể nào thực hiện. Nhưng ngọn núi trắng tuyết đã hiện ra cho các bậc huynh trưởng nhanh chơn và cương quyết. Còn đàn em thơ ấu còn lần dò từ bước trong thung lũng âm u và vấp chơn vào đủ thứ chướng ngại, vì chưa ý thức được lộ trình. Trước các em nầy, trên khắp quãng đường, nhơn loại trung bình, nửa tin, nửa ngờ, cũng đang tiến theo chơn các huynh trưởng, trên con đường hành hương diệu vợi, mà họ chưa hiểu được nguyên lai và mục đích.

Trong cuộc đăng sơn nầy, tình huynh đệ phải được xem như một dây xích vô tận, mà mỗi cá nhơn là một khoen con. Chúng ta không thể đơn độc tiến lên một mình: chúng ta cần theo chơn một người, đồng thời dẫn dắt thêm một người. Bạn đã được một người giúp bạn nhảy qua khe núi, thì bạn cũng phải đưa tay dìu dắt một người khác đang kiệt sức phía sau. Đó là cách bạn tỏ lòng tri ơn, vì nhơn loại là Một, khi bạn giúp một người là bạn giúp tất cả, kể cả ân nhân bạn đó, vì trên đời, đâu phải luôn luôn bạn được dịp trả ơn ngay cho người đã thi ơn cho bạn.

Chúng ta hãy cố gắng thực hiện tình huynh đệ đại đồng ấy. Chúng ta hãy cảm nghe sự sống chung quanh rung động ở tâm ta. Chúng ta hãy xem các huynh đệ của ta là chính ta. Những điều ta biết dù ít oi, chúng ta hãy chia sớt cho họ. Nếu ta thấy một tia sáng Chơn lý huy hoàng hiện trên con đường, hãy hưởng cái hạnh phục tuyệt vời khi hạnh phúc ấy được đem chia cho bạn cùng đường. Chính khi làm những công việc phụng sự nầy, chúng ta sẽ tiến lần lần đến mục đích xa xăm, mà hiện nay chúng ta chưa ý thức được rõ ràng sự vinh quang kỳ diệu.

******

Trước khi sang qua luật Nhơn Quả kỳ diệu, liên quan mật thiết với luật Tiến hóa và luật Luân Hồi, tôi tưởng nên giải đáp một câu hỏi có thể làm cho một vài bạn thắc mắc.

Các bạn sẽ hỏi: “Tại sao muốn tiến đến quả vị Tiên Thánh, con người phải trải qua nhiều kinh nghiệm, phải đắm mình trong tội lỗi, phải chịu đau khổ đủ điều như thế ?

Đành rằng Thượng Đế có thể sáng tạo một con người hoàn toàn. Nhưng Ngài không muốn làm thế, vì tạo một con người trọn lành là tạo một con người máy. Ngài muốn con người được tự do. Ngài muốn con người tiến đến sự toàn tri, đến Chơn ngã, đến quả vị thánh hiền bằng chính kinh nghiệm của mình. Ngài muốn con người nếm mùi tội lỗi và trải qua nhiều gian lao cần thiết cho sự mở mang tâm thức. Ngài muốn trên con đường tiến hóa, con người biết thế nào là yếu hèn, đau khổ, để thông cảm với các bạn đường. Có thể, hoa từ bi mới nở ở lòng anh, để chuẩn bị anh trong sứ mạng cao quý cứu đời. Ngài “muốn” thế, là vì, đó là một điều “cần thiết”.

LUẬT HY SINH

Đến đây, tôi bắt buộc phải nói đến luật Hy Sinh thiêng liêng trong việc sáng tạo vũ trụ.

Theo giáo lý Thông Thiên Học, luật Hy Sinh thiêng liêng (mà sự chuộc tội ở Thiên Chúa Giáo chỉ là một phản ảnh nhỏ) là Công Đức vô lượng của Đức THƯỢNG ĐẾ, là công nghiệp của Đấng Tối Cao. Trong tình thương bát ngát, trong niềm lạc phúc tràn đầy, trong sự vinh quang khôn tả. Ngài tự giới hạn mình, tự giam hãm mình trong hình hài sắc tướng do Ngài sáng tạo. Mục đích của Ngài là hóa sinh vô số sinh linh, và các sinh linh nầy, khi đang tuần tự tiến lên, lần hồi ý thức được mình là những tiểu trung tâm trong đại trung tâm, là những tiểu ngã trong đại ngã, là những Thánh linh trong Thượng Đế vô biên. Ngài quả thật là Đại Từ Phụ, vì sự sống của Ngài lan tràn khắp nơi, ở lòng ta cũng như ở trong lòng vạn vật, vì tâm thức Ngài bao trùm tâm thức của chúng ta và rung động cùng chúng nó. Ngài ở trong ta và ta ở trong Ngài.

Để giải rõ điều nầy, tôi xin nêu một so sánh. Thân thể ta có một sự sống duy nhứt, nhưng nó được tạo thành do nhiều tế bào, và các tế bào nầy lại có những sự sống riêng, trong sự sống duy nhứt của thân thể. Thân thể ý thức được các cảm giác của tế bào và xem như là cảm giác của mình.

Cũng thế ấy, tâm thức vô biên của Thượng Đế bao trùm các tâm thức nhỏ bé của chúng ta. Cũng thế ấy, tâm trí toàn tri và cùng khắp của Ngài thu nhận các cảm giác của chúng ta là những nguyên tử nhỏ bé so với Ngài. Những cảm giác của mỗi hột nguyên tử trong cơ thể ta, để so sánh thì cũng như chúng ta đối với Đức Thượng Đế vậy – “Tóc trên đầu con cũng đã được đếm”, Đức Chúa dạy như thế !

Dù nhỏ bé, hèn mọn hay bất toàn, nếu chúng ta ý thức được sự hy sinh thiêng liêng nầy thì sự hiến dâng bừng dậy ở lòng ta: chúng ta muốn đáp lại tiếng gọi của tình thương, chúng ta hoài bão được giúp vào công cuộc tế độ cao cả, và sẵn sàng hiến dâng thân thể, trí tuệ, linh hồn ta để giúp Ngài cùng những vị phò tá Ngài.

Nhưng than ôi ! chúng ta còn hèn mọn nên không thể bay lượn lâu trên trời cao, chúng ta chỉ vươn lên đó trong những phút giây ngắn ngủi. Rồi khi ngọn lửa thiêng tắt lịm vì thiếu sức tư dưỡng, chúng ta cũng lại rơi về cõi đời ích kỷ, tầm thường.

Bây giờ, nếu chúng ta hiểu vũ trụ được sáng tạo và duy trì do sự hy sinh thiêng liêng; nghĩa là, do sự giới hạn của vô biên, do ân huệ của Thượng Đế hằng ban rải khắp nơi, chúng ta sẽ hiểu sự giới hạn nhứt thời nầy [3], tạo sự bất toàn nhứt thời. Trong những điều kiện mà Ngài tự đặt mình vào vì tình thương chúng ta, Ngài không thể hành động trái với luật Tiến Hóa. Ngài không thể tạo một con người hoàn toàn thánh thiện. Nhưng Ngài có thể chuyền cho mọi người sự sống của Ngài với những tiềm lực thiêng liêng.

Con người là một vì Thượng Đế chưa ý thức được bản ngã thiêng liêng của mình. Và chỉ ý thức được, khi nào trải qua các giai đoạn tiến hóa như tôi đã trình bày ở phần trước., nghĩa là, sau khi nếm qua quả “thiện”, quả “ác”. Và hơn nữa, sau khi các tiềm năng thiêng liêng của trí tuệ, ý chí và tình thương được biến chuyển thành những đức tính cá nhơn.

LUẬT NHƠN QUẢ

Chúng ta đã thấy, đau khổ là một đòn bẫy cất chúng ta lên khỏi bùn nhơ của dục vọng, một điều kiện thuận tiện, cần thiết cho sự tiến hóa và một yếu tố giáo hóa rất quý báu. Chúng ta cũng đã thấy: tội ác bắt nguồn trong vô minh, và đau khổ phát nguyên từ tội lỗi. Quy tắc nầy bao trùm tất cả, kể cả các trường hợp cá nhơn và đặc biệt. Tất cả các đau khổ của chúng ta là kết quả của những tư tưởng, lời nói, hành động xấu xa mà chúng ta đã tạo ra trong kiếp nầy hay các kiếp trước.

Thế là, chúng ta lại đứng trước một Đại Luật rất quan trọng mà triết lý Đông Phương gọi là KARMA (hành động). Luật nầy bổ sung luật Luân Hồi, và có thể gọi là luật Báo Ứng, luật Nhơn Quả, sự Công Bình Nội Tại hoặc Công Lý Hằng Cửu.

Nếu quý bạn hiểu được chức vụ của luật Nhơn Quả trong đời sống cộng đồng của nhơn loại cũng như trong đời sống nhỏ bé của cá nhơn, quý bạn sẽ lãnh hội rõ ràng hai vấn đề: đau khổ và định mệnh, sẽ thấy sự Công Bình Thiêng Liêng chiếu rực rỡ ở nơi mà trước kia quý bạn chỉ thấy bất công và phiền não [4].

Chơn lý nầy có vẻ quen thuộc với chúng ta. Quý bạn suy nghĩ kỹ xem. Quý bạn há không từng đọc lời của Thánh Paul: “Các ông đừng lầm, người ta không thể đùa cợt với Thượng Đế. Ai gieo cái chi thì gặt cái nấy”. Đó là đại cương của luật Nhơn Quả: Đã có nhơn thì có quả. Một nghiệp quả luôn luôn phát sinh từ một nguyên nhơn. Nguyên nhơn nào cũng tạo nghiệp quả. Và, nhơn với quả luôn luôn cân xứng.

Tất cả các đau khổ của chúng ta là những món nợ mà chúng ta trả cho xã hội hoặc cho Thiên Luật. Những người mà chúng ta gây đau khổ trong quá khứ, luật Nhơn Quả sẽ đặt họ trên bước đường của chúng ta như là những chướng ngại để phá hoại hạnh phúc của chúng ta một cách ý thức hay vô thức. Đó là những món nợ mà chúng ta trả trực tiếp cho người. Trái lại, nếu chúng ta làm hại ai, mà vi phạm Thiên Luật, thì luật Nhơn Quả cũng trừng phạt chúng ta bằng biến cố và đau khổ.

Nhưng danh từ trừng phạt ở đây không đúng lắm, dù rằng đau khổ xảy ra dưới hình thức một hình phạt.

Là vì, nó gợi ở trí ta một Đấng Thiêng Liêng nắm quyền thưởng phạt và khiến chúng ta nghĩ đến Đấng Jéhovah [5] trừng phạt con cháu Ngài. Thật ra, Luật Trời nhơn từ, không bao giờ trừng phạt, mà chỉ thản nhiên điều chỉnh một sự quân bình đã mất, bằng cách đem lại cho kẻ bất cẩn một bài học hữu ích và công bằng. Cũng như quý bạn đâu thể gọi là “trừng phạt” khi một đứa trẻ bị phỏng tay vì thọc tay ấy vào lửa. Đa số hành vi chúng ta đều giống như vậy.

Khi chúng ta làm quấy vì vô minh thì đau khổ xảy ra liền theo đó. Đó không phải là sự trừng phạt, mà chính là một bài học nhằm khuyên dạy chúng ta tránh mọi lỗi lầm. Nhờ các bài học bổ ích và nghiêm khắc ấy, nhờ các kinh nghiệm đau khổ ấy mà lần lần chúng ta thoát khỏi lưới vô minh.

Luật Tiến Hóa là luật Điều Hòa. Khi mà sự quân bình đã mất do một tội lỗi, thì sự quân bình ấy chỉ có thể tái lập bằng cách người phạm lỗi phải chịu đau khổ, y như khi một nhánh cây bị một trẻ em trì xuống, nhánh ấy vượt khỏi tay em, bật lên, và đập ngay vào mặt em. Luật Nhơn Quả chỉ có thế, thật là thực tế, thật là khoa học !

Có lẽ bạn nói: “Nếu vô tình làm quấy mà phải chịu tội thì thật là bất công !” Nhưng làm thế nào tránh được tội bởi đó là hậu quả của nguyên nhân và không nhân nào không tạo quả cả. Khi ta đặt tay vào lửa thì làm sao ta khỏi phỏng tay?

Tuy nhiên, trên bàn cân nhân quả, động cơ và ý muốn nặng hơn hành động bội phần. Hành động chỉ thu hẹp ở cõi trần, cõi vật chất; còn động cơ và ý muốn thì gây âm hưởng trong các cõi vô hình. Nơi đây, tác động của chúng tác động mạnh mẽ hơn ở cõi trần rất nhiều. Khi một hành động tốt đẹp và hữu ích, mà động cơ lại ích kỷ thì hành động ấy chỉ có thể tạo một hạnh phúc cạn hẹp. Ví dụ: một người xây một bịnh viện với mục đích được ân thưởng huy chương hay được người đời ca tụng, hành động ấy tạo cho anh những hạnh phúc ở cõi trần trong một kiếp sau; những động cơ ích kỷ sẽ đem lại anh những đau khổ tinh thần.

Như thế, động cơ càng thanh cao thì nghiệp quả càng tốt đẹp.

Khi con người tiến hóa cao, nghiệp quả trở nên phức tạp, vì trong một thời gian ngắn, ta có thể có những hành động vừa cao thượng vừa thấp hèn, tạo những quả vừa tốt vừa xấu. Vì vậy, các Đấng Thiêng Liêng đảm trách luật Nhân Quả có một phận sự rất khó khăn vì các nhân không thể cùng sanh quả trong một kiếp. Các Ngài phải chọn lọc nghiệp xấu tốt, và phân chia cho con người trả trong nhiều kiếp. Nhân nào không thể sanh quả ngay được thì phải chờ đợi cơ hội thuận tiện ở một kiếp sau. Chính các nghiệp quả nầy dệt nên mệnh số của chúng ta. Chính nó tạo ra ta, đặt ta ở xứ nào, trong một hoàn cảnh nào và gây những biến cố vui buồn trong đời ta. Chúng ta đừng ngạc nhiên tại sao hạnh phúc của chúng ta hiếm hoi và ngắn ngủi, tại sao tai họa xảy đến cho chúng ta quá thường ! Đối với chúng ta trình độ tiến hóa còn thấp, chúng ta há không làm quấy nhiều hơn hành thiện hay sao ? Nhứt là tư tưởng: động cơ thúc đẩy chúng ta hành động còn ô trược !

Tuy nhiên, khi kiến thức chúng ta mở rộng, chúng ta sẽ làm chủ được vận mệnh chúng ta phần nào. Người dốt nát nô lệ cho dục vọng và ham muốn, và như thế là nô lệ của số mạng mình. Trái lại, nếu chúng ta biết Luật Trời, chúng ta có thể tạo nghiệp quả tốt bằng hành động và tư tưởng thanh khiết, từ bi [6]. Chúng ta không tránh các nghiệp quả đã tạo ở các kiếp trước – vì thiếu nợ thì phải trả - nhưng, chúng ta có thể “vô hiệu hóa” nghiệp quả hiện tiền. Tôi xin đơn cử một ví dụ: trong kiếp nầy, ta đã gây đau khổ cho ai, thì có thể ngay bây giờ, chúng ta cố tìm cách để giúp đỡ người đó. Đó là một cách trả nợ. Các vị tu cao, biết được tiền kiếp của mình, nên có thể dùng cách đó để chuộc những lỗi lầm xưa.

Đến đây, bạn có thể hỏi tôi: “loại nhân nào sẽ tạo ra quả nào ?” Về vấn đề nầy, người ta không thể đặt một qui tắc tổng quát. Đừng tưởng rằng kiếp nầy, trong một cuộc đi săn, bạn lỡ bắn một người nào đó gãy chân; thì trong một kiếp sau, người nầy sẽ bắn bạn gãy chân lại. Đành rằng, khi bạn bất cẩn gây thiệt hại cho người, thì bạn sẽ trả quả, nhưng bạn có thể trả một cách khác hơn là bị một phát súng bắn cũng gãy chân y như thế. Nhân và quả có thể khác nhau về bản chất, nhưng bằng nhau về động lực.

Tuy nhiên, nhân và quả thường thường đồng bản chất, nếu cơ hội được thuận tiện. Chẳng hạn như, một án mạng: có thể sẽ gây một cái chết dữ dội; một cuộc đời trụy lạc: có thể gây một đời sống tật nguyền. Nếu sự trụy lạc đi đến mức độ đê hèn quá, nó sẽ tạo ra sự đần độn. Đại để, sự thỏa mãn vô độ các ham muốn xấu xa, sẽ tạo nên đủ thứ thiếu thốn. Người ta thường nói: sự hung ác gây điên cuồng; lười biếng thì si mê trì độn; ngạo mạn thì phải chịu nhục nhã; người ích kỷ sẽ không có bạn và thiếu tình thương. Những ai đã bỏ qua cơ hội tiến hóa tâm linh sẽ không thể gặp những dịp tiến lên. Bà mẹ nào bỏ bê con cái cũng sẽ gặp lại nó, sẽ yêu mến nó, rồi nó sẽ chết sớm, để lại cho bà sự mến tiếc và đau khổ. Những trẻ bị hành hạ, có thể là những kẻ bạo tàn trong một tiền kiếp.

Đại khái, đó là một vài mẫu nhân và quả tương đồng đi kề nhau. Nhưng tôi xin lập lại là không nhứt định có một qui luật tổng quát, vì tác động của nhân quả vô cùng phức tạp, ngoài tầm hiểu biết của chúng ta.

Và để cho bạn đọc ý thức tính cách phức tạp ấy của luật Nhân Quả, tôi xin nói thêm rằng, luật nầy chẳng những chi phối đời sống cá nhân mà cả vận mạng thế giới nữa. Mỗi nước có một nghiệp quả mà dân trong nước cùng tạo ra. Chiến tranh, tai trời, dịch bịnh v. v. . . ., tàn sát cả muôn cả ngàn người, ấy là những nghiệp quả chung. Quyển Ánh Sáng Trên Đường Đạo dạy: “Con hãy nhớ tội lỗi và ô nhục thế giới là tội lỗi và ô nhục của con, vì con là một thành phần của thế giới. Nghiệp quả của con được kết liền vào nghiệp quả chung”.

VÀI BIỆN BÁC VỀ LUẬT NHÂN QUẢ

Bạn sẽ hỏi: “Các điều nói trên rất đẹp. Nhưng đâu là bằng chứng ? Chúng nó rất mới mẻ, khác hẵn những điều tôi biết và chúng làm tôi ngạc nhiên.”

Tôi nghĩ, khi bạn đến với tôi là bạn cần một vài an ủi. Nếu tôi trình bày các bằng chứng Thông Thiên Học, tôi phải để nhiều thì giờ và vượt xa vấn đề đau khổ mà không làm cho nó sáng tỏ thêm. Tuy nhiên nếu bạn thấy các ý kiến tôi vừa trình bày có một ít giá trị, hay có thể an ủi bạn, bạn nên đọc sách Thông Thiên Học để tìm các bằng chứng nói trên. Bạn hãy cố đi sâu vào giáo lý của chúng tôi, rồi sau khi nghiên cứu tinh tường, rất có thể, những chi bây giờ chỉ là giả thuyết sẽ trở thành một Chơn lý sống động.

NHỚ LẠI TIỀN KIẾP

Tuy nhiên, bạn có thể đưa ra một biện bác tự nhiên liên hệ đến vấn đề đau khổ, một lối bác bẻ mà tôi đã được nghe nhiều lần. Nó như thế nầy: “Bà nói rằng luật Nhân Quả rất công bình, nhưng phải chăng công bình, khi chúng ta đau khổ vì những nhân mà ta đã tạo ra ở kiếp trước, và bây giờ không còn nhớ được một mảy may gì.”

Đó quả là một bác bẻ rất tự nhiên, tôi xin lập lại như thế. Song le hẵn quý bạn không nghĩ đến điều nầy: “đối với đa số nhân loại, có một vài sự kiện mà con người không thể thực hiện trong cõi hữu hình, nghĩa là chúng ta không thể nhớ được các tiền kiếp”.

Tại sao ta không nhớ các kiếp trước của ta ? Là vì trong mỗi kiếp, chúng ta có một xác thân khác, một khối óc khác. Khối óc là một dụng cụ mà linh hồn chỉ dùng trong một kiếp người mà thôi. Vả lại, nếu bạn không thể nhớ tất cả kỷ niệm của thời thanh xuân hay thơ ấu, những kỷ niệm mà chính khối óc bạn đã ghi nhận, thì làm sao bạn có thể nhớ các việc xảy ra trong tiền kiếp ? Tuy nhiên, đôi khi có những bộ óc tinh vi có thể ghi nhận được các rung động vi tế của Chơn Nhơn. Trong trường hợp nầy, người ta có thể nhớ ít nhiều các tiền kiếp. Hơn nữa, khi con người xuất khỏi thể xác trong giấc ngủ, thì nhớ lại quá khứ; vì thể Vía (cảm thể hay thể tình cảm) ghi nhận dễ dàng các rung động nói trên. Trong thể Trí, tinh vi hơn nữa, các kỷ niệm nầy còn rõ ràng và chân xác bội phần. Riêng về con người tiến hóa cao đã thực hiện được sự liên lạc giữa khối óc vật chất (Phàm Ngã) và Chơn Nhơn, người ấy có thể nhờ Chơn Thân mà nhớ lại rõ ràng tất cả kiếp trước (vì thể nầy vốn trường tồn từ kiếp nầy sang kiếp khác).

Người ta thường sánh Chơn Nhơn với một xâu chuỗi ngọc trai mà mỗi hạt trai là một kiếp sống. Với sự so sánh nầy, bạn hiểu rằng, khi chúng ta đặt được chiếc cầu giữa tâm thức vật chất (Phàm Ngã) [7] và Tâm Thức siêu đẳng (Chơn Ngã), thì chúng ta nhớ lại trọn vẹn quá khứ.

Ta thấy rằng kiếp trước của ta thế nào thì bây giờ đời sống chúng ta thế ấy. Chúng ta hãy cổi bỏ những gì chúng ta đã hoạch đắc trong kiếp nầy và nhớ lại những khuynh hướng của chúng ta lúc nhỏ, những thói hư và nết tốt bẩm sinh, những sở đoản và sở trường, những điều mình ưa hay ghét, thì chúng ta biết được dễ dàng cá nhân của mình trong kiếp chót, kế đây.

Bây giờ chúng ta đề cập lại vấn đề công bằng đặt ra như vầy: “Có công bằng chăng, khi ta phải chịu đau khổ vì những lỗi lầm xảy ra trong các kiếp trước ?” Để trả lời câu hỏi nầy, tôi xin nhường lời lại cho một ngòi bút hùng biện và có uy tín hơn tôi.

Sự lãng quên có xóa mất những lỗi lầm hay tiêu hủy các hậu quả của các lỗi lầm ấy chăng ? Một kẻ sát nhân quên mất vụ án mạng gây ra bữa trước, có thay đổi được hành động hay hậu quả việc làm đã rồi của anh chăng ? Các kiếp lai sinh chỉ là hậu nhựt của những tiền kiếp. Và nếu nước từ bi của sông Léthé [8] đã xóa mờ quá khứ, những năng lực tích tụ ở linh hồn từ đời nầy sang đời nọ, vẫn tác động ở tương lai.

Trái lại, nếu người ta có thể nhớ các kiếp trước, thì sự bất công khắc khe sẽ hiện ra, vì chúng ta sẽ đau khổ triền miên trước một quá khứ dẫy đầy tội lỗi xấu xa, một quá khứ có thể đã hoen ố vì án mạng nữa.

Hơn nữa, nếu ta biết tại sao ta bị phạt, nghĩa là, nếu ta biết rõ lỗi nào của chúng ta đã làm, sẽ gây ra trừng phạt nào; và chừng nào hình phạt ấy sẽ xảy ra trong cuộc đời ta, thì phải chăng trừng phạt ấy sẽ quá nặng nề, so với tội lỗi của chúng ta. Chừng ấy, người người đều nguyền rủa vị nào lại bắt chúng ta nhớ các kiếp trước, để biến đời sống thành một nguồn khốn khổ không nguôi, một nỗi kinh hoàng không dứt và làm tê liệt mọi hoạt động, mọi sáng kiến của chúng ta, trong một giấc mộng quá khứ hãi hùng.

Con người tuy thường bất công hay hung ác cũng không muốn cho kẻ tử tội đau khổ, vì vậy, cho đến phút chót mới cho anh biết sự bác đơn ân xá của anh. Xem thế thì, Luật Trời chẳng là kém từ bi hơn luật đời chăng ?

Vô minh như chúng ta, thật sự là một sự táo bạo khi chúng ta phỉ báng những công trình vĩ đại của các Đấng Minh Triết. Nếu chúng ta hiểu biết chút ít, nếu chúng ta cảm thông ít nhiều với Cơ Trời mầu nhiệm, chúng ta sẽ thấy rằng ơn Trời không bỏ quên một mảnh nhỏ nào của vũ trụ, hay một sinh vật nào, mà không chăm nom như một Đấng Cha Lành. Và chúng ta cũng ý thức được rằng: “Nơi nào vì mù quáng, chúng ta thấy toàn sự rỗng không, sự bất toàn hay bất công, thì một tia sáng rực rỡ chỉ cho chúng ta thấy sự sống lan tràn khắp nơi và ban rải tình thương cho vạn vật thân yêu, từ hột nguyên tử còn ngủ say, đến Chơn Linh Hành Tinh chói lòa, mà Tâm Thức bao trùm toàn vũ trụ.

Thật ra, chính sau khi chết, một khi thoát ra khỏi các lớp vỏ hư ảo, linh hồn mới có thể soát lại một cách vô tư kiếp sống vừa qua và kiểm điểm tất cả hành động và hậu quả cùng với các lỗi lầm và sa ngã, với các động lực và nguyên nhân. Nhờ thế, linh hồn gia tăng kiến thức, khả năng và chiến đấu dễ dàng hơn với các chướng ngại đồng loại ở một kiếp sau. Như vậy, những chi nó học đều được lưu lại với nó. Những cái chi nó không biết thì bây giờ biết được, và xuyên qua “Tiếng Nói Của Lương Tâm”, tiếng nói nầy bảo cho Phàm Nhơn biết đâu là bổn phận. Sự minh triết nầy là ký ức toàn hảo, vì nó là tinh hoa của muôn ngàn kinh nghiệm trải qua. Trong những lúc cần phải quyết định khẩn cấp, con người nhờ nó chớ không sao ngồi ôn lại những sự việc liên hệ đã xảy ra trong quá khứ xa xăm, để tìm một lối xử sự tốt đẹp. Bài học đã được chiêm nghiệm và đồng hóa trong sự an lạc ở bên kia cửa tử. Do đó, linh hồn mới ứng đáp lanh lẹ, quả quyết và chắc chắn, như nó luôn luôn nghe tiếng gọi phân minh dường như ra lệnh cho nó: “Hãy làm điều nầy, hãy tránh điều nọ. . . .”

Dù sao trên đường tiến hóa, một ngày kia, những tư tưởng trong khối óc sẽ trở nên tinh vi, sau nhiều năm tinh luyện, và nhờ vậy mà con người nhớ được các kiếp trước. Nhưng, đến lúc nầy thì các ký ức ấy không còn nguy hiểm, vì linh hồn đã trả xong một phần lớn các nghiệp báo xấu, và cũng đủ dũng cảm để phù trì Phàm Nhơn, trước viễn ảnh đau khổ sắp xảy ra.

Trong Cơ Tiến Hóa thiêng liêng, mọi việc đều xảy ra đúng lúc, trong một phối hợp toàn mỹ, khiến người ta không sao không nhìn nhận sự toàn năng của Đấng Hóa Công.

SỰ CẦU NGUYỆN

Đây là một phác họa vội vàng và tất nhiên là bất toàn về Đại Luật Công Bằng cao cả và bất biến, do đó mà cuộc đời của chúng ta diễn ra thành một chuỗi nhân quả kế tiếp. Hẵn nhiên, một phác họa vội vàng, đôi khi không khỏi mang nhiều bất lợi, có thể tạo nên hoài nghi và ít nhiều dị luận. Chẳng hạn như vài biện bác vừa được giải đáp ở đoạn trước. Bạn có thể hỏi: “Cần chi phải cầu nguyện, khi đã tin vào Luật Nhân Quả. Tin tưởng “nhân nào, quả nấy”, tức là phủ nhận quyền năng của mọi sự cầu nguyện rồi.”

Nếu bạn cho rằng: “cầu nguyện là một nhu cầu tinh thần thì bạn nên cầu nguyện.” Lúc bấy giờ, sự cầu nguyện là một mãnh lực tinh thần đem lại bạn nhiều phấn khởi và sự an tịnh. Cầu nguyện là mở rộng tâm hồn đón nhận ảnh hưởng thiêng liêng. Khi nguyện cầu, bạn tắm hồn trong cảnh giới thanh cao.

Nhưng coi chừng, bạn cần nên hiểu kỹ danh từ “cầu nguyện”. Thường thì đa số người ta cầu nguyện để xin những lợi lộc vật chất; những ham muốn nhỏ nhen. Chẳng hạn: cầu an, cầu lợi, cầu danh, cầu phước, cầu lộc, cho thân nhân hoặc cho mình. Sự cầu xin ấy chỉ là những mong ước ích kỷ tầm thường, để củng cố cho hạnh phúc riêng tư và bám níu ảo ảnh. Đó là những ước vọng vô minh.

Đối với chúng tôi, người Thông Thiên Học thì cầu nguyện là: “cho ra”. Cầu xin là nguyện vọng nồng nàn dâng lên Thượng Đế, vị Thượng Đế ở trong ta và ở ngoài ta. Đó là sự hiến dâng mình cho Thiên Ý, sự chiêm ngưỡng một lý tưởng cao siêu, một cử chỉ phục tùng, một niềm tin tưởng và tri ơn nồng nàn hướng về Thiên Luật Cao Cả. Cầu nguyện còn là lời kêu gọi tha thiết được phù trợ về tinh thần, trong những ngày đen tối đầy thử thách.

Cầu nguyện như thế khác xa với sự cầu nguyện ích kỷ, thiếu hẵn tâm từ, để van xin lợi lộc vật chất. Ở thế gian hằng ngày bạn cũng đã từng thấy diễn ra mãi sự van xin lợi lộc của người đời, và người ta cũng được toại nguyện dễ dàng khi nhiệt thành mong muốn. Sự cầu xin lợi lộc vật chất không thể nào vượt lên các cõi cao. Nó phát từ cõi thấp (cõi trần) nên nó gây ảnh hưởng và đơm bông kết trái tại cõi ấy.

Đức Christ có nói: “Đức Cha trên Trời biết rõ nhu cầu của các Người, trước khi các Người cầu xin Ngài. . .” Vậy thì, chúng ta cần chi phải cầu xin ?

Nếu bạn chưa hiểu được Luật Trời, mù tịt về tương lai vận mệnh bạn, thì chắc gì những điều cầu xin của bạn không đi ngược lại với quyền lợi và sự phát triển tinh thần của bạn ?

Phàm Ngã vốn sợ đau khổ, thích một cuộc đời không phiền toái, ưa sống an nhàn và êm ấm; trong khi Chơn Ngã, với những kinh nghiệm chưa thật vững vàng, biết rằng: “Con người chỉ tiến nhanh và thành công nhứt trong đau khổ cùng nghịch cảnh, nhờ những trận chiến nội tâm quyết liệt . . .”

Nói thế tất có bạn thất chí, mất tin tưởng sẽ bảo: “Chúng tôi cũng không có quyền cầu xin Thượng Đế xóa cho chúng tôi một phiền lụy nữa sao ?”

Bạn ơi ! ở đây tôi không nói đến “quyền” đâu ! Bạn có thể nắm níu cái “quyền” đó tùy ý bạn. Nhưng có lẽ bạn không làm thế, nếu bạn hiểu tôi. Và bạn sẽ vui lòng cầu nguyện để được ban cho một năng lực tinh thần, hầu chịu đựng nổi bất cứ thử thách nào trên đời bạn. Vì bạn sẽ hiểu: Chính nhờ sự thử thách ấy mà bạn dứt khoát được món nợ đã vay. Đó là một cơ hội tiến bộ quý báu cho bạn.

Đối với người Thông Thiên Học, sự cầu nguyện tốt lành nhứt, thích hợp nhứt là: “Cầu xin cho Ý Chí mình được thực hiện”. [9]

Mãnh lực từ bi và thanh tịnh súc tích trong lời cầu nguyện trên. Có thể nói: Đó là bùa linh thiêng liêng, mà chỉ có ai đọc nó với tâm thành hay với niềm tin sâu xa mới cảm thông tuyệt đối !

Với bạn nào theo Giáo phái Calvin (Tân giáo phái thời xưa ở Genève vào thế kỷ 16), bạn còn có thể lập lại lời nầy: “Hỡi Thượng Đế, điều Ngài muốn . . . con xin tuân lãnh ý Ngài ! . . . khi Ngài muốn. . .” Vì trong những cảnh giới thanh cao, Thượng Đế, Luật và Con Người là Một. Luật Nhân Quả thật rõ là sự biểu lộ ý chí của Thượng Đế.

Có thể bạn còn thắc mắc: “Đã đành là thế, nhưng tôi không thể cầu nguyện cho tha nhân sao ?”

Dĩ nhiên, bạn có thể cầu nguyện cho kẻ khác. Bạn hãy cầu xin cho người đau khổ được che chở tinh thần để đủ sức chịu đựng nghịch cảnh, mà không chán nản. Vì trong lúc bạn cầu nguyện, bạn đã thành tâm thông cảm và gởi đến người đau khổ thiện cảm và tư tưởng thanh tịnh của bạn. Đó là ân lành và tâm từ của vì Thượng Đế trong bạn đã được ban ra và bao bọc, phù trì người đang chới với. Nhưng bạn chớ tin tưởng vào lời cầu nguyện thấp thỏi, dù là cầu nguyện cho anh chị em, cho huynh đệ của bạn cũng vậy.

Đa số người Thông Thiên Học không cầu nguyện. Nhưng nếu có thể, thì cứ hằng ngày, vào một giờ nhứt định, họ để một thời gian riêng vào việc tham thiền. Phương pháp nầy khó hơn, trừu tượng hơn là sự cầu nguyện . . ., vì nó là một kỷ luật tinh thần. Nhưng nó đem lại một kết quả tiến bộ rất rõ rệt, nhanh chóng và điều hòa. Trong khoảng một khắc hay nửa giờ đồng hồ trầm tư mặc tưởng, hành giả Thông Thiên Học tập định trí một cách kiên trì. Sự tập trung tư tưởng làm tăng trưởng nơi chúng ta những quyền năng trí tuệ tâm linh, tùy hành giả định trí vào một đồ vật cụ thể, một tư tưởng trừu tượng hay một đức tính nhứt định.

Tóm lại, nếu sự định trí hướng về Tinh Thần Thượng Đế, về Nguồn Gốc của mọi Sự Sống, mọi năng lực, mọi an lạc, là nó hướng vọng và khích động vì Thượng Đế nội tại.

VAI TRÒ CỦA TƯ TƯỞNG

Ở đoạn trước, chắc bạn ngạc nhiên mà nghe tôi nói rằng trên phương diện nhân quả, các tư tưởng và ý muốn của chúng ta còn tạo ra những nhân quan trọng hơn là hành động, và do đó nó cũng gây nhiều đau khổ hơn. Ở ngoài đời, lối cư xử của một người được xem là quan trọng hơn tư tưởng của anh. Người ta chỉ đòi hỏi anh hành động hợp lẽ, rồi thôi, còn nguyên nhân khiến anh hành động có vị tha hay không, tư tưởng của anh có thanh khiết hay không, cái đó không can hệ gì. Có nhiều trái cây vỏ ngoài rất tốt, nhưng bổ ra thì ruột hư thối nát. Biết bao người, mã ngoài cũng tốt đẹp như vậy, mà đời sống nội tâm họ xấu xa, dơ bẩn, vì bị đầu độc bởi những tư tưởng ích kỷ, bần tiện.

Trên phương diện nầy, Thông Thiên Học chủ trương một chiều hướng đạo đức khác hẳn, mà các bạn đã biết qua khi tôi trình bày vấn đề thiện ác. Thông Thiên Học xem sự “chủ trị tư tưởng” quan trọng hơn là “chủ trị hành động”. Nếu tư tưởng chúng ta trong sạch, thanh cao, nếu ý muốn và nguyên nhân chơn chánh, vị tha, tất nhiên hành động sẽ tốt đẹp và đời sống con người sẽ trở thành một trung tâm đạo đức cao đẹp. Trái lại, nếu lối cư xử của chúng ta đứng đắn, mà tư tưởng hư hoại thì chúng ta sẽ là một nguy cơ cho những người xung quanh, cho xã hội. Như vậy quý bạn thấy, khi chúng ta chỉ suy tư mà thôi thì chúng ta đã tạo cho chúng ta những trách nhiệm rồi.

Mỗi tư tưởng là một động lực linh hoạt trong không gian. Tôi không nói đến các tư tưởng mập mờ, không chủ đích, tiếp nối không ngừng trong trí não, mà tôi muốn nói đến các tư tưởng thật sự phân minh, rõ ràng và xác định. Các tư tưởng nầy có một đời sống và một hình dáng mà người có nhãn thông [10] có thể miêu tả. Khi nó được lập lại nhiều lần thì càng trở nên mạnh mẽ, và nơi nào hạp với chúng thì chúng được thu hút đến. Như vậy, một tư tưởng thương yêu hay hào hiệp sẽ củng cố các tư tưởng thương yêu hay hào hiệp khác. Trái lại, một tư tưởng oán ghét, hận thù, khi nhập vào trí óc của một kẻ yếu đuối, hèn hạ, thì có thể xúi giục anh gây ra án mạng.

Như vậy, tư tưởng của chúng ta là những viên đá nam châm lúc nào cũng thu hút về với nó những tư tưởng đồng loại. Giữa chúng ta, có một trao đổi không ngừng, tạo cho mỗi người một trách nhiệm nặng nề, vì nếu chúng ta có những tư tưởng bất chính dưới lớp vỏ đạo đức, chúng ta đầu độc bầu không khí tinh thần và tâm linh xung quanh, mà nhứt là con cháu trong nhà, vì trẻ con rất nhạy cảm. Chắc quý vị có gặp những đứa trẻ “già háp”, chúng không còn tính chất ngây thơ và hồn nhiên, mà rất khôn lanh, xảo quyệt. Nguyên nhân của tâm trạng bất hạnh nầy là những tư tưởng xấu xa của người xung quanh cảm nhiễm chúng từ giây từ phút.

Những tư tưởng cũng là một lực lượng hùng hậu, tốt đẹp mà chúng ta có thể sử dụng để nâng cao mức độ đạo đức của nhân loại hay phát triển những tình cảm mến yêu, từ ái, rất cần để băng bó những vết thương lòng. Chúng ta cũng có thể phát ra trong không trung những luồng sinh lực tâm linh để phấn khởi những linh hồn đau khổ. Chúng ta có thể tạo khắp nơi những động lực phúc đức, an lành. Đấy quả là một nguồn phúc lạc. Biết bao người ít phương tiện hoạt động ở cõi hữu hình, biết bao người đau ốm, bệnh tật, đui mù đều có thể trở thành ân nhân của nhân loại, nếu biết sức mạnh của tư tưởng ! “Dù bị giam nhốt trong ngục tù, chúng ta cũng có thể tự do hoạt động cho Thiên Cơ.”

SỰ CHẾT

Trong khi luận về luật Nhân Quả; chúng ta đã nói qua sự đau khổ và vài ba nguyên nhân của nó. Giờ đây, tôi xin trình bày cùng quý bạn một nguyên nhân thường xảy ra nhứt, và không ai tránh được: ấy là sự chết. Chúng ta đã mất bao nhiêu kẻ thân yêu và một ngày kia chúng ta cũng sẽ chết.

Đối với người Thông Thiên Học, “chết” không phải là một điều kinh khủng, nó cũng không chấm dứt đời sống con người. Nó chỉ là một sự thay đổi hoàn cảnh và trạng thái. Và với sự thay đổi nầy, chúng ta mang một lối sinh hoạt khác với lối sinh hoạt ở cõi trần. Khi bạn thấy một người Thông Thiên Học sợ chết, bạn hãy tự bảo rằng: người đó chưa phải là một người Thông Thiên Học. Người Thông Thiên Học thật sự luôn luôn thản nhiên và tin tưởng trước sự chết. Anh biết những gì đã xảy ra cho anh và xem sự chết không phải là một điều xa lạ hay đáng sợ. Anh biết các bạn thân sẽ đón tiếp anh nồng hậu ở bên kia cửa tử và sẽ chỉ dẫn anh trong cuộc đời mới mà anh sắp sống. Vì vậy anh không lo lắng. Nếu ở cõi trần anh có nhiều tật xấu, anh sẽ lưu lại lâu ở cõi Trung giới (ấy là cõi luyện tội của Cơ Đốc Giáo). Nhưng ở đây trong ít lâu, anh sẽ tự làm cho mình trở nên hữu ích, và sống một cuộc đời hoạt động và tận tụy: đó là một điều an ủi lớn cho anh. Dù sao, anh cũng biết, sau một thời gian, nhờ các cố gắng và nguyện vọng của anh, anh sẽ thoát khỏi cõi nầy để sang cõi Thượng giới, nơi đây, anh sẽ hưởng một sự an lạc tuyệt vời.

Bạn ơi ! Sự chết chỉ có thế ! Vậy tại sao lại ghê sợ nó ? Tại sao ta xem nó như một vực thẳm tối om đang chờ chúng ta, thay vì nhìn nó như một bước tiến vào cõi ánh sáng ? Những người thân mến của chúng ta không bao giờ chết, “mất”. Nếu ta xé được màn vật chất đang che mắt ta, nếu ta thoát khỏi cái thể xác vật chất nầy, chúng ta sẽ thấy họ vui vẻ, tươi cười. Họ sống như chúng ta đang sống. Họ thấy chúng ta và muốn an ủi chúng ta, nhưng chúng ta không thấy họ, không nghe họ, vì thể xác vật chất của chúng ta không thể nhận được các rung động tinh vi phát xuất từ họ. Vì vậy, chúng ta tưởng không bao giờ gặp họ lại, cơ hồ như không có sự sống trường tồn ở bên kia cửa tử. Họ rất buồn rầu mà thấy chúng ta khổ sở một cách vô lý như thế.

Các bạn có biết không, ban đêm chúng ta thường đến với họ và sống bên họ, khi vía ta xuất ra khỏi xác thân đang ngủ. Chúng ta rất sung sướng được gần gũi họ, nhưng khi ta thức, ta không nhớ chi cả, vì các rung động tinh vi của thể vía không thể chuyển sang khối óc xác thịt chưa được tinh nhạy của phần đông chúng ta.

Tuy nhiên, thỉnh thoảng một vài cảm giác còn lưu lại mơ hồ như những dấu vết của một giấc mơ: đó là những mảnh ký ức về sự sinh hoạt của chúng ta ở cõi Trung giới. Các cảm giác ấy tế nhị đến đỗi khi chúng ta muốn bám víu vào chúng thì chúng càng tan mau.

Hõi các bạn đang khóc những người thân yêu dấu, nếu bạn sống một cuộc đời thanh khiết, nếu các bạn trau giồi các quan năng tri thức và đạo đức, nếu các bạn phát triển được một vài linh năng tiềm tàng ở các bạn, các bạn có thể chuyền sang khối óc vật chất của các bạn, những điều được thấy ở cõi Trung giới lúc ban đêm. Vậy nhớ được hay không những việc xảy ra ở cõi Trung giới là tùy các bạn. Đó là vấn đề thời gian, ý chí và kiên nhẫn. Ấy là kết quả sự phát triển đời sống nội tâm, của những quyền năng tiềm tàng mà người thế tục ít ai lưu ý.

SỰ CẤU TẠO HUYỀN BÍ CON NGƯỜI

Tới đây để vấn đề được sáng tỏ, chúng tôi bắt buộc phải trình bày sự cấu tạo con người theo quan điểm Thông Thiên Học, và các cõi mà chúng ta sẽ sống với một tâm thức sáng tỏ, ngoài cõi hồng trần.

Con người không phải được cấu tạo một cách thô sơ với một thể xác và một linh hồn như các tôn giáo thường dạy. Sự cấu tạo con người phức tạp hơn. Theo giáo lý Thông Thiên Học, con người gồm tất cả bảy nguyên lý. Mỗi nguyên lý hoạt động trong một thể riêng, ở một cõi riêng đồng chất với thể liên hệ. Điều nầy khó hiểu nhưng suy kỹ thì rất hợp lý.

Phần đông chúng ta hiểu rằng chỉ có một nguyên lý đau khổ, thương mến, suy tư, mong ước v. v. . . . Và nguyên lý ấy là Linh Hồn. Chúng tôi nghĩ khác. Đành rằng, Linh Hồn mà chúng ta không sao diễn tả, gồm tất cả các quan năng đó, nhưng nó biểu hiện trong nhiều môi vật, trong nhiều thể khác nhau; một thể cho tình cảm, một thể cho tư tưởng cụ thể, một thể khác cho tình thương và hạnh hy sinh v. v. . .

Để dễ hiểu, chúng tôi xin nêu một ví dụ: sự biểu hiện của điện. Tùy bản chất các vật nhận nó, điện biểu hiện khi thì bằng ánh sáng, khi thì bằng động lực, khi thì bằng tác động hóa học v. v. . . .

Điện lúc nào cũng thế. Nhưng sự biểu hiện thì khác. Linh hồn cũng vậy, nó có tính cách duy nhứt. Nhưng biểu hiện thì, lúc bằng tình cảm, lúc bằng tư tưởng.

Các thể nói trên được gọi là bảy nguyên lý của con người. Bảy nguyên lý đó được chia làm hai phần: bốn nguyên lý dưới tạo thành Phàm Nhơn, ba nguyên lý cao tạo thành Chơn Nhơn. Bốn cái trước vô thường, tạm bợ; ba cái sau bất diệt, trường tồn.

Bây giờ, các bạn đã quen với thuyết luân hồi, bạn nên nhận rõ ràng, Phàm Nhơn chẳng qua là đại diện, hay nói đúng hơn là, dụng cụ của Chơn Nhơn ở cõi trần. Phàm Nhơn của chúng ta dù nam hay nữ, dù sang hay hèn, dù bình dân hay vương giả, nó chỉ nhắm một mục đích, một chức vụ, là: thu thập kinh nghiệm giúp Chơn Nhơn phát triển, vì các kinh nghiệm, sau mỗi lần chết, đều tích tụ ở Chơn Nhơn, từ kiếp nầy sang kiếp khác.

Quý bạn sẽ hỏi tôi: “Phàm Nhơn gồm những gì ?” Tôi xin đáp lại bằng một câu hỏi khác: “Những gì tạo ra đời sống của chúng ta ?” Đời sống của chúng ta được tạo bằng hành động, bằng tình cảm, bằng tư tưởng. Và hành động biểu lộ bằng thể xác, tình cảm bằng thể vía (thể tình cảm), tư tưởng bằng thể trí.

Thể vía và thể trí được gọi bằng danh từ chung là: “Vía Trí”. Vì trong sự tiến hóa của con người, trong một giai đoạn khá dài, tư tưởng kết liên với tình cảm. Hai thể nầy được tạo ra bằng những vật liệu tinh vi hơn chất dĩ thái. Ngoài hai thể trên, ta còn một thể nữa gọi là thể phách, tạo ra bằng chất dĩ thái, mà nhiệm vụ của nó là thu hút sinh lực của thái dương để nuôi thể xác xuyên qua hệ thần kinh. Nó còn làm trung gian giữa một bên, thể “Vía Trí”, và một bên, thể xác. Chính nó chuyền qua thể xác, cảm xúc của thể vía, và tư tưởng của thể trí. Vậy, chính do thể vía mà chúng ta đau khổ, sung sướng, và do thể trí mà chúng ta suy tư, lý luận.

Xác, vía và trí là dụng cụ của chúng ta ở cõi trần. Chính chúng nó tạo thành Phàm Nhơn, và đổi mới trong mỗi kiếp. Sự cấu tạo của chúng tùy luật Nhân Quả. Chúng nó thể hiện tất cả những quả mà chúng ta đã gieo. Dù chúng nó như thế nào: tốt hay xấu, tầm thường hay siêu việt, chúng ta phải thọ lãnh một cách vui vẻ. Điều quan trọng là chúng ta phải cố gắng tinh luyện chúng, đồng thời sử dụng chúng một cách khôn ngoan. Làm thế, chúng ta còn gieo cho tương lai nữa.

******

Nhưng không phải hết đâu. Chúng ta hãy quan sát chúng ta, hãy xem chúng ta sinh hoạt, rồi chúng ta sẽ thấy trong chúng ta có cái gì cao sêu, khả kính và trầm lặng. Trong những lúc tâm ta an tịnh, nó trồi lên để kêu gọi những gì đẹp đẽ nhứt ở lòng người. Sự hỗn loạn của lục dục, thất tình, che lấp tiếng huyền diệu ấy, những khi cảm xúc và tư tưởng lắng dịu, chúng ta có thể giao tiếp với tinh thần nội tại ấy, mà giáo lý Thông Thiên Học gọi là Chơn Thần.

Như quý bạn thấy, sự cấu tạo con người rất phức tạp, khác hẳn lý thuyết đơn giản được chấp nhận bấy lâu. Theo sự cấu tạo ấy, con người gồm:

Một Phàm Nhơn, hoạt động với nhiều cơ quan, mỗi cơ quan có một chức vụ riêng. Nó có tánh cách vô thường.

Một Chơn Nhơn, với những linh năng mộc mạc lúc đầu, nhưng về sau phát triển lần lần.

Một Chơn Thần cao cả, hướng dẫn sự tiến hóa của chúng ta. Ấy là Thượng Đế ở lòng ta. Đề cập đến Chơn Thần, Thánh Paul nói: “Tinh thần Thượng Đế ngự ở chúng ta”. Và Đấng Christ dạy: “Đây nầy tất cả các người đều là Thượng Đế”.

******

Qua sự giải thích đơn giản nầy, điều nên lưu ý là đừng lầm Chơn Ngã và Phàm Ngã. Đứng quan trọng hóa Phàm Ngã. Nó chẳng qua là dụng cụ của Chơn Ngã mà thôi. Đừng khi nào cho ta là Phàm Ngã đó. Đừng khi nào đồng hóa ta với xác thân, với tình cảm, với tư tưởng của chúng ta. Được như thế, Phàm Ngã sẽ ngoan ngoãn phục tùng và chúng ta sẽ tránh được nhiều chiến đấu đau khổ, không phí phạm sinh lực và sẽ được bình an.

Chơn Ngã luôn luôn bình thản và đứng ngoài các biến cố của cuộc đời, đó là điểm Linh Quang của Thượng Đế ở lòng ta.

Chúng ta phải đồng hóa với Chơn Ngã ấy, phải cố tiến đến sự hòa hợp với cái Ta thật ấy.

Khi nói với Đức Ki Tô, Thánh Baptiste bảo: “Ngài phải tăng trưởng, còn tôi phải tiêu mòn”. Đó là điều phải xảy ra ở lòng ta, nó sẽ đến với chúng ta, nếu chúng ta nhận định thế nào là Chơn Ngã bất diệt, thế nào là Phàm Ngã vô thường. Phàm Ngã phải tiêu mòn lần để nhường chỗ cho Chơn Ngã: Tâm Thức thiêng liêng, cho Thượng Đế ở lòng ta mãi mãi tăng trưởng. Đó là sự hòa hợp với Chơn Ngã. Đức Ki Tô phán: “Ta với Cha ta là một”. Sự hòa hợp thiêng liêng trác tuyệt ấy sẽ đến với chúng ta trong tương lai [11]. Trong lúc chờ đợi; “Đời sống chơn thật của con người là sự an nghỉ trong sự hòa hợp với Chơn Ngã tối thượng [12]”. “Đừng sống trong hiện tại, đừng sống trong tương lai, mà hãy sống trong vĩnh cửu [13]”.

CÕI TRUNG GIỚI

Linh hồn tác động trong năm cõi tùy theo thể của nó. Trong năm cõi đó, chúng ta gác qua cõi trần mà ai ai cũng biết, và hai cõi trên vì chúng vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta.

Tôi đã nói qua cõi Trung giới, đó là cõi của cảm xúc, một cõi có sắc tướng như cõi hồng trần, những vật chất cõi ấy tinh vi quá nên chúng ta không thấy và khoa học cũng không quan sát được. Những rung động của cõi ấy biểu hiện bằng tình cảm và dục vọng nên người ta gọi nó là Dục giới. Vật chất của cõi nầy lẫn lộn với vật chất cõi trần, cũng như vật chất các cõi trên nữa lẫn lộn với nó. Vật chất các cõi thanh trược khác nhau, nhưng lẫn lộn nhau cùng một chỗ.

Sau khi từ trần, con người sang qua cõi Trung giới. Cõi nầy rất giống cõi trần, vì nó cũng là cõi sắc giới, và các vật thể của cõi trần đều có ở đây. Cũng như cõi hồng trần có nhiều chất: đặc, lỏng, hơi, dĩ thái; cõi Trung giời cũng có nhiều chất thanh trược khác nhau. Cõi nầy được chia làm nhiều cảnh phân minh, từ cảnh đông đặc, trọng trược nhất đến cảnh tinh vi nhất.

Trong thời gian sống ở cõi trần, thể vía của chúng ta được tạo ra bằng cảm xúc. Nếu cảm xúc ấy trọng trược, thể vía chỉ gồm những chất trọng trược của cõi Trung giới, do đó, sau khi chết, nó bị giữ lại lâu trong cảnh thấp nhất của cõi nầy. Cảnh nầy đen tối, bẩn thỉu nên được sánh với địa ngục, nhưng nó không giam giữ linh hồn đời đời. . . Ở cảnh nầy, các linh hồn xấu xa, đê tiện rất khổ sở, vì các dục vọng của họ bị nung đốt và các thèm khát của họ không thể thỏa mãn được (vì xác thể là phương tiện của dục vọng không còn). Cảnh nầy tương tựa cảnh trần, nên họ thường sang qua cõi trần, tiếp tục lân la các nơi bẩn thỉu như lúc sanh tiền, và còn chuyền cho những người ở đây những tư tưởng tà vạy, tội lỗi. Họ là “ác quỷ” mà Kinh Thánh và Kinh Phật thường nói, nhưng họ không ở mãi trong tình trạng đó, mà nhờ quyền lực nhiệm mầu của cơ Tiến Hóa, dục vọng của họ lần lần tiêu mòn, chất ô trược lần lần bị đào thải, và họ sẽ vươn lên các cảnh cao.

May thay, những người thân yêu của chúng ta sau khi từ trần không đến các nơi buồn thảm đó. Sau khi rời bỏ xác thân, họ bất tỉnh trong một thời gian vài ngày hay vài giờ, rồi thức tỉnh trong một cảnh của Dục giới, tương ứng với thể chất cấu thành dục thể (thể vía) của họ. Ở đây họ ý thức rõ ràng mọi việc, nếu ở trần gian họ đã phát triển quan năng suy tư. Qua sự trung gian của thể vía, họ tiếp xúc được với cõi Trung giới, nơi đây sự vật cũng hiển nhiên, thấy được, rờ được, giống y như ở cõi trần. Họ cũng cảm xúc, cũng suy tư, và quan năng suy tư của họ còn linh hoạt hơn, vì họ không còn bắt buộc suy tư bằng khối óc vật chất (óc của xác thịt). So sánh đời sống bây giờ với đời sống trần gian, họ thấy rõ đời sống trần gian. Họ nhận thấy rõ đời sống ấy quả là một “ảo ảnh”.

Như vậy, các người thân mến của chúng ta được bình an và hạnh phúc trong lúc tạm lưu ở cõi Dục giới, nếu ở cõi trần họ có một đời sống thanh cao. Ở đó họ có thể đảm nhận những công việc trí thức hay nghệ thuật mà họ thích. Điều kiện sinh hoạt của họ tùy thuộc cảnh mà họ lưu trú. Trong trường hợp họ ở các cảnh cao, họ có thể tưởng là họ ở cõi Thiên Đường.

THẦN LINH HỌC

Tôi tưởng cần nói ít lời về sự tai hại có thể xảy ra cho các bạn ta ở cõi Trung giới. Tai hại đó là sự buồn thảm của ta và sự cầu hồn.

Bánh xe Tiến Hóa lúc nào cũng quay và khi con người từ trần, nhờ tác động của nó, thể vía vứt bỏ lần lần các chất trọng trược, trở nên tinh khiết và vươn lên các cảnh cao. Sự tiến hóa ấy được thuận đà và thúc nhanh hơn là nhờ các nguyện vọng cao đẹp của linh hồn. Nhưng nếu các người thân yêu ở cõi trần khóc lóc, thở than, linh hồn sẽ đau khổ và bị lôi kéo trở lại cõi trần. Như vậy, vong linh không siêu thăng được, và mất rất nhiều thì giờ, cho đến khi nào họ giác ngộ và hướng mắt lên các cõi trên.

Việc cầu hồn còn tai hại hơn. Tôi không cố ý công kích đường lối và phương pháp của các bạn Thần Linh Học. Các bạn ấy là những nhà khảo cứu tận tụy và chơn thành. Trong hiện tại họ là những nhà tiền phong trong việc thám hiểm cõi vô hình. Nhiều bạn chúng ta đã đi ngang qua giới thần linh trước khi bước vào Thông Thiên Học.

Thần Linh Học và Thông Thiên Học đều chống lại thuyết duy vật, nhưng đôi bên dùng những phương tiện khác nhau. Các nhà Thần Linh Học áp dụng phương pháp thực nghiệm, họ tìm cách liên lạc với cõi vô hình bằng cách gọi các vong linh trở lại cõi trần với những phương tiện vật chất. Trái lại, các nhà Thông Thiên Học cố thoát ra khỏi thể xác, họ tập xuất vía, để tự mình quan sát các cõi vô hình và tiếp xúc trực tiếp với các vong linh. Phương pháp nầy đòi hỏi một đời sống thanh khiết và nhiều cố gắng liên tục.

Sự so sánh sau đây của một bạn tôi, giúp chúng ta hiểu rõ hai phương pháp ấy. Một hôm, bạn có nói với tôi: “tôi có cảm giác các bạn Thần Linh Học cắt cánh các vị Thiên thần để họ sa xuống cõi trần, còn các nhà Thông Thiên Học thì cố gắng làm cho cánh mình mọc ra để bay lên gần các Đấng ấy”.

Về các hiện tượng Thần Linh Học, các nhà Thông Thiên Học tin rằng có, nhưng về nguyên nhân các hiện tượng ấy, họ luôn luôn không đồng ý với các bạn Thần Linh Học, vì trong thiên nhiên có rất nhiều năng lực huyền bí mà con người chưa hiểu được. Trong trường hợp có sự liên lạc thực sự với người chết, thì một vài tai hại có thể xảy ra. Trước hết, vong linh không thể siêu thăng sớm. Hơn nữa, trong trường hợp bất đắc kỳ tử, sự liên lạc ấy đánh thức một cách đột ngột vong linh đang mê, làm cho vong linh đau khổ nhiều, vì cảnh giới xung quanh mình rất âm u, bẩn thỉu. Nếu vong linh ấy còn đam mê các thú vui vật chất, nỗi đau khổ sẽ gia tăng vì vong linh không thể thỏa mãn các thú vui ấy trong cõi Trung giới. Do đó, vong linh tìm cách ám ảnh đồng tử để hưởng một ít dục lạc trần gian.

Đôi khi, có những vong linh cần liên lạc với người sống để căn dặn một vài điều khẩn cấp. Trong trường hợp nầy, chúng ta nên thỏa mãn ý nguyện của họ để giúp họ nhẹ nhàng siêu thăng. Nếu vong linh tìm cách liên lạc với chúng ta, chúng ta không nên cản trở, nhưng chúng ta đừng gọi họ về, vì làm thế, ta không giúp họ, mà còn gây hại. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ và giao phó họ cho các Đấng Cứu Trợ Vô Hình, đó là phương cách hay hơn hết.

NHỮNG ĐẤNG CỨU TRỢ VÔ HÌNH

Có lẽ các bạn sẽ hỏi tôi: “Các Đấng Cứu Trợ Vô Hình là ai ?” [14]

Đây, chúng tôi lại đề cập đến một trong những đặc ân to lớn của Thông Thiên Học. Đối với người Thông Thiên Học, sự hiểu biết cõi vô hình lúc đầu có tính cách lý thuyết, nhưng về sau trở nên thực tế, vì họ tiếp xúc với cõi ấy một cách ý thức. Những Đấng Cứu Trợ Vô Hình là các Huynh Trưởng của chúng tôi tu đã đến mức khá cao, và được đặc ân giúp đỡ nhân loại bên kia cửa tử. Các Ngài phụng sự nhân loại ngày và đêm, vì đối với các Ngài, thời gian yên ngủ không phải là thời gian bỏ đi. Trái lại, khi xác thân ngủ, thì vía các Ngài xuất ra, qua cõi Trung giới để an ủi vong linh mới từ trần và hướng dẫn họ tiến lên ánh sáng. Biết bao vong linh đau khổ, đáng thương trên cõi mới lạ, vì thành kiến, vì sợ hãi, nhất là sợ Địa Ngục. Các Đấng Cứu Trợ Vô Hình trấn an họ, và giảng giải cho họ biết cách thức siêu thoát lên các cõi trên.

Các Đấng ấy giúp đỡ (tùy nghiệp lực của nhân quả) những người còn sống ở cõi trần, trong những thiên tai hay hoạn nạn khác nhau. Sự giúp đỡ của các Ngài hiện ra như phép lạ. Biết bao nhiêu người được vững tâm, an tịnh trong những cảnh cùng bách khó khăn, nhờ các Ngài.

Tuy nhiên, con số các vị Cứu Trợ Vô Hình còn rất ít, và mỗi hội viên Thông Thiên Học có bổn phận tinh luyện mình như thế nào để có thể đảm đương những công việc tốt đẹp đó, tức là gia tăng đội Thiên Sứ phù trợ vô hình ấy.

Trước khi có thể tự mình xuất vía như các Ngài, chúng ta có thể đảm nhận một phần công việc nói trên. Khi chúng ta muốn giúp đỡ người nào, trước khi ngủ, chúng ta hãy cầu nguyện và quyết tâm đến giúp người đó. Nhờ vậy, trong khi ta ngủ, vía ta sẽ đến với người ấy để giúp an ủi, dắt dìu. Đến lúc thức, đành rằng là ta không nhớ gì, nhưng nhớ hay quên, việc ấy không quan trọng, quan trọng là sự giúp đỡ của chúng ta, và sự giúp đỡ ấy có thực. Quả thật, nhiều linh hồn đau khổ, dù còn tại thế hay đã qua đời, được trấn an và phấn khởi bởi những lời khích lệ của chúng ta. Nhớ được các việc chúng ta làm ở cõi Trung giới là một điều khó, và, đối với chúng ta mới tu tập, quên đi là điều tốt hơn. Đôi khi, khi thức giấc chúng ta còn giữ một ấn tượng trong giấc ngủ, tuy yếu nhưng rất chắc, và như thế, cũng đủ khuyến khích chúng ta trong thời kỳ sơ tu.

Tôi có thể giải thích với các bạn các thứ chiêm bao và các ký ức về công việc đã làm ở bên kia cửa tử, nhưng làm thế, tôi sẽ vượt khỏi khuôn khổ quyển sách nầy.

ĐỪNG BUỒN RẦU

Các bạn thân yêu ơi ! một lần nữa, tôi xin bạn đừng buồn rầu. Sự buồn rầu ấy không những vô ích mà còn có hại, vì nó cản trở sự tiến hóa của vong linh. Đừng gọi họ trở xuống với bạn, trái lại, bạn hãy vươn lên để gặp họ. Sự thương yêu của bạn phải là một sức mạnh giúp họ tiến chớ đừng là một khối đá bắt họ dừng chân. Làm sao cho sự cầu nguyện của quý bạn giống như một hạt sương mát mẻ đối với họ. Làm sao tư tưởng quý bạn thắm đượm tình thương, niềm tin và hy vọng, để tạo cho họ một bầu không khí an tịnh và tươi sáng !

Quý bạn hãy sống một cuộc đời cao thượng, thanh khiết. Đó là một cách hữu hiệu nhất để tỏ lòng mến yêu họ. Là vì đời sống của bạn càng thanh cao, vị tha và quảng đại, bạn càng hoạt động hữu hiệu ở cõi vô hình. Các bạn đừng buồn rầu, đừng tuyệt vọng, đừng nghĩ rằng người thân của bạn không còn ở cõi trần là đời bạn đã hết ! Bạn hãy sống bằng an như họ còn ở bên cạnh bạn, và bạn hãy nhiệt thành, tận tụy trong công việc hằng ngày của bạn.

TÌNH XƯA NGHĨA CŨ Phải, bạn hãy sống thanh cao, sống bằng an, rồi bạn sẽ tìm lại các người thân mến, không phải ở bên kia cửa tử mà thôi, mà còn trong các kiếp vị lai nữa. Bạn sẽ cùng sống với họ, cũng như bạn đã sống với họ.

Bạn đừng nghĩ rằng, những dây ràng buộc thân thiết, những cảm tình sâu đậm kết hợp bạn với họ chỉ phát sinh trong kiếp nầy thôi. Nó đã có từ thuở xa xưa, vô cùng xa xưa. Theo thuyết Luân Hồi, nếu bạn yêu mến họ tha thiết, là vì bạn đã yêu mến họ ở một kiếp nào. Do lẽ đó, ta mới giải thích nổi những mối thiện cảm tự nhiên cũng như những tình thương đột ngột giữa những người vừa mới quen biết mà đã khắn khít với nhau ngay. Thường thường người ta cho đó là những “tiếng sét tình”, nhưng thật là những dây nhân quả tái nối, những thâm tình đã được kết tạo từ các tiền kiếp.

Trên đường đời, trong kiếp nầy, vì hậu quả của một mối tình tốt đẹp hay tội lỗi xa xưa, mà luật Nhân Quả đã đặt chúng ta đối diện với những tâm hồn liên hệ, khi thì cùng chung sống gắn bó vô cùng mật thiết với nhau trong hạnh phúc êm ấm đủ đầy, khi thì khổ tâm chịu đựng nhau, sống cạnh nhau, lạnh lùng như người xa lạ, hoặc cam chịu cảnh ly cách não lòng suốt kiếp. Cạnh chúng ta, cũng có những người mà chúng ta khó làm thân, cũng không thể bộc lộ nỗi lòng, dù cuộc sống bắt buộc ta phải tiếp xúc hằng năm dài với họ. Ấy là những người mà ta mới gặp lần đầu, trong những kiếp luân hồi.

Giữa vợ chồng, cha con, anh em, đôi khi ta thấy có những sự bất hòa, giá lạnh, mà người đời thường đổ cho bởi “tình khí xung khắc” mà ra. Nhưng thật ra sự xung khắc ấy, không chi khác hơn là “nghiệp quả” của một cái nhân nghiệt ngã gây ra trong một kiếp qua, và bây giờ, các linh hồn cứ gặp lại trong hiện tại, không phải để yêu thương, mà để thanh thỏa các mối bất hòa cố cựu chưa dứt khoát.

Và nếu trong cuộc đời hiện tại, bằng những cố gắng, những nhượng bộ lẫn nhau, họ không làm cho các đóa hoa Khoan Dung, Từ Ái và Hy Sinh hé nở được trên bờ hố thẳm ly cách họ, thì luật Nhân Quả tức là luật Công Bình sẽ đặt họ lại, diện đối diện, trong một kiếp cận kề. . . Vì từ ngàn xưa, Đức Phật đã dạy ta: “Chỉ có tình thương mới dập tắt hận thù”.

CÕI THIÊN ĐÀNG

Cõi Thiên Đàng ! Làm sao tôi có thể tả được cái mức độ hạnh phúc của linh hồn (sau cái chết lần thứ hai) khi nó từ bỏ thể vía, rời cõi Trung giới để siêu thăng lên cõi Thiên Đàng ! Linh hồn bừng tỉnh giữa một vùng ánh sáng vinh quang, đệm trong một khúc nhã nhạc êm ái tuyệt với. Linh hồn chỉ tiếc một điều, là không có những người mến yêu ở đó để cùng hưởng lạc phúc. Rồi bỗng nhiên, những người thân mến ấy hiện ra, vui vẻ kề cận. Bây giờ linh hồn ấy không còn thiếu gì nữa cả: những lạc thú tao nhã trí thức, nghệ thuật, tâm linh dần dần đến với anh, tùy anh là nhà bác học, nghệ sĩ hay nhà tu. Lạc thú ấy dồi dào, đầy đủ, linh hồn có thể hưởng được bao nhiêu thì có bấy nhiêu.

Ở Thiên Đàng, linh hồn sẽ hưởng thành quả của những hành vi vị tha, của những tư tưởng cao đẹp, của những nguyện vọng tâm linh, của các cố gắng trí thức về nghệ thuật mà anh đã có ở cõi trần. Thành quả ấy dồi dào, phong phú vô cùng. Lẽ dĩ nhiên là ai đã gieo nhiều thì hưởng nhiều, và đời sống hạnh phúc ấy có thể kéo dài từ thế kỷ nầy sang thế kỷ nọ.

Ai ai cũng có thể lên cõi Thiên Đàng, cho đến linh hồn non dại, vô minh, hung ác, miễn là ở cõi trần, họ có một vài tư tưởng cao thượng, một ít hành động nhân từ, nhưng, mùa gặt của họ nghèo nàn, ngắn ngủi. Tuy nhiên, hạnh phúc ấy sẽ lưu lại linh hồn những ấn tượng tốt đẹp để giúp nó hướng thượng kiếp sau.

Những bạn có óc thực tế và nhiệt thành muốn gấp rút hoàn thành cuộc tiến hóa có thể nghĩ rằng: linh hồn phí nhiều thời giờ ở trên cõi Thiên Đàng. Không đâu. Thiên Đàng có thể sánh với một phòng thí nghiệm rộng lớn, nơi đó, các kinh nghiệm thanh cao đẹp đẽ được chuyển thành thiên tư, các cố gắng biến thành năng khiếu, các nguyện vọng trở nên ý chí. Nhờ sự biến chuyển đó, khi trở lại cõi trần, con người trở nên phong phú hơn với nhiều ý chí, năng khiếu và thiên tư. Như thế, thời gian ở Thiên Đàng rất cần thiết cho sự tiến hóa của linh hồn.

******

Trong các bạn, có người sẽ than rằng: Thế thì, chúng ta phải luôn luôn lo nghĩ đến sự tái sinh tại cõi trần. Các tôn giáo của chúng tôi cũng hứa với chúng tôi một đời sống hạnh phúc trên Thiên Đàng. Nhưng đời sống ấy chẳng phải hạn định trong một số ít hay nhiều thế kỷ mà thôi đâu, mà còn được kéo dài trong vô cùng, vĩnh cửu.

Bạn ơi ! bạn hãy tự hỏi: Làm sao một nguyên nhân hữu hạn có thể sanh ra một kết quả vô hạn được ? Như vậy là mâu thuẫn, tức là nghịch lại với tất cả luật thiên nhiên rồi !

Không đâu, không bao giờ có một hạnh phúc đời đời để ban thưởng một việc lành hữu hạn [15], cũng như không có sự đau khổ dằng dặc nơi địa ngục để trừng phạt một việc ác. Chỉ có một sự gặt hái hạnh phúc tròn đầy, cân xứng với công phu đã cho ra mà thôi.

Nếu tin rằng sự trừng phạt phải đời đời, kiếp kiếp, dằng dặc chịu khổ đau nơi địa ngục, thì quả đó là một sự ngờ vực to lớn, quái gở về lòng Từ Ái của Đấng Sanh Hóa vạn vật vậy !

Và nếu bạn cứ khăng khăng cho rằng khoảng thời gian hạnh phúc trên Thiên Đàng kéo dài nhiều thế kỷ kia, hãy còn quá ngắn, thì tôi xin nói thêm như vầy: Trên thế gian nầy, nếu bạn đã từng trải qua những ngày hạnh phúc tràn đầy trong tình thương chân chính hay tình cảm thanh cao, bạn có thể nào lường được hạnh phúc ấy bằng thời gian chăng ? Bạn há chẳng cảm thấy rằng: một giây phút hạnh phúc trên, bao trùm cả hàng vạn kỷ, rằng, thời giờ và những ngày vui sướng qua nhanh chóng trong khoảnh khắc đó sao ?

Ấy thế, khoảng thời gian dài để hưởng hạnh phúc trên Thiên Đàng trôi qua vừa nhanh chóng vừa bất tận !

Thiên Đàng gồm nhiều cảnh, trong ấy linh hồn tuần tự tiến lên. Nhưng, các chi tiết nầy không quan hệ đối với vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu đây, và như vậy chúng ta cũng sẽ không nói đến sự tan rã của thể trí sau khi linh hồn sinh hoạt một thời gian trên cõi Thượng giới, và sự trở lại cõi trần của linh hồn trong một kiếp lai sinh.

******

Tôi biết trong các bạn, có nhiều người cũng ước mong đề cập đến điều bí ẩn khó hiểu sau đây. Nó bao trùm đời sống của chúng ta, khiến cho các bạn không thể hiểu được tại sao trong khi các bạn đang sống trong một “hình thể Phàm Nhơn” tại cõi trần, lại có thể, đồng thời, sống trong “một hình thể tư tưởng”, tại Thiên Đàng, giữa những người thân yêu của bạn.

Làm sao một việc như thế lại có thể có được ? Làm sao cho tôi đây, người đang nói chuyện với các bạn, tôi có thể sống đầy ý thức tại cõi trần, mà không hay biết rằng, có một bạn thân khác của “chính tôi”, cũng đang cùng một lúc, có mặt tại cõi Thượng giới, bên cạnh một bạn hữu nầy hay một bạn hữu nọ ?

Đó là điều mà tôi sẽ cố gắng giải bày để các bạn nhận thức được.

Luận giải quá sơ lược về cõi Trung giới và Thượng giới, hay nói cách khác là, nơi cõi Luyện tội (Trung giới) và Thiên Đàng, tôi không tiện nói thêm cho các bạn biết rằng ở hai nơi đó “tư tưởng có quyền năng tạo thành hình thể”. Tại đó, có sẵn những khối chất khí đặc biệt tinh vi và dễ dàng uốn nắn, người ta gọi chúng là “tinh hoa tố”. Loại tinh hoa nầy luôn luôn sống động, đó là Chơn Thần bắt đầu “nhập thế”, nếu các bạn còn nhớ điểm nầy [16]. Và tinh hoa tố đó là vật liệu dùng để kiến trúc đủ thứ “hình thể tư tưởng”. Mỗi khi một tư tưởng lay chuyển, thì, một mớ tinh hoa tố tự cấu hợp thành hình thể một cách nhanh như chớp. Hình thể nầy được tồn tại trong một thời gian dài hay ngắn tùy theo sức mạnh và sự bền dai nhiều hay ít của tư tưởng.

Vậy mà, khi một vong linh tại cõi Thiên Đàng gởi một tư tưởng mến thương sâu đậm, yêu dấu nồng nàn đến một người mà nó quý mến đang sống tại cõi trần, thì vong linh ấy tạo được một hình ảnh đúng đắn của người bạn ấy, dù đó là một hình ảnh được “lý tưởng hóa” [17].

Đó là điểm thứ nhất cần ghi nhớ.

Và, sau đây là điểm thứ nhì. Như tôi đã nói: Con Người Thiêng Liêng (Chơn Ngã) gồm có một phần trí tuệ đơn thuần (Thượng Trí) và một phần tinh thần thanh cao hơn nữa (Bồ Đề Tâm). Chơn Nhơn thường trú ngụ tại từng trên của Thượng giới (Thượng Thiên) [18].

Tôi cũng có cho các bạn biết thêm rằng từ Thượng Thiên, Chơn Nhơn không thể trực tiếp ảnh hưởng đến Phàm Nhơn của Nó luân hồi nối tiếp, làm đại diện cho Nó tại cõi trần. Nhưng Nó phóng ra một tia của chính bản thể Nó, để linh hoạt Phàm Nhơn. Cái tia sáng ấy tạo thành Hạ Trí của Phàm Nhơn [19].

Giờ đây các bạn hãy ghi nhớ điều nầy: Các bạn hãy tưởng tượng nhìn thấy vị Chơn Nhơn cư ngụ tại cõi Thượng Thiên, trong hình dáng của một ngôi mặt trời nhỏ bé, đang tung rải những tia sáng của nó ra mỗi đường hướng. Một trong những tia ấy luồn vào Phàm Nhơn, khiến cho Phàm Nhơn linh hoạt được tại cõi trần.

Về mặt khác, khi một vong linh từ cõi Hạ Thiên gởi một tư tưởng thương yêu đến một bạn thân của nó, là một Phàm Nhơn đang sống tại cõi trần, thì tư tưởng ấy tạo ra một “hình tư tưởng”, giống hệt Phàm Nhơn của người bạn thân ấy. Đồng thời, tư tưởng thương yêu lại tự di chuyển đến cõi Thượng Thiên để kích động vị Chơn Nhơn đã sản xuất ra Phàm Nhơn nọ. (Phàm Nhơn của người bạn dưới trần). Vị Chơn Nhơn bèn phóng ra một tia khác vào “hình tư tưởng”, khiến cho nó trở nên sống động và lâu tan.

Bây giờ các bạn đã hiểu cái hình tư tưởng vừa nói đó được thêm linh hoạt xiết bao, vì lẽ nó tiếp nhận được sinh lực do cái tia xuất phát từ chính bản thể của Chơn Nhơn.

Và chính vì vậy mà các bạn có thể tồn tại một cách hữu ý thức, chẳng những tại cõi trần mà còn luôn tại Thiên Đàng nữa. Hình ảnh của bạn là một con người khác của “chính bạn” đó. Nó cũng là một ảo ảnh, y như Phàm Ngã của bạn, không hơn không kém, dù cho Phàm Ngã ấy tin chắc rằng, chỉ có nó là quan trọng hơn hết[20].

HẠNH PHÚC CÓ PHẢI LÀ ẢO GIÁC

Tôi đã nói với bạn rằng: ảo ảnh luôn luôn tùy thuộc vận cụ mà trong đó tâm thức đang luân chuyển [21].

Khi tâm thức lưu chuyển trong thể xác thì nó cho đời sống tại Trung giới là ảo ảnh. Khi nó tụ trong thể vía, thì nó thương xót đời sống ảo ảnh trần gian. Nếu tâm thức hoạt động tại cõi Thượng giới, nó nhận thức ra tính cách hư ảo của đời sống ở trần gian và Trung giới. Và nó hữu lý, khi nó cảm nhận như thế, vì nó gần sự Thực hơn tâm thức hồng trần hai bực.

Khi tâm thức càng tiến cao được bao nhiêu, thì chúng ta càng được gần sự Thực bấy nhiêu.

Với những ai trong quý bạn cứ khư khư xem hạnh phúc trên cõi trên là ảo giác, tôi xin nói rằng: “Nếu không có cái gọi là ảo giác đó thì Thiên Đàng chẳng là Thiên Đàng đâu”. Thiên Đàng phải phô bày lý tưởng của một niềm an lạc chí phúc, dồi dào nhất, hoàn toàn nhất. Như những phần trước tôi đã giải thích với quý bạn: “Cõi Thiên Đàng hay Thượng Thiên làm bằng chất khí tuyệt thanh bai, cực tinh vi. Sự rung động nơi ấy thật là nhẹ nhàng, không thể tưởng được với sự hiểu biết của giác quan thuộc khối óc hồng trần. Dĩ nhiên là, nơi ấy tuyệt đối những tư tưởng xấu xa, ô trược không thể tiến lên được. Và như thế, Thiên Đàng hẳn phải là thế giới của những bà mẹ hiền, những bà vợ tốt, tức là của những con người tinh thần, có những tư tưởng thanh cao sáng chói tình thương cao quý. Đời sống trên cõi Thượng giới (Thiên Đàng) vô cùng linh hoạt hơn đời sống tại cõi Trung giới và hồng trần. Và chất khí trên đó lại dễ nắn hơn ở các cõi dưới thấp. Nơi ấy, khi có một tí sự sống rung động (một tư tưởng khởi động) là có sự thành hình ngay tức khắc. Và mỗi tư tưởng tốt đẹp, vị tha hiện lên là có ngay một hình tư tưởng sống mạnh mẽ và linh động. Do đó, mà những con người cao thượng khi ở thế gian đã từng sống một cuộc đời vong kỷ, vị tha, thì khi thác về cõi Thiên Đàng, vẫn được an vui trong niềm hạnh phúc của lý tưởng vị tha tốt đẹp ấy. Họ vẫn được bao vây bởi những hình ảnh của những người mà mình hằng thân mến khi còn tại thế.

Bạn sẽ bảo rằng: “Trên cõi cao ấy, người ta (người quá vãng) có thể thấy và theo dõi các người thân yêu dưới trần thế, và như vậy, người ta có thể chăm nom họ như lúc còn sanh tiền !”

Không phải thế đâu ! Giữa cõi Thiên Đàng và hồng trần, đại để không có sự liên lạc thật sự được, vì chất khí tạo ra hai cõi ấy một thanh, một trược rất khác biệt nhau. Sự rung động thanh trược khác nhau của hai cõi cũng không thể cùng ứng đối với nhau được. Nhơn đó, nếu những tư tưởng hắc ám, sa đọa (của một đàn con côi mất mẹ) hay những tư tưởng chán nản, buồn rầu (của một ông chồng chết vợ đau khổ vì đàn con mình bị bà vợ kế ác nghiệt hành hạ) lên được tận cõi thanh cao, tức cõi Thiên Đàng, thì lúc ấy, các bà mẹ, bà vợ hiền thục trên ấy sẽ phải đau khổ biết ngần nào ! Và nếu sự kiện trên có thực, thì Thiên Đàng, cõi phúc tuyệt vời như tôi đã đề cập qua, theo quan niệm của Thông Thiên Học hẳn chẳng phải là cõi phúc nữa!

Bạn cũng cần nên biết điều nầy, lời nói của thế gian không có năng lực diễn tả chính xác, rõ ràng sự dị biệt giữa hai cách sinh hoạt của tâm thức thế gian và Thượng giới (Thiên Đàng). Vì thế mà tôi không thể nói một cách rõ ràng những gì “thuần lý”, thuộc “cõi vô sắc tướng” (Thiên Đàng), bằng ngôn ngữ chật hẹp của cõi trần, một “cõi sắc tướng” và rất giới hạn.

Tuy nhiên, bạn nên tin chắc rằng, Luật Trời (Nhân Quả, Luân Hồi tức Luật Tiến Hóa, Luật Hy Sinh) luôn luôn tác động hết sức tốt lành, và với lòng tin cậy chân thành, bạn cứ an lòng cậy nhờ Thiên Luật, vào Đấng Thượng Đế Bác ái, chí công, Đấng Thượng Đế mà thật sự là Cha Sinh của muôn loài vạn vật, của trọn cả bầu vũ trụ, bạn cố gắng sống thuận ý Ngài, bạn cố nhẫn nại và trọn vẹn sống theo gương Ngài thì bạn hẳn hiểu được điều mà bạn hằng muốn biết, điều mà hôm nay bạn chưa rõ. . .

HAI CON ĐƯỜNG

Hỡi các anh, các chị, nếu các bạn chăm chỉ theo dõi tôi, thì đến đây các bạn hiểu ít nhiều quan niệm của người Thông Thiên Học về sự đau khổ. Tôi đã cố gắng chứng minh rằng đau khổ luôn luôn là những kết quả của những “nhân” mà chúng ta đã tạo, và như thế, chính chúng ta tự mình tạo số mệnh của mình. Tôi đã cố gắng chứng minh rằng đau khổ có sự lợi ích và mục đích của nó, rằng nó rất cần cho sự tiến hóa và cuối cùng, khi con người tiến đến quả vị tiên thánh, thì đương nhiên nó không còn nữa.

Trước khi chúng ta từ giã nhau, nếu quý bạn đã bớt sợ đau khổ, nếu quý bạn đã quen với nó ít nhiều, tôi sẽ trình bày nó dưới một sắc thái khác, một sắc thái vinh quang mà các bạn sẽ rất kính mến. Trong chốc lát, chúng ta sẽ bước vào “con đường đau khồ” [22] mà tôi sẽ phác họa các giai đoạn. Bên con đường đau khổ ấy (cũng là con đường vinh quang) có một con đường khác hẹp hơn, ít dốc hơn, mà người ta gọi là “con đường thử thách”.

Đau khổ ! Thử thách ! Những danh từ có thể làm chúng ta chồn chơn, lùi bước. Vậy theo bạn, ai là người bằng lòng bước chơn trên những con đường đó ? Ấy là những người dũng cảm, tận tụy, họ mong mỏi được hợp tác vào công nghiệp cứu thế vĩ đại, tuy họ biết sức lực họ còn kém cỏi. Họ nguyện tiến mau trên con đường đạo, tiến trong năm mười kiếp thay vì cả ngàn kiếp như đa số nhân loại. Họ tiến mau như thế để có thể hợp tác với Thiên Cơ một cách hữu hiệu, để có thể hiến mình trọn vẹn và giúp vào sự tiến hóa chung cho đến khi nào con người cuối cùng được giải thoát. Đó là những Đấng Cứu Thế: Đức Krishna, Đức Phật, là những vị cứu thế ở Đông phương, Đức Ky Tô, là vị cứu thế ở Tây phương. Đức Ky Tô đạt ngôi vị vinh diệu ấy không phải do cái chết của Ngài ở Thập tự giá, mà bởi trọn Kiếp Sống sau cùng, bởi các Kiếp Sống khác của Ngài đều hiến dâng cho nhân loại.

ĐỨC KY TÔ

Đem đối chiếu bậc vĩ nhân siêu việt như Đức Ky Tô với các đấng siêu linh khác như Đức Krishna, Đức Phật Thích Ca, mà có lẽ, theo ý quý bạn, các Ngài không có ngôi thứ trên Thiên Đình, như thế, tôi đã làm phật ý quý bạn, hay ít ra cũng làm quý bạn ngạc nhiên. . . ? Thật ra các Ngài cũng là sứ giả của Thượng Đế, con cái của Đức Cha trên Trời, huynh đệ của Đức Ky Tô [23]. Các Ngài sáng lập ra các tôn giáo lớn đã soi sáng và đưa đến Thượng Đế hằng triệu sinh linh. Các Ngài đã đem đến cho nhân loại Đông phương “đạo pháp thích hợp với họ”, cũng như Đức Ky Tô đã cho chúng ta, người Tây phương, những giáo lý mà chúng ta rất cần”.

Đức Ky Tô, vị Chơn sư phi phàm ấy chỉ đến với chúng ta từ 19 thế kỷ nay. Làm sao ta có thể nghĩ rằng Thượng Đế có thể bỏ rơi trong hắc ám và tội lỗi nhân loại lúc bấy giờ, vì, trước Ngài, đã từng có nhân loại trên địa cầu rồi ? Nghĩ như thế có phải chăng là hoài nghi sự Minh Tríết, Tình Thương và sự Công Bằng của Ngài ?

Đức Ky Tô cũng tiến hóa như chúng ta. Như chúng ta, có lúc Ngài cũng vô minh và yếu đuối, chiến đấu và đau khổ, và, chỉ sau một cuộc hành trình diệu vợi xuyên qua nhiều kiếp người, Ngài mới trở nên Đấng Vinh Quang mà chúng ta tôn thờ, Đấng sáng lập Thiên Chúa Giáo mà cho đến ngày nay, Ngài còn phải chăm nom. Ngài có bị hạ thấp, bị lăng nhục chăng, khi chúng ta cho rằng Ngài không phải là Đấng Cứu Thế duy nhất ? Sự Chí thiện, lòng Từ bi của Ngài có mất đi phần nào không, nếu ta nghĩ rằng có những Đấng Cao Cả khác đã mở rộng vòng tay như Ngài để cứu vớt nhân loại ?

TÔN GIÁO ĐẠI ĐỒNG

Thật là buồn mà nói rằng, trong các tôn giáo, hồ như chẳng có tôn giáo nào cho mình cao siêu hơn tất cả và khinh rẻ tôn giáo khác bằng Thiên Chúa Giáo của chúng ta. Chúng ta mãi nghĩ rằng Thiên Chúa Giáo mới được Thượng Đế hộ trì, chấp nhận, rằng, chỉ có một mình nó truyền dạy Chơn Lý, và chỉ có nó mới cứu rỗi nhân loại. Vì hiểu như thế, chúng ta không chịu học hỏi các tôn giáo bạn như Phật Giáo, Ấn Độ Giáo v. v. . . Với một thiên kiến chấp nhất ấy, lẽ dĩ nhiên là đa số tín đồ Thiên Chúa Giáo, không chịu học hỏi các tôn giáo lớn thời xưa, để đối chiếu với tôn giáo của mình, tôi muốn nói đến Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, những tôn giáo của Cổ Ai Cập, Hi Lạp v. v. . . chỉ riêng chấp nhận Do Thái Giáo, và quen thuộc với tôn giáo ấy mà thôi.

Sự thật thì, Thiên Chúa Giáo chỉ là một mặt của hột kim cương Chơn Lý, một nhánh trong nhiều nhánh của Tôn Giáo Gốc, Tôn Giáo Đại Đồng.

******

Tại sao có sự khinh rẻ ấy ? Các tín đồ Thiên Chúa Giáo há không thể tiếp tục phụng sự và thờ phượng Đức Ky Tô, sau khi nhập vào Tôn Giáo Đại Đồng ? Các tín đồ Cơ Đốc Giáo La Mã hay Hi Lạp, Tin Lành hay Tân Giáo, há không nói mình là người của Thiên Chúa Giáo đó sao ? Người Thông Thiên Học chúng tôi cũng thế, trước hết chúng tôi là tín đồ của Tôn Giáo Đại Đồng (mà Thông Thiên Học cố chấn hưng), sau đó, chúng tôi mới là Phật tử hay tín đồ Thiên Chúa Giáo, Ấn Độ Giáo v. v. . . tùy theo tôn giáo mà chúng tôi riêng thờ phượng. Đa số chúng tôi, vừa giữ tôn giáo của chúng tôi, vừa tuân thủ giáo lý Thông Thiên Học. Một huynh trưởng của chúng tôi nói: “Đối với chúng tôi, người Thông Thiên Học, chúng tôi cho rằng, mọi tôn giáo đều chơn chánh, không có tà giáo, vì tà giáo là gì chứ ? Ấy chẳng qua là một lối riêng nhìn thấy Chơn lý của mỗi người. Và, dĩ nhiên là, cách nhìn đặc biệt riêng rẻ đó không thể nào giống nhau ! Đối với chúng tôi, quả thật có danh từ “Tôn Giáo” (viết hoa), theo ý nghĩa nguyên thỉ, duy nhất và tuyệt đối của nó, chứ không có tiếng “tôn giáo” (viết thường) với cái ý nghĩa cạn hẹp, riêng rẻ thường tình. Vì lẽ đó mà chúng tôi không bao giờ khuyên ai bỏ tôn giáo nầy theo tôn giáo nọ. Trái lại chúng tôi nói: “Nếu bạn là tín đồ Thiên Chúa Giáo, bạn hãy cố gắng là tín đồ Thiên Chúa Giáo duy linh và nhà Huyền bí học, tức là bạn hãy đi sâu vào tôn giáo của bạn để tìm nguyên lý, căn do, chứ đừng chịu đứng một chỗ bên mặt ngoài”. Đối với tín đồ tôn giáo khác, chúng tôi cũng nói như thế. Chúng tôi làm việc cho Phật Giáo với các Phật tử, cho Ấn Giáo với các tín đồ Ấn Giáo, cho Thiên Chúa Giáo với các con chiên Thiên Chúa v.v. . .

Theo chúng tôi các tôn giáo đều thiêng liêng, nên chúng tôi mong mỏi chúng phát triển nhiều hơn và trở nên cao đẹp hơn. Tóm lại là, làm sao cho các tôn giáo thừa nhận tình thương Thượng Đế và tình thương nhân loại để làm nền tảng chung[24].

Tư tưởng thanh kỳ nầy được diễn tả như sau trong quyển sách Thiên Chúa Giáo:

“Bạn hãy kính Giáo hội của bạn, hầu thấu triệt nó với bản sắc đại đồng của cái Tinh thần thuần khiết. . .

“Bạn hãy trung thành với biểu tượng bạn tôn thờ, nhưng lòng kính mến và lối thực hành của bạn phải thấm nhuần tính cách đại đồng và Tinh thần thuần khiết. . .

“Bạn hãy thương yêu Thượng Đế và nhân loại một các chân thành, rồi bạn sẽ thấy không thể loại bỏ một tôn giáo hay một sự cúng kiến nào cả, vì chính dưới những nghi thức khác nhau mà mọi người tôn thờ một đấng duy nhất Thượng Đế. Và tình thương thuần khiết bạch ấy sẽ biến cải các lối thờ phượng thành một sự tôn thờ chung và duy nhất, các tôn giáo riêng biệt thành một Tôn Giáo Đại Đồng . . .

“Hãy tôn thờ Tinh thần và Chân lý ở Thượng Đế rồi các sự chia rẽ tôn giáo tan biến trong tình thương. Bạn sẽ thấy các tôn giáo là những lối biểu lộ của một Tinh thần và và một Chân lý duy nhất. Bạn sẽ an nghỉ trong một linh điện hòa đồng, nơi đó, ai ai cũng sẽ chiêm ngưỡng Đức Thượng Đế duy nhất mà Đức Ky Tô là vị Giáo chủ. Một tông đồ há chẳng nói: “Thượng Đế là Tình thương và ai sống trong Tình thương là sống trong Thượng Đế và Thượng Đế ngự ở trong lòng người” [25].

Tôi xin trở lại ý nầy. Tại sao lại chỉ nhìn vào một tia sáng thay vì ngước mắt nhìn lên Nguồn Sáng phát sinh ra tia ấy, Nguồn Sáng đó là Chân lý và là căn bản chung cho các tôn giáo ?

Một chân trời hiện ra sẽ huy hoàng xiết bao, nếu chúng ta tiến đến tận nguồn của Sự Sống; nếu chúng ta nhìn nhận tất cả tôn giáo lớn là những ngọn đuốc phát sinh từ một Ngọn Lửa thiêng và được chăm nom bởi một Đấng Chí Tôn duy nhất; nếu chúng ta ý thức rằng các Giáo chủ là những sứ giả, những người con của một Đấng Cha Lành phái đến trong các thế kỷ khác nhau để giáo hóa và phổ độ chúng sinh.

CUỘC HÀNH HƯƠNG ĐAU KHỔ VÀ CON ĐƯỜNG THỬ THÁCH

Tôi đã đi xa đề, xin quý bạn tha lỗi cho. Thật ra, đó cũng là điều rất cần để giúp chúng ta dứt khoát hẳn với mọi ý nghĩ không rõ ràng. Bây giờ chúng ta hãy trở lại cuộc hành hương đau khổ của chúng ta.

******

Quãng đầu của cuộc hành hương nầy là con đường thử thách dẫy đầy khó khăn nhưng vô cùng vinh diệu. Khi thí sinh bước chân vào, anh đã biết rõ những gì đang chờ đợi anh. Anh biết người ta sẽ đòi hỏi anh một sự cố gắng nhẫn nại liên tục trong các lãnh vực trí thức, đạo đức và tâm linh. Và trên các phương diện nầy, anh cảm thấy mình tầm thường, bé mọn và nghèo nàn.

Anh phải cố gắng nhiều để kiểm soát và tập trung tư tưởng, đồng thời chủ trị cái trí của anh. Đó là một điều không phải dễ. Cách đây 5000 năm, Arjuna nói với Krishna: “Hỡi Krishna, trí con lao chao, ồ ạt, chủ trị nó khó như chủ trị gió vậy.” (Bhavagad Gita)

Thí sinh còn phải chủ trị dục vọng và chiến thắng phàm nhơn. Anh phải trau luyện tánh tình, tập tận tụy, quên mình và cố hành thiện vì lòng yêu mến điều lành, chớ không phải để người thán phục và cũng không phải để được tiến hóa cao hơn người.

“Con hãy tăng trưởng như đóa hoa tăng trưởng, vô tình nhưng nồng nàn khao khát để mở lòng hoa ra không khí. Cũng bằng cách ấy, con nên thúc giục tâm hồn con khai mở trước đời sống vĩnh cửu. Nhưng con đừng ham tăng trưởng, mà hãy quý mến sự trường tồn, có thế, con tự mình phát triển tất cả nét quang huy của tấm lòng khiết bạch, thay vì tự con làm cho con chai đi bởi lòng say mê tư ngã.” (Ánh Sáng Trên Đường Đạo)

Chừng đó, anh sẽ gặp nhiều trở ngại vì một linh hồn nguyện hiến dâng mình cho nhân loại thì các nỗi khó khăn, thử thách sẽ xảy ra liên tiếp. Đó là bước đầu của con đường đau khổ. Anh cam chịu vì anh biết Ơn Trên đang dồn quả cho anh, để anh trả mau trong vài kiếp. Nhờ thế, gánh nặng sẽ vơi, và anh sẽ nhẹ tiến trên đường Đạo. Có thể, đôi khi anh thất bại, vấp ngã trước cám dỗ, có thể anh gặp những phút giây đen tối, nhưng anh quyết tiến nhờ sự gia hộ của các Đấng Cao Cả mà anh thành tâm phụng sự một khi linh hồn đã thoáng thấy ánh sáng thiêng liêng, nó không sao quên được. Khi nó đã ý thức được mục đích huy hoàng của nó, nó phấn khởi như có đôi cánh thần và sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh, dù là hy sinh tính mạng để phụng sự Thiên Cơ. Có lẽ đôi khi anh cũng bị vấp ngã vì cám dỗ quá mạnh, hay vì bản tánh yếu hèn, nhưng anh không quên mục đích của anh. Trong những giờ phút khó khăn, lý tưởng anh vẫn hiện ra huy hoàng trước mắt anh.

Sau đôi ba kiếp thử thách như thế, anh được xem như là xứng đáng để bước sang Con Đường Đau Khổ. Trên con đường nầy, anh gặp đủ thứ chướng ngại, nhưng lần lần sự Duy Nhất hiện ra ở lòng anh, khiến tâm anh trở nên sáng suốt và an lạc. Anh cảm thấy một hài nhi thiêng liêng [26] tượng hình ở lòng anh. Chừng đó anh sẽ tiếp xúc được với những Đấng mà bấy lâu anh tin tưởng và tôn thờ. Và, bàn tay trong bàn tay các Ngài, anh tiếp tục con đường vừa dốc vừa khó khăn. Anh sẽ gặp đủ thứ thử thách, đủ thứ đau khổ cứ mãi gia tăng, nhưng anh cứ đương đầu với những cơn bão tố dập dồn. Trên Con Đường Thử Thách, anh nguyện trả trong vài kiếp tất cả nợ nần, đồng thời anh cũng phát triển được nhiều hạnh kiểm và quyền năng. Bước đường của anh khó khăn, nhưng anh thấy lòng an tĩnh, phấn khởi nhờ bàn tay dìu dắt của Đức Thầy lúc nào cũng hiện diện bên anh. Như thế, một giai đoạn mới của Con Đường đã được vượt qua. Và đến một lúc nào đây, Con Đường trở nên tối tăm vô cùng ! Anh cảm thấy buồn bả, hết sức bơ vơ, cô lẻ. . . đến . . . bàn tay của Đức Thầy cũng mất hút. . . . ! Anh như bị bỏ rơi ! Nhưng anh cần tự mình rèn luyện những đức tánh cao quý và gội rửa lòng trần. Sự thật, Đức Thầy vẫn ở bên anh, và tập anh gánh chịu các tội lỗi và nhọc nhằn của nhân loại. Anh há không nguyện sẽ vác chiếc Thập tự giá nặng nề để trở thành một Đấng Cứu Thế đó sao ?

CÁC ĐẤNG CHƠN SƯ

Sau cùng, khi anh đến cuối con đường đau khổ, anh sẽ thấy một Thánh Điện mở cửa rộng để đón anh. Anh đã được giải thoát. Bão tố đã chấm dứt, anh không còn đau khổ nữa, vì anh đã đạt quả vị siêu phàm, mà Đấng Siêu Phàm thì không bao giờ đau khổ. Nhưng ở đây, anh chấp nhận một hy sinh cao cả hơn các loại hy sinh là: từ chối bước vào cõi an lạc đời đời, niềm chân phúc khôn tả của Bậc Giác Ngộ, đã hiệp nhất với Thượng Đế, để lưu lại cõi trần phụng sự thế nhân đau khổ.

“Người nào đã chiến thắng và nắm trong tay phần thưởng cuối cùng mà từ chối phần thưởng cao quý ấy vì lòng thương nhân loại, người ấy rèn được hạnh Từ Bỏ cao cả. Ấy là Đấng Cứu Thế (Tiếng Nói Vô Thinh).

Các bậc siêu nhân ấy, chúng tôi gọi là Chơn Sư. Hai vị trong các Ngài đã đứng ra thành lập Hội Thông Thiên Học.

BÌNH AN CHO NHỮNG TÂM HỒN ĐAU KHỔ

Và giờ đây, hỡi quý bạn, quý bạn nghĩ sao về các đau khổ của quý bạn ? Trước tương lai huy hoàng đang chờ đợi chúng ta, mục đích cao cả mà chúng ta chỉ có thể đạt được bằng sự từ bỏ và bền lòng, các bạn há không nghĩ chúng ta nên tập chịu đựng và chấp nhận các đau khổ đến với chúng ta ? Các bạn há không nghĩ rằng chúng ta nên xem đau khổ như một sự giúp đỡ một bạn thân, và hãy tiếp đón nó như thế, không sợ hãi, không phản kháng, không nản lòng ? Sao các bạn không nghĩ rằng: “Nếu các Đấng Cao Cả vì lòng thương nhân loại mà phải chịu đủ thứ gian lao, thì chúng ta há không nên cố gắng chịu đựng những phiền não mà chính chúng ta tự tạo ra, với tấm lòng nhẫn nại triệt để ?

******

Hỡi bạn, bạn đang sống một cuộc đời túng thiếu, cơ cực, vì trong một kiếp trước, có lẽ bạn đã quá ích kỷ, bạn có hiểu chăng: các đau khổ ấy phải được xem như là những phương tiện vừa giúp bạn trả quả, vừa giúp bạn mở mang ? Bạn có lao lực hằng ngày, bạn mới phát triển được nghị lực kiên trì, bền chí. Đó là những đức hạnh mà cuộc đời xa hoa dễ dãi không sao rèn luyện cho bạn. Và, nếu bạn chịu đựng bài học ấy một cách can đảm, bạn sẽ không học lại nó ở kiếp sau.

******

Còn anh, anh đã một một người bạn quý. Và chị, một bà mẹ đáng thương, mới vừa mất một đứa con thân yêu. Các bạn nên biết rằng, các người ấy, ở một tiền kiếp xa xôi, có thể đã sống bên các bạn, nhưng bị bỏ bê, hành hạ ! Ngày nay, luật Nhân Quả cướp mất họ đi, dùng họ như những phương tiện trả vay. Các bạn đừng khóc nữa ! Các bạn há không biết rằng các sợi dây yêu mến chân thành sẽ không bao giờ đoạn tuyệt. Chúng nó sẽ tiếp nối từ đời nầy qua đời khác sao ? Các bạn sẽ gặp lại những người yêu quý ấy sau khi chết và sẽ sống bên cạnh nhau mãi mãi. Bạn còn biết rằng, ban đêm bạn có thể gặp lại họ, nếu trước khi ngủ, bạn thành tâm nghĩ đến họ. Bạn cũng biết rằng, chỉ tùy ở bạn, ở sự cố gắng của bạn mà một ngày kia, bạn sẽ được liên lạc với họ một cách ý thức. Vì lòng thương họ, các bạn không nên đau khổ. Cầu xin cho đau khổ bạn được lắng dịu !

******

Hỡi anh, anh đang đau đớn nhiều trong chứng bệnh trầm kha. Anh nằm trên giường bệnh, dai dẳng từ tháng nầy sang năm nọ. Anh hãy xem đó là nghiệp lực của Nhân Quả, vì anh chỉ gặt bằng thể xác những gì anh đã gieo trong một kiếp sống ở hồng trần. Bây giờ, nếu anh vui vẻ chịu đựng, anh sẽ tạo những quả tốt cho anh. Nhưng dù sao, có một điều an ủi lớn là: anh còn có thể giúp ích. Đành rằng anh không đi đứng được, chớ anh còn có thể chuyển những tư tưởng cho người khác, và cũng thế, anh cũng có thể phụng sự nhân loại.

******

Nầy em gái đáng thương, em bị người yêu phản bội, em hãy tin rằng sự phản bội ấy giúp em trả một số nợ lớn. Em đã vay người ta một sự đau khổ, nay em có dịp trả, thì em hãy trả một cách can đảm, chớ đừng trách móc thở than. Từ đây, dứt khoát nợ nần, em giải thoát được cái ma ảnh của quá khứ ! Hãy xem người làm khổ em như một dụng cụ của số mệnh. Chỉ có thế thôi ! Đừng bao giờ oán ghét, mà phải tha thứ, yêu thương. Với tấm lòng ấy, em sẽ thấy nỗi đau khổ của em sẽ nhẹ nhàng khôn xiết !

Phần bạn, bạn bị người ta nói xấu, nói hành bạn. Nhưng biết đâu bạn đã không có lần cư xử như thế với người khác, nếu không trong kiếp nầy, trong một quá khứ gần đây, thì ít ra, cũng trong một tiền kiếp ? Biết đâu đó không là cái quả của một hạt nhân mà bạn đã gieo ? Vậy, bạn ơi ! bạn nên vui vẻ nhận thức luật công bình “gieo gặt” ấy để an lòng lãnh cái quả không đẹp kia và sửa đổi tâm hồn thay vì than thân trách phận.

******

Còn anh, anh muốn có một danh vọng lẫy lừng, nhưng lại bị giam hãm trong một cuộc đời chật hẹp, đó cũng là nghiệp quả nữa ! Anh sẽ thấy dễ dàng điều nầy, nếu anh chịu khó tìm hiểu tinh tường tánh tình và thị hiếu của anh. Anh nên tự an ủi đi ! Đó chẳng qua chỉ là những thất bại dành cho một kiếp thôi ! Anh thất vọng, nhưng anh đừng buồn, kiếp nầy anh thất bại, nhưng còn những kiếp sau. Một ngày xa xôi nào kia, anh sẽ hoạch đắc các điều anh mong muốn bây giờ, nhưng có lẽ chừng ấy anh sẽ không còn thiết tha với chúng nữa. Trong lúc chờ đợi, anh nên chấp nhận cuộc sống khiêm nhường và ẩn dật bây giờ như một phương tiện để làm nẩy nở nơi anh hương vị thâm trầm của đức diệu hiền, của lòng kiên nhẫn và khiêm từ.

******

Chị, chị đang sống trong cảnh quạnh hiu, đơn độc. Thay vì âu sầu, chị nên hồi tưởng cái quá khứ xa xưa với bao nhiêu người quây quần thương mến chị, vui vẻ bên chị, nhưng chị lại khinh rẻ họ. Vì chị, bao nhiêu quả tim đã rướm máu, bây giờ đến lượt quả tim đơn côi của chị lại khát khao tình luyến ái. Chị hỡi ! hãy can đảm chịu đựng gánh nặng của chị, đồng thời nên nghĩ đến gia đình nhân loại đang cần chị. Biết bao đau khổ cần được tát vơi, biết bao nỗi lòng cần được an ủi ! Ở gác cùng, ngõ tối, trong bệnh viện, nơi ngục tù, biết bao người ngước mắt mong mỏi một ít tình thương. Chị hãy nghĩ đến họ, hãy thương mến họ, tìm đến với họ, rồi hoa tình thương sẽ nở ở lòng chị, ngào ngạt mùi hương trong cuộc sống hiện tiền và vươn mãi về xa . . .

******

Anh, anh đang buồn phiền vì không thực hiện được các nguyện vọng tâm linh cao đẹp. Anh tự thấy mình ươn hèn với các dục vọng thấp kém. Tại sao thế ? Là vì ở các kiếp qua, chắc chắn anh đã sống những quãng đời thác loạn, ích kỷ. Chúng tạo cho anh những thể nặng trược (thân, tâm, trí) chỉ biết rung động với những thị dục đê hèn. Nhưng anh đừng buồn và đừng cho anh là những hạ thể ấy. Anh chớ quên anh là Chơn Ngã. Đừng đồng hóa với chúng, mà anh hãy chiến đấu với chúng. Mỗi cố gắng dù nhỏ nhen của anh là một bước tiến đến tình trạng tinh thần và đạo đức mà anh mong muốn. Anh có thể vấp ngã, nhưng anh hãy đứng lên và cương quyết cho đến mục đích cao đẹp, đến Chơn Ngã. Linh hồn siêu việt ấy chính là Con Người Thật của anh đó !

******

Chị, chị đang bồn chồn, khắc khoải với tôn giáo của chị. Chị hoài nghi và không còn sức cầu nguyện được. . . ! Chị tìm chân lý khắp nơi, và chị thất vọng liên tiếp. Chị cảm thấy khao khát một Chân lý cao đẹp. Chị nên biết rằng ở các tiền kiếp, chị đã có một lần thấy được ánh sáng của ngọn đuốc thiêng ấy. Nó lưu ở lòng chị một hương vị khôn phai, dù trong tâm thức hồng trần chị chưa từng biết nó. Cũng có thể ngọn đuốc thiêng ấy được đưa đến chị, nhưng chị không buồn lưu ý hoặc chị đã khinh miệt nó, cho nên bây giờ, chị phải cực nhọc tìm kiếm nhiều. Nhưng chị đừng chán nản. Chị hãy tiếp tục gõ cửa, rồi cửa sẽ mở. Nếu chị sưu tầm các tôn giáo, các triết lý mới và cũ mà không thấy lòng thỏa mãn, chị hãy đến với chúng tôi. Thông Thiên Học là sự kết hợp, là căn bản các tôn giáo, nó giải thích một cách rõ ràng nguồn gốc, số mệnh và mục đích của con người, mà chắc chắn chị sẽ tìm được niềm tin và sự an tĩnh ở tâm hồn.

******

Anh, anh đang đau khổ nhiều trước cái nỗi khổ đau của nhân loại. Biết bao nhiêu buồn phiền mà anh không thể an ủi, biết bao nhiêu thương khó mà anh không thể hàn gắn, biết bao khổ đau mà anh không tát cạn ! Nhưng bây giờ anh nên biết rằng: không có điều chi bất công, rằng tai ương và đau khổ rất cần cho sự tiến hóa của linh hồn, rằng các kinh nghiệm chua cay và đau khổ có hiệu năng rèn luyện con người. Anh biết: bánh xe Thiên Luật chuyển động không ngừng để đem lại cho mọi người cái quả thật của hành động tốt hay xấu của mình. Anh biết rằng: điều dữ vốn tạm thời và chỉ điều lành mới trường cửu, và nó sẽ chiến thắng không sai chạy, rằng: đó là luật Tiến Hóa, nó sẽ đưa con người đến sự Giải Thoát và An Lạc. Anh cũng trải qua lò đau khổ, ưu phiền ấy, nhờ vậy mà anh thành một người suy tư và đạo đức như hiện nay. Vậy, anh không nên lo âu trước các đau khổ dập dồn đến cho nhân loại. Lòng anh bây giờ lai láng tình thương và cũng bình an khôn tả. Anh chỉ còn biết ca tụng Thượng Đế và sự Công Bằng Vĩnh Cửu.

Các bạn ơi ! Xin hãy hướng tâm hồn lên mãi chốn thanh cao, hãy cố hết sức mình sống theo gương Chúa . . . !

H Ế T

BA MUÏC ÑÍCH CUÛA HOÄI THOÂNG THIEÂN HOÏC:

1. Taïo tình huynh ñeä ñaïi ñoàng, khoâng phaân bieät chuûng toäc, tín ngöôûng, nam nöõ, giai caáp

2. Khuyeán khích vieäc hoïc hoûi, ñoái chieáu toân giaùo, trieát lyù vaø khoa hoïc

3. Nghieân cöùu nhöõng ñònh luaät thieân nhieân chöa giaûi thích ñöôïc vaø nhöõng naêng löïc aån taøng trong con ngöôøi.

***

Truï sôû hoäi Thoâng Thieân Hoïc Quoác Teá:

Adya, Chennai (Madras)

600 020 India

***

Truï sôû Thoâng Thieân Hoïc Hoa Kyø

1926 North Main Street

P.O Box 270

Wheaton, IL 60187

***

*** Mun gia nhp Hi, bn ch cn tha nhn mc đích 1

và liên lc vi hi nơi quc gia bn cư ng;

hay vi mt bn hi viên nào bn biết.

****

Quý v mun có sách biếu min phí xin liên lc:

CHI BOÄ PHUÏNG SÖÏ CHAÂN LYÙ

Anh Hieäp, ñieän thoaïi: (714) 638-8758

Email: hiep6647@yahoo.com

Anh Nhựt, điện thoại : (714) 530-3853

Email : nhutnguyen12@gmail.com,

Houston, Texas:

Văn Lý, đt: 832-372-7802

Email: vanlienly2004@yahoo.com