Con Đường Giải Thoát

Lời nói đầu

 

Tôi thấy có hai hạng người muốn đọc loại sách nói về huyền bí và đạo lư, như quyển sách nầy. Một là những bạn háo kỳ, muốn xem coi sách nầy nói ǵ. Hai là những bạn tu hành, hoặc muốn tu hành, muốn xem có điều ǵ để hiểu biết thêm về đạo lư, hoặc có điều ǵ đáng giúp ḿnh đi sâu vào đường đạo chăng.

Với hai hạng háo kỳ và muốn tầm đạo lư, quyển sách này sẽ làm thỏa măn cho quư bạn vậy.

Người háo kỳ sẽ được biết rất nhiều điều vô cùng huyền bí mà xưa nay kinh sách của tôn giáo chưa hề nói đến.

C̣n ai muốn tầm đạo, t́m chân lư, th́ đây toàn là triết lư cao siêu đầy chân lư và huyền bí.

Nếu quư bạn thật muốn tu hành, để sau nầy được giải thoát để trở thành một siêu nhân, th́ quyển sách này giúp cho quư bạn to tát và được thỏa măn vậy.

Quyển này không bàn đến cách tu lưng chừng, na đời, na đạo, mà chỉ thẳng thắn phương pháp tu hành để giải thoát mà thôi.

Muốn được giải thoát, để trở thành một siêu nhân (Phật Thánh Tiên) là một việc vô cùng khó khăn, do đó mà người được thành đạo mới có giá trị mà chúng ta phải cúi đầu thờ kính. Nhưng cũng không khó đến nỗi không thể làm được v́ đă c̣ nhiều vị tu hành đắc đạo rồi đấy. Thật là khó đối với ai c̣n mang nặng bản ngă trên vai, và c̣n lưu luyến DANH LỢI T̀NH, và những người c̣n tánh xấu xa, ác độc, những ai c̣n ở vào tŕnh độ quá thấp kém, không hiểu nổi triết lư cao siêu, huyền bí, chớ không khó với người có đại chí, đạo hạnh và sáng suốt ở thời buổi hiện nay.

Ngày xưa có một hôm Đức Phật Thích Ca, từ trong rừng trở về tịnh xá, tay cầm nắm lá simcapa. Ngài đưa nắm lá lên cao, hỏi các đệ tử, nắm lá trong tay Ngài nhiều, hay là lá trong rừng nhiều.

Các đệ tử đều trả lời: "Bạch Đức Thế Tôn, lá trong tay Thế Tôn rất ít, lá trong rừng rất nhiều". Đức phật nói: "các con nói đúng. Những điều ta chứng ngộ (hiểu biết) nó thật nhiều như lá trong rừng. C̣n những điều ta dạy các con nó rất ít như nắm lá trong tay ta đây".

Thế th́ đối với tŕnh độ nhân loại hồi 2.500 trước, c̣n quá thấp kém, dầu Phật rất cao siêu, hiểu biết sâu rộng như đám rừng kia, cũng không tài nào dạy nhân loại được nhiều hơn nắm lá trong tay Ngài.

Sau hơn 2.500 năm qua, tức là ngày nay, khoa học đă tiến hóa quá sức tưởng tượng của loài người:máy bay, tàu lặn, vô tuyến điện, vô tuyến truyền thanh, truyền h́nh, bom nguyên tử, bom khinh khí, máy móc tối tân, v. v. . . Có thể nói rằng khoa học đă tiến tận cung trăng.

C̣n bên Đạo lư, không lư do nào khiến chúng ta cứ ở một mực, như hồi 2.000 năm, hoặc 2.500 năm trước, không tiến thêm một bước nào nữa hay sao? Thật vô lư quá !! (1)

Theo luật thiên nhiên, những cái ǵ quá cũ, nếu không canh tân sữa đổi th́ sẽ bị đào thải, thay thế bằng cái mới cho hợp với trào lưu tiến hóa. Các giáo lư quá cũ kỹ, đă dạy cho nhân loại thời kỳ ăn lông ở lỗ, không thể nào hoàn toàn hữu dụng với tŕnh độ tiến hóa hiện nay. Vả lại Đức Phật đă nói, đă dạy được chúng sanh hồi ấy rất ít như nắm lá trong tay. Không lẽ đến nay, nhân loại cứ hiểu biết được bao nhiêu đó thôi, th́ chừng nào chúng sanh mới được hiểu biết nhiều hơn, để rồi được thành Phật như Đức Phật, v́ chính Đức Phật thường nói, chúng sanh sẽ là một vị Phật tương lai kia mà.

Không có lẽ chúng ta sẽ thành một vị Phật dốt, v́ theo luật thiêng liêng vị Phật nào cũng sáng suốt cả, không sáng suốt hiểu biết sâu rộng, th́ không bao giờ thành Phật được. Phải học mới biết, không học trong những kiếp đă qua, th́ phải học ở kiếp nầy.

Nếu chúng ta c̣n tin rằng Đức Phật Thích Ca c̣n hữu ích cho nhân loại hiện nay, th́ Đức Phật nỡ ḷng nào cứ để nhân loại dốt măi về Đạo lư, hoặc cứ ở măi một tŕnh độ hiểu biết thuở xưa trong khi mà khoa học đă tiến tận cung trăng như ngày nay.

Bạn Đạo, c̣n ai tin giáo lư của các tôn giáo thuở xưa là bất di bất dịch (không thay đổi), th́ trọn quyền tự do tin tưởng, nhưng đừng khinh thường những giáo lư mới, cao siêu và hữu lư hơn, không phải do thường nhân đặt ra, mà do chính Đức Thế Tôn Thích Ca đặt ra, chính Đức Thế Tôn sai nhiều đấng thánh sư Đại Tiên, luân phiên, lâm phàm thay thế Ngài xuống trần dạy đạo, để bổ túc những ǵ mà xưa kia Đức Thế Tôn không thể dạy nhân loại được, trong lúc tŕnh độ nhân loại hồi ấy c̣n quá thấp kém.

Và cũng cầu xin các bạn đạo đừng bắt buộc con cháu, bạn bè và thân thuộc, phải trọn tin theo sự hiểu biết quá cũ k về đạo lư quá xưa của ḿnh, vô t́nh bảo như vậy là cản trở bước đường tiến hóa của chúng nó.

Không có tội nào lớn hơn là tội cản trở bước đường tiến hóa của nhân loại.

 

  Một sự lầm lỗi, rất lớn do các nhà lănh đạo tôn giáo gây nên là cấm cản bổn đạo của ḿnh, không cho dự hoặc xem kinh sách của người khác, hoặc nghe một giáo lư mới để hiểu biết sâu rộng thêm. Sự cản trở nầy làm cho nền đạo lư vẫn cứ ở măi mức cũ, không tiến thêm được chút nào cả.

  Tôi được biết rất nhiều nhà lănh đạo, quá tự tôn, tự cho ḿnh là hiểu biết đầy đủ và hơn tất cả, chả thèm chịu nghe một giáo lư nào khác.

  Nếu những vị ấy, khiêm tn hơn một chút, đi nghe những giáo lư mới, có hại ǵ đâu, được như vậy mới thấy được chổ thấp kém, hay cao siêu của tôn giáo ḿnh.

  Lấy làm đau thương mà thấy ở thế kỷ 20 này, c̣n rất nhiều người cứ cương quyết bảo vệ lư thuyết quá xưa, không chịu đi máy bay, tàu hỏa, để đi mau đến nơi đến chốn, mà cứ giữ măi đường lối cũ, đi theo đường ṃn nhỏ hẹp trong rừng hoặc đi bằng xe ḅ, từ nam ra bắc!!!

  Bây giờ đối với những bạn trí thức mới, thấy xa hiểu rộng, thấy rơ cuộc đời là phù vân mộng ảo, danh lợi t́nh là cạm bẫy, nó lôi cuốn, đưa con người vào ṿng gió bụi trần gian, đau khổ luân hồi măi măi, thấy rơ ràng làm vua, làm quan, làm tướng, làm giàu, không phải là mục đích cứu cánh đưa con người đến chân hạnh phúc và giải thoát. Thế nên nhiều người trong hạng nầy muốn t́m những ǵ cao cả và vĩnh viễn hơn, nên muốn tu để sưu tầm chân lư cao siêu, Các bạn này đă thường ḍm ngó trên khỏi đầu, nhận biết chắc chắn, ngoài cơi trần mà loài người đang sống say, chết mê, trong vật chất (Danh Lợi T́nh), c̣n có Phật Thánh Tiên là những đấng đă được giải thoát rồi. Nhờ tin quyết có các đấng ấy, nên muốn tu, để theo gương, nối bước các Ngài.

  Quí bạn bắt đầu tự hỏi, phải tu hành thế nào để được giải thoát như các Ngài đây?

 Chú thích :

 (1) Trước khi Đức Thích Ca thành Phật, Ngài đă lâm phàm nhiều kiếp, và nhiều lần làm Giáo chủ nhiều tôn giáo, ra đời tùy tŕnh độ tiến hóa nhân loại hồi ấy. Các Tôn Giáo quá cũ, do Ngài lập ra, đều lỗi thời và lần hồi tự tiêu diệt, chỉ c̣n Phật Giáo c̣n bổn đạo nhiều nhất Thế giới. Xin xem trang 89, nói rơ các Tôn Giáo cũ Đức Thích Ca lập ra,

 

DẬP ĐẦU, LẠY PHẬT, LẠY CHÚA MUÔN NGÀN LẠY,

ĐỂ CẦU XIN GIẢI THOÁT CÓ ĐƯỢC KHÔNG ?

 

Cũng không thể được. Ở Ấn độ có nhiều người luyện được phép thần thông, đi trên lửa không biết nóng, chôn ḿnh dưới đất cả trăm ngày không chết, nằm trên đinh nhọn, trên lưỡi dao bén mà không đứt và không lủng.

  Đừng lầm những người đạt phép thần thông nầy là những bậc siêu nhân, giải thoát, mà họ chỉ là những pháp sư (thầy pháp) thầy phù thủy, như những thầy gồng, thầy ngi, thầy pháp để bùa xuyên oai, ngồi trên lưỡi dao phay bén bên xứ ta lạ vậy, họ chỉ diễn tṛ kiếm ăn độ nhật mà thôi.

  Thần thông, tài phép như giống dân thứ tư, dân Ắt lăng (Atlans) thuở xưa, ở châu Atlantide, học được phép thần thông và bửu bối, để tàn sát lẫn nhau, không chịu tu hành chánh đạo, không tin có Trời Phật Thánh Tiên, rốt cuộc bị luật trời tiêu diệt, cho cả một châu Atlantide với 64 triệu dân, ch́m sâu đáy biển Đại Tây Dương 75.025 năm, trước tây lịch.

  Thế th́ phép thần thông không phải là phương pháp để tiến hóa và được giải thoát vậy.

 

LUYỆN LUỒNG HỎA HẦU, HAY LÀ HỎA XÀ (KUNDALINI, FEUSERPEN) CHO MỞ ĐƯỢC THẦN NHĂN, HUỆ NHĂN (CLAIVOYANCE) CÓ PHẢI LÀ PHƯƠNG PHÁP ĐỂ ĐƯỢC TRỞ THÀNH PHẬT THÁNH TIÊN, HAY LÀ ĐƯỢC GIẢI THOÁT KHÔNG?

Cũng không. . . Ai luyện mở được thần nhăn, Huệ nhăn, là một cơ hội rất may, rất tốt cho người ấy, để học hỏi thêm những ǵ ở cơi vô h́nh, những khoa H́nh nhi thượng học (sciencemetaphysique) nhờ đó mà biết thêm luật trời, và biết được quá khứ vị lai (2). Biết được như vậy, cũng không được giải thoát, và cũng không thành Phật Thánh Tiên được. Muốn được giải thoát vị ấy phải cố gắng tu hành hy sinh giúp đời cho thật nhiều, lập công bồi đức cho đến mức để được điểm đạo, đi lần đến mức giải thoát. Nhưng luyện Luồng hỏa hầu là một việc làm nguy hiểm cho tánh mạng, nếu không phải là người đạo hạnh cao, và không nhờ chơn sư (thầy tiên) chỉ dạy và coi chứng trong lúc luyện, th́ hầu hết những người tự luyện, đều luyện sai, kết quả không điên th́ cũng chết oan (1) .

Thế th́ luyện cho mở Thần nhăn, Huệ nhăn cũng không phải là mục đích tiến hóa và được giải thoát. Ngày giờ để luyện Hỏa Hầu, dùng vào để giúp đời c̣n hơn. Nhiều vị giải thoát trở thành siêu nhân (Phật Thánh Tiên) không cần phải luyện Luông Hỏa Hầu, cũng mở được huệ nhăn, như trường hợp của Đức Phật Thích Ca và gần đây bà bác sĩ Annie Besant cố hội trưởng của hội thông thiên học thế giới, bà không luyện luồng hỏa hầu, chỉ lo lập công bồi đức (giúp đời) mà bà mở được huệ nhăn và biết được quá khứ vị lai.

 

LUYỆN ĐƯỢC PHÉP TRƯỜNG SANH SỐNG ĐƯỢC NHIỀU NGÀN NĂM MÀ KHÔNG GIÚP ÍCH G̀ CHO SỰ TIẾN HÓA CỦA NHÂN LOẠI, VỊ ẤY, CÓ ĐƯỢC TIẾN HÓA CAO SIÊU, VÀ ĐƯỢC GIẢI THOÁT ĐỂ TRỞ THÀNH PHẬT THÁNH TIÊN KHÔNG ?

Cũng không được thành Phật Thánh Tiên và tiến hóa cao siêu và giải thoát, nếu vị ấy không hy sinh đời ḿnh để giúp cho nhân loại tiến hóa. Đă có nhiều vị luyện được phép trường sanh, sống thật lâu, và mở được huệ nhăn biết được tiền kiếp, nhưng không làm ǵ để giúp cho ai cả, chỉ cứ lo luyện cho cái xác được sống lâu mà thôi. Sau thời gian sống được năm mười ngàn năm, hoặc một trăm ngàn năm, mà tŕnh độ tiến hóa vị ấy cứ vẫn một mực và ích kỷ. Vị ấy ḍm lại các bạn hồi thuở trước, đă chết đi rồi đầu thai trở lại nhiều lần, mỗi lần cố gắng tu hành giúp đời, cứu nhân độ thế tiến hóa rất cao, và được giải thoát trở thành siêu nhân. C̣n vị lo luyện trường sanh kia, chậm tr bước đường tiến hóa hơn các bạn ḿnh đă được thành thánh tiên. Phút cuối cùng khi y tnh ngộ, biết được sự tiến hóa là tối cần mà y đă chậm trễ hơn bạn của y, y phải xuống thế để cố gắng hy sinh lập công bồi đức, chừng ấy mới được giải thoát, giải thoát chậm trễ hơn các bạn đồng thời của y, không cần luyện trường sanh. Thế th́ luyện được trường sanh, cũng không bổ ích ǵ cho sự tiến hóa và giải thoát. Xin nhớ rằng linh hồn không bao giờ chết, tức là linh hồn đă trường sanh rồi và linh hồn tiến hóa, để trở thành Phật Thánh Tiên, chớ có phải cái xác nầy thành Phật Thánh Tiên đâu mà phải lo luyện cho cái xác sống lâu, mà không tiến hóa ǵ hết, không được giải thoát mà cũng không thành một Đấng siêu nhân. Ngày giờ lo luyện trường sanh, là ngày giờ bỏ qua rất đáng tiếc vậy.

 

Luyện đạo, hăm ḿnh, ép xác, có được giải thoát không?

Chắc chắn cũng là không. Xưa kia đức Thái Tử Sĩ Đạt Ta, đă dày công luyện đạo, hăm ḿnh ép xác, rốt cuộc làm cho thân thể trở nên tiều tụy, và suưt chết, mà không t́m ra chân lư.

 

Kết cuộc, Ngài biết Ngài lầm lạc. Khi tỉnh ngộ, ngài bỏ phương pháp hăm ḿnh luyện đạo, và ăn uống trở lại như thường. Nhờ sự ăn uống, xác thân và tinh thần được mạnh mẽ, Ngài có đủ sức chịu đựng để Tham thiền lâu và Nhập định, mới t́m được chân lư “Tứ diệu Đế và Bát chánh Đạo” và được sáng suốt, chứng quả Phật.

Về sau Ngài dạy đạo, không cho các đệ tử luyện đạo hăm ḿnh ép xác như ngài đă lầm lạc. Thế th́ phương pháp luyện đạo, hăm ḿnh ép xác, không phài là phương châm để giải thoát.

C̣n nhiều phép tu khác, như gơ mơ tụng kinh.

Tụng cho được một ngàn quyển kinh Pháp–Hoa, như Pháp Đạt hồi đời Lục–Tổ, có được giải thoát không?

Cũng không được ǵ cả Tụng kinh để mà cầu lư, rồi do theo lư lẽ cao siêu ấy mà tu hành, tu tâm, sửa tánh mở rộng nhân giúp đời, chớ không phải tụng cho nhiều mà không hiểu, và cũng không làm được những ǵ y theo kinh đă dạy, rồi lấy đó mà kể công với Tam Bảo, để được giải thoát hay sao. Tụng 1000 quyển kinh Huỳnh Đ́nh mà không hiểu lư, và không làm y theo kinh đă chỉ dạy, th́ cũng không giải thoát được. Phật xưa kia, không tụng một quyển kinh nào cả mà được giải thoát. Thế th́ không phải tụng kinh cho thật nhiều mà được giải thoát (1)

Niệm Phật, cầu Trời, năm kia tháng nọ, cho đến cuối đời có được giải thoát không? Có được thành một đấng siêu nhân không?

Chắc chắn cũng là không? V́ Phật thường dạy: Ta đến đây để chỉ đường cho các con đi. Chớ ta không có quyền giải thoát cho ai cả. Nếu ta mà giải thoát được các con, th́ ta đă giải thoát hết rồi, khỏi cần các con phải lạy lục, cầu lụy đến ta. “Bởi Phật là đấng Đại Từ Đại–Bi, và rất xót thương nhân loại”.

Đem hết tài sản để lập chùa, có được giải thoát không?

Cũng không thể được giải thoát. Làm việc này mà không cầu danh, không cầu lợi, và cũng không mong mỏi được Trời  Phật ban thưởng chi cả, th́ là một công đức lớn vậy. V́ chùa là nơi truyền bá đạo đức, nơi bổn đạo đến nghe nhà sư dạy đạo, nhắc nhở gương lành của Phật để noi theo, làm theo, để tiến hóa và được giải thoát như các Ngài vậy. Cất chùa, là một phụng sự nhân loại lớn lao nhưng làm được bao nhiêu đó, cũng chưa đủ điều kiện để được giải thoát.

Thưở xưa, Lương Đế lập được 72 kiểng chùa, và nuôi hàng ngàn sư săi, để tụng niệm, mà Lương Đế đâu có được giải thoát, để thành siêu nhân.

 

 (1) tôi biết có hai người ham mê luyện luồng hỏa hầu không chơn sư chỉ dạy, kết quả một người bị nóng phổi mà chết. C̣n một người bị luông hỏa hầu không đi lên, mà lại đi xuông, nó làm cho người ấy trở nên người hoang dâm vô độ cho đến chết


 (2) Như
Khổng Minh (Gia Các Lượng) và Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu có được giải thoát, được thành Phật Thánh Tiên.

 

Môt khi kia, Lương Vơ Đế rất may mắn được tiếp rước Đức Đạt Ma Tổ Sư
 (sư tổ của Thiền –Tông Trung –Hoa) . Lương Vơ Đế hỏi Đức Đạt Ma Tổ Sư:

Bạch Thiền sư, trẫm từ ngày lên ngôi tới nay, sùng tu Phật Pháp bằng cách xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy Thiền sư cho biết có được công đức ǵ chăng?

Tồ sư đáp rằng:

Chỉ được hưởng phước hữu lậu mà thôi.  (1)

Lương Vơ Đế lại hỏi:

Xin Thiền sư chỉ điểm chân lư?

Tổ sư đáp:

Những công việc của nhà vua vừa kể chính là nhân duyên hữu lậu như ảnh tùy h́nh (tức là công đức thế gian) . Đó là những quả nhỏ trong ṿng Nhân Thiên, tuy có mà cũng như không có ǵ hết, về phần thiêng liêng.

Muốn đại toàn công đức trên đường giải thoát và chứng quả vô sanh th́ không thể lấy việc thế gian, như xây chùa, chép kinh, độ tăng mà được.

Công việc này chỉ là tác phước tạo duyên. công đức của thế gian sẽ trở lại thế gian mà hưởng. Một khi dục vọng gieo nơi nào, th́ phải trở lại nơi ấy mà gặt (mà hưởng) chớ không phải công đức để được giải thoát

Tôi không sanh cùng thời với Lương vơ Đế nên không hiểu khi nhà vua làm mấy chuyện kể trên đây với ư nguyện nào? Cầu danh, cầu lợi hay là cầu phước, do Trời Phật ban phước cho. Nhưng lấy câu hỏi Tổ sư mà đoán: "Có được công đức ǵ chăng", th́ thấy rằng Lương vơ Đế làm những chuyện ấy với một hy vọng được Trời Phật trả công, tức là muốn được hưởng phước, th́ tức là buông tay này, để bắt lại tay khác. Vậy th́ đó là sự mua bán, đổi chác với Trời Phật vậy.

Theo thuyết của Đạt Ma Tổ sư muốn được đại toàn công đức và được giải thoát th́ trí phải được thanh tịnh hoàn toàn, tâm phải trống không vắng lặng. Cho ra mà trí đừng mong mỏi thâu vô, tức là đừng mong Trời Phật ban thưởng ǵ cả th́ mới được giải thoát về phần Thiêng liêng.

Phụng sự Tam Bảo, xây chùa, độ tăng mà không một mảy may cầu mong được công đức, mới là nhân duyên vô lậu, hưởng phần thiêng liêng, và chắc chắn được công đức lớn đưa lần đến giải thoát. Đó mới thật là hiến dâng (consecration) đúng với chữ bố thí của lục độ.

Đem hết tiền của dâng cho nhà sư, hoặc dâng cho một nhà tu hành cao cả để nhờ cứu rỗi tội lỗi và linh hồn khỏi bị đọa, sau khi ḿnh chết, làm như vậy có được cứu rỗi và giải thoát không?

Chắc chắn trăm ngàn lần không làm điều ấy không khác ngoài đời, phạm tội, rồi đem tiền hối lộ cho quan, để chuộc tội cho ḿnh. Như thế là làm giảm giá các bậc tu hành trong sạch, coi nhà sư, người tu, như một ông quan hối lộ. Vả lại Đức Phật thường nói, Phật không quyền cứu rỗi ai cả, huống chi nhà sư, tài đức hơn Phật hay sao mà cứu rỗi được linh hồn người tội lỗi (1)

  Tu giùm, Tu gởi, Tu thế. . . có được giải thoát hay không?

Chắc chắn là không. Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc. không tu không đắc, không ai có quyền tu thế ai cả.

Phước hữu lậu tức là hưởng phước nơi cơi trần thế này, như làm giàu, làm quan. . .

 

Chú thích : (1) Không biết Lương Vơ Đế đă làm tội ǵ quá nặng, mà khi ở kiếp làm vua cất 72 kiểng chùa, nuôi hằng ngàn sư săi để tụng niệm. Công đức không chuộc nổi tội nặng của y ở kiếp trước, nên sau cùng, y bị giặc vây tại Đài Thành cho kiệt lương và chết một cách vô cùng đau khổ, chết đói tại Đại Thành.  

 

 

Tôi đă nói hầu hết các bạn tu hành lâu nay đă thi hành, nhưng chưa có phương pháp nào làm cho người tu kể trên, được giải thoát, để trở thành một siêu nhân (Phật Thánh tiên). Vậy bây giờ phải tu hành thế nào, cho được mau tiến hóa, và được giải thoát?

Trước hết phải học đạo, cho biết luật trời, biết nguồn gốc con người là ai, từ đâu đến đây, đến đây để làm ǵ, rồi sẽ đi về đâu. Học cho biết các cảnh giới vô h́nh, cảnh nào Phật Thánh Tiên đang ngự, cảnh nào thường nhân chết rồi đang ở, cảnh nào gọi là Thiên Đàng, cảnh nào gọi là địa ngục, thiên đàng ở đâu? Địa ngục ở đâu? Khi ta chết rồi linh hồn đi vào đâu, ở đâu và bao lâu trở lại trần thế. Làm thế nào để tránh khỏi địa ngục và lên được Thiên đàng hay là Cực lạc Quốc, và chừng nào chúng ta mới được giải thoát. Điều tối cần là phải sa tánh, lập hạnh, mở rộng ḷng nhân, hy sinh đời ḿnh để phụng sự nhân loại không v́ danh, v́ lợi.

Đạo lư xưa nay vẫn c̣n mù mờ lắm, chỉ dạy được một phần mà thôi, giải không rơ tận gốc nên làm cho hạng người trí thức sáng suốt hoang mang, khó tin để tiến bước về Thiêng liêng, do đó mà vô số người không tin có Trời Phật Thánh Tiên, và họ trở thành một người vô thần, chống lại với những người tu hành tin tưởng có Trời Phật Thánh Tiên.

Được nghe những lời dạy của Quần Tiên Hội (của Phật Thánh Tiên) xuyên qua quyển sách này, mới thấy rơ đường lối nào phải theo để đi đến nơi đến chốn, tức là để được giải thoát. Một khi đă biết rơ mà không noi theo là tại ḿnh c̣n ham mê vật chất hơn tu hành để giải thoát.

Quyển sách này đầy đủ lẽ căn bản, chỉ vẽ thẳng thắn không lưng chừng, để giúp các bạn đạo có thiện căn, đại chí, đạt cho được mục đích cuối cùng, để trở thành một siêu nhân thoát khỏi ṿng sanh tử luân hồi.

Thành tâm cầu nguyện và mong rằng, v́ ḷng quá yêu mến thiết tha chân lư, quyển sách này được hộ lực của các Thánh Sư, hầu giúp thêm sự hiểu biết cho người tầm đạo.

 

   Thánh giáo dạy đạo

Dưới đây một thánh giáo do Đức Quan Thế Âm Bồ Tát giáng đàn dạy đạo tại thánh thất (Tiên Thiên Minh Đức) Mỹ Tho, ngày 23/10/1967. Thánh giáo rất cao siêu, nói rơ về phương pháp tu hành: (tụng kinh và ăn chay) .

Vâng lịnh Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu, thừa hành sắc lịnh Ṭa Tam Giáo . Bần Đạo giáng đàn để mấy ḍng đạo lư:

   Thơ

   Tu phải cố trau dồi tâm tính,

 Phải trước tiên quyết định tu chi?

 Tụng kinh là để làm ǵ?

 Ăn chay niệm phật ích chi cho ḿnh?

 Không phải phật thiếu kinh thường dụng,

 Bảo chúng sanh đem tụng Phật nghe;

 Tụng kinh như thể nói vè,

 Nghĩa sâu không biết, lối lề không thông.

 

 Chú thích : (1) Nhà sư nào, hoặc nhà tu cao cả nào, tuyên bố cứu rỗi được linh hồn người tội lỗi, hoặc đem được linh hồn người ấy được lên Thiên Đàng, hay là Cực Lạc Quốc, là nhà sư ấy nói gạt vậy.

Nguyện cầu vạn vật Thái B́nh

Nguyễn văn Lượng

Thông Thiên học

 

 Chẳng khác nào nghe ong ṿ vẽ,

   Tiếng nhỏ to thỏ thẻ vu vu;

 Tụng nhiều mới gọi là tu,

 Đọc nhiều cho Phật công phu mới nhiều!

 Đó là tu theo chiều mê tín,

 Biết bao giờ tâm Thánh mở mang;

 Sách kinh là đuốc rọi đàng,

   Dạy đời học đạo hành tàng thể nao.

   V́ lẽ đó cùng nhau ráng hiểu,

Đọc kinh coi phật bảo làm chi;

Ráng làm ăn ở cho y,

Tánh t́nh cùng những hành vi Phật Trời.

Đọc kinh rồi hiểu lời Phật dạy,

Th́ chớ làm trái lại sách kinh;

Nếu khi ḿnh đă thông minh,

Lăo thông đạo pháp xem kinh làm ǵ?

Ăn chay để làm chi vậy hử?

Tập ăn chay để thử ḷng trần;

Bao nhiêu ái ố tham sân,

Bao nhiêu thói xấu ra lần cho thanh.

Ăn chay để tập tành nhân dũng

Loài vật kia cũng sống như ḿnh;

Lẽ nào đành đoạn sát sinh,

Rượu ngon thịt béo tiệc tùng sớm trưa.

Đó là lối muối dưa tụng niệm,

Tập tánh hiền cho tiệm tiến lên;

Ḷng thương nhân hậu làm nền,

Gợi đèn minh triết cho đàn quang minh.

C̣n cúng lạy niệm danh chư Phật,

Ở chùa chiền Tịnh Thất thường khi;

Tứ thời bái sám làm chi?

Niêm danh các Đấng làm ǵ nữa đây?

Có người niệm xin thầy cùng Phật,

Cho Thánh Đường Tịnh Thất b́nh yên;

Đó đây trên dưới chùa chiền,

Đừng cho phá hoại giữ yên măi hoài.

Cho gia đạo trong ngoài an bỉ,

Cho đàn con ứng thí thủ khoa;

Và cho lớn bé trẻ già,

Làm ăn thạnh mậu cửa nhà sum sê.

Tôi sẽ nguyện đem về cho Phật,

Hoa quả trà chồng chất đầy bàn;

Hương thơm trầm tốt trà nhang,

Rượu lê trà cúc bỉ bàng thiếu chi.

Xin chư Phật từ bi gia hộ,

Cho chồng tôi thi đổ quan cao;

Để cầm vận mạng phong trào

Đi đâu dân chúng chạy sau rần rần.

Đó là tu theo phần mê tín,

Phật Tiên đâu ưa nịnh ưa dua;

Mà đem lễ vật đến chùa,

Đặt điều kiện để bán mua Phật trời.

ng lạy để ngh ngơi tâm trí,

Để tịnh ḷng tịnh ư tịnh ngôn;

Khép ḿnh dưới bệ chí tôn,

Trau dồi tính nết luyện hồn tịnh thanh.

Cúng lạy để tâm lành phát hiện,

Nh́n Phật Tiên trên điện hiền ḥa;

Khởi ḷng bác ái vị tha,

Nh́n chung Thượng Đế là cha linh hồn.

Nh́n lên trái càn khôn thường trụ,

Nhựt nguyệt cùng tinh tú bao quanh;

Càn khôn vũ trụ vận hành,

C̣n ḿnh là một chúng sanh phàm trần.

Ḿnh cũng có pháp thân nội ngoại,

Cũng như trời là Đại linh Quang;

Trên th́ thiên Thượng Thánh Hoàng

Dưới ḿnh thiên hạ trần gian điển h́nh,

Trời th́ có hành tinh nhựt nguyệt,

Có âm dương hàn nhiệt nóng khô;

Con người là tiểu qui mô,

Cũng đều có bản hà đồ lạc thơ.

Đó là máy huyền cơ tạo vật,

Người với trời thể chất song song;

Nếu ḿnh bền chí gia công,

Tu thân luyện mạng cũng mong thành trời.

Phải nhiều kiếp luân hồi tiến hóa,

Đi từ ch đọa đến thăng;

Con người là tiểu linh quang,

Từ trong khoáng sản ẩn tàng cỏ cây.

Đến cầm thú ngô ngây khờ dại,

Nhiu kiếp rồi biến cải linh hồn;

Tiến lên đến bậc vĩ nhân, (1)

Có luôn thất phách tam hồn qui nguyên.

Người tu được thành Tiên tác Phật,

Khổ công tu chẳng mất ai ơi!

Tu đi một vốn mười lời,

Nhà băng thượng giới cha Trời dành cho.

Chớ đừng có bo bo ích kỷ,

Lo tóm thâu của quí để dành,

Một giờ lửa đạn chiến tranh,

Cửa nhà sự nghiệp tan tành c̣n chi.

Thăng

Quan Thế Âm Bồ Tát (2)

. . . . . . oOo. . . . . .

 

lời Đức Bồ Tát dạy trên đây, tuy vắn tắt nhưng rất thâm sâu và đầy đủ.

Rất cao siêu và vô cùng hữu ích.

Hữu phước thay cho nhân loại được đọc bài Thánh giáo này.

Nguyễn văn Lượng

 

____________________________oOo_____________________________________

 

 

 

Thưa quư bạn

 

Quư bạn đă thấy sơ qua lời nói đầu, đă có rất nhiều luân lư, đạo lư khác xa hơn xưa quá nhiều.

Bây giờ quư bạn sắp đi sâu nội dung vào quyển sách này, sẽ thấy vô số lạ lùng và huyền bí mà xưa nay có thể chưa được nhiều người hiểu biết đến.

Nhiều triết lư cao siêu sẽ làm cho các bạn ngẩn ngơ, v́ không hiểu nổi hoặc rất khó hiểu.

Bạn nào hiểu được sẽ vui mừng lên, vui mừng thấy ḿnh đă tiến hóa, hiểu biết kịp thời, hiểu hơn những bạn khác cùng đọc mà không hiểu. Có thể nói ḿnh đă tiến hóa hơn 2500 năm, đối với tŕnh độ xưa, giáo lư xưa, và người xưa.

Hữu phước thay, đă gặp được chân lư cao siêu trong kiếp nầy. Trí thức dù cao đến đâu mà thiên cơ chưa tiết lộ và chưa gặp thánh sư chỉ dạy, th́ cũng không làm sao thấu hiểu được thiên cơ huyền bí.

Chân lư có nhiều cấp bậc, tạm chia làm ba bực: Chân lư hạ đẳng để dạy cho người thuở xưa, kém phần tiến hóa.

Chân lư cho người trung đảng và thượng đẳng cho nhân loại tiến hóa hiện nay về sau, tùy theo tŕnh độ tiến hóa nhân loại mà Phật Thánh Tiên lần lượt tiết lộ thiên cơ.

Chú thích : (1) Trước khi trở thành Phật Tiên tất cả linh hồn đều phải tiến hóa, thâu thập kinh nghiệm xuyên qua khoáng sản (mineral) cỏ cây (vegetal) cầm thú (Animal) rồi mới tiến đến loài người (Homme) và Phật Thánh Tiên.

 (2) Bài thánh giáo trên đây tôi thấy thật cao siêu và hữu lư; tuy vắn –tắt nhưng chứa nhiều chân lư. Tôi in bài này nơi sách tôi v́ lời lẽ cao siêu và đúng chân lư. Bất cứ vị nào và ở tôn giáo nào dạy chân lư cao siêu th́ tôi thọ nhận. Là người Thông Thiên Học, tôi học tất cả các tôn giáo.

Soạn giả Nguyễn văn Lượng

 

Trường đời cũng vậy, mấy ngàn năm trước không có trường dạy cấp bậc cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ như bây giờ, và bài học của các bậc đại học không thể đem dạy cho cấp sơ học, tiểu học được.

 Tài đức cao siêu như Đức Phật mà cũng đành chịu, không dạy được nhân loại nhiều hơn nắm lá (simcapa) trong tay cuả Ngài, trong khi tŕnh độ nhân loại c̣n quá thấp kém, hồi 2500 trước.

Nội dung quyển sách này toàn là chân lư cao siêu mà xưa kia không dạy cho nhân loại được

Nay nhân loại tiến hóa khá cao, Đức Phật Thích Ca mới sai Tiên Thánh lâm phàm, thay thế Ngài để bổ túc những ǵ xưa kia không dạy được, hầu giúp nhân loại tiến thêm, biết thêm đôi chút thiên cơ huyền bí, chỉ rơ cho thấy con đường đưa nhân loại đến nơi giải thoát.

Các Ngài thâu nhận đệ tử phàm tục, dạy đệ tử chân lư cao siêu, đệ tử đă thọ nhận chơn truyền, viết ra thành sách và truyền miệng lại, tôi gom góp lại thành quyển sách này cống hiến cho đời.

Bạn nào hiểu được là có duyên lành hơn, và phước đức lớn vậy

_____________________NGUYỄN VĂN LƯỢNG___

 

 

CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT

 

Giải thoát nhiều lần trong những giai đoạn tiến hóa.

Con người từ đâu đến đây. . . . . .

 Đến đây rồi đi đâu. . . . . .

Thế gian là trường tiến hóa. Tất cả linh hồn chưa đến mức toàn thiện, đều phải trở lại đây học hỏi, thâu thập cho đầy đủ rồi mới được giải thoát.

Khởi đầu từ đại khối linh quang của Đức Thượng Đế . Điểm linh quang (Tức là linh hồn) tách ḿnh xuống thế để thâu thập kinh nghiệm. Khởi đầu điểm linh quang kinh nghiệm xuyên qua ba loại tinh hoa (Elémental) để rồi tẩm ḿnh vào kim thạch, sang qua thảo mộc. Trăi qua vô số thời gian kinh nghiệm, nơi đây linh hồn được giải thoát kiếp thảo mộc sang qua loài cầm thú, rồi lại giải thoát kiếp thú để nhập vào loài người (2) rồi giải thoát lần chót kiếp người để nhập vào Phật Thánh Tiên.

Khi thú mới thành người, lẽ tất nhiên linh hồn c̣n trẻ, thiếu kinh nghiệm, lại bị bao bọc trong một thể vía (corps astral) và trong một thể trí (corps mental) rất thấp kém, đầy ảnh hưởng xấu xa thú tánh, hồn khởi sự đầu thai vào các giống dân thấp kém nhất, như mọi lùn ở trung phi châu. Giống dân này sinh hoạt như cầm thú, ăn lông ở lổ thích giết người, giết đồng loại để ăn thịt, không biết ǵ là nhân đạo. Tiến lần hồi trong nhiều kiếp ở giống dân thấp kém, để thâu thập kinh nghiệm, khôn ngoan thêm, linh hồn khi được tiến hóa khá hơn, nó bỏ lớp người da đen, nhập vào giống người da đỏ, tiến hóa lần đến giống da vàng, rồi da trắng, là giống dân tiến nhất trong loài người hiện nay (3) .

Dài theo cuộc tiến hóa của loài người trên địa cầu này, và trước khi trở thành một siêu nhân, mỗi linh hồn phải nhập vào 7 giống dân chính và tri qua 49 giống dân phụ để thâu thập trong tất cả giống dân trong một ngươn lối hơn 88 triệu năm (une Périod dài theo cuộc tiến hóa của loài người trên địa cầu này, và trước khi trở thành một siêu nhân) hồn tiến hóa đúng mức mới được giải thoát. Trừ trường hợp những linh hồn biết tu th́ mới được giải thoát sớm hơn, và khỏi phải tuần tự, từ giống dân thấp đến giống dân cao.

Mỗi giống dân chánh có 7 giống dân phụ. Bảy giống dân chánh có 49 giống dân phụ.

Các giống dân chánh và phụ xin kể dưới đây:

Hai giống dân chánh: thứ nhất là giống dân Ethérique (4) và thứ hai là giống dân Hyperboreen (5) cùng 14 giống dân phụ của hai giống dân chính nay đă tàn, di tích đă mất từ lâu rồi (6) . Hiện nay chỉ c̣n di tích của giống dân chánh và dân phụ thứ ba, thứ tư, thứ năm mà thôi; và chỉ c̣n hai giống dân chánh thứ sáu và thứ bảy và 14 giống dân phụ sẽ sanh ra sau này, để cho đủ bảy giống dân chánh và 49 giống dân phụ. Theo thiên cơ đă định trong một (ngươn lối hơn 88 triệu năm) .

Xin kể những giống dân có hiện nay và c̣n di tích:

Tức là kể từ giống dân chánh thứ ba (người da đen) . Giống dân thứ ba (7) là giống dân Phi ly (Lemurien) sanh ra cách nay lối 14 triệu năm, hiện c̣n lưu lại tàn tích là mọi lùn ở Trung Phi Châu, Úc Châu và Madagascar, và 7 dân phụ đều toàn là da đen.

Giống dân chánh và dân phụ tứ tư

Là người da đỏ và da vàng: xin kể dưới đây:

Giống dân chánh thứ tư là giống dân Ắt lăn (Atlants) sanh ra trên châu Ắt lăng tich (Atlantide) . Châu này đa bị ch́m sâu dưới Đại Tây Dương (Ocean Atlantique) ; Giữa biển Đại Tây Dương hiện thời c̣n một di tích của thời xưa là ḥn đảo A xo (Acores) mà xưa kia có chót núi cao nhất của châu Atlantide, khi châu này bị ch́m; cái chót núi này vẩn c̣n ló trên mặt biển để trở thành đảo Acores ngày nay.

Sanh ra cách nay lối 18 triệu năm, hiện lưu lại tàn tích là mọi lùn ở Trung Phi Châu, Úc Châu và Madagascar, và 7 dân phụ đều toàn là da đen.

 

Xin lưu ư:    (2) Con người mới thoát kiếp thú thành người, lúc ban đầu rất ngu xuẩn và dă man không khác con thú; tiến hóa lần hồi nhiều kiếp, trở thành con người khôn ngoan, về sau tu hành đúng đắn sẽ thành Phật Thánh Tiên.

Con người được thành Phật Thánh Tiên, th́ con thú khôn ngoan tiến thành con người là lẽ tự nhiên. Tất cả nhân loại, trước kia là thú cả. Nhân loại là thú ở dăy nguyệt cầu, khi dăy nguyệt cầu (Mặt trăng) chết, tất cả hồn của loài thú ở dăy nguyệt cầu đều được đưa qua địa cầu để tiếp tục tiến hóa, các hồn thú ấy thành hồn người hiện nay, tức là thành nhân loại hiện nay.

Ngựa, chó, mèo, voi, khỉ: và những loài có vú, con nào thật khôn sau khi nó chết hồn nó tiến hóa thành hồn người và đầu đầu thai làm con người. khởi đầu làm người mọi, ngu xuẫn và dă man, thích ăn lông ở lổ như loài thú, thích giết lẫn nhau, và ăn thịt lẫn nhau, không có chút ǵ là nhân đạo cả.

Loại Cá Chim, không tiến hóa vào hàng nhân loại, mà sẽ tiến hóa vào giới thiên thần (ange) . Từ cầm thú trở lên có hai đường tiến hóa: Đường nhân loại sẽ thành Phật Thánh Tiên, đường thiên thần sẽ thành thiên thần, đại thiên thần, (Ange Deva) . Xem quyển (Evolulion occult de l’humanite’) nói rơ hai đường tiến hóa này.

 (3) Trong giống dân da đen, da đỏ, da vàng, có một số ít người tiến hóa, ngang hàng hoặc hơn một số người giống dân da trắng, đó là trường hợp đặc biệt Đấng Tạo Hóa cho những linh hồn tiến hóa cao ấy xuống trong giống dân thấp kém, Để d́u dắt giống dân ấy tiến hóa trong cỏi trần.

  (4) Giống dân chánh thứ nhất (dân Etherique) là dân thanh khí, chưa có xác phàm chỉ mở được thính giác (sens de l’ouie) .

 (5) Giống dân chánh thứ nh́ (dân Hyperboreen) chỉ có một cái phách (double etherique) và mở được thêm xúc giác, một lượt với thính giác

 (6) Cũng như loài thú của tiền sử h́nh tướng thô kịch, kỳ quái, cũng đă mất tích từ lâu rồi. Bên Anh Quốc, nơi viện bảo tàng c̣n dấu vết nhiều thú vật tiền sử đă cứng thành đá.

 (7) Giống dân chánh thứ ba là dân Lemurien mới có xác phàm (corpa phyaique) mở thêm thị giác (la vue) và dùng thị giác một lượt với thính giác và xúc giác. Phân chia nam nữ khởi điểm từ giống dân thứ ba này. Dân da đen hiện nay ở Phi Châu và thổ dân ở Uc Châu và Tasmanie, dân Papous Hottentots, dân Dravidiens ở miền nam Ấn Độ, Tất cả dân kể đây đều là nhánh của giống dân thứ ba (Lemuriens) .

 

Châu Atlantide khi bị ch́m (1) làm chết 64 triệu sinh linh, hầu hết là những linh hồn c̣n kém phần tiến hóa, nên rất phách lối kiêu căng, tự tôn tự đại, không tin có trời Phật, không chịu theo chánh giáo, dùng tà thuật tàn sát lẫn nhau ghê gớm nên bị luật trời tiêu diệt cho châu Atlantide ch́m sâu đáy biển. trong lúc ấy có một số người có mầm nhân đạo được Tiên thánh cứu thoát đem một mớ qua Mỹ Châu, lưu lại hiện nay là dân da đỏ (2) . Về sau những linh hồn dân ở Atlantide đầu thai vào giống dân da vàng, rồi tiến lần qua da trắng hin nay (3) .

Bảy giống dân phụ của giống dân chánh thứ tư xin kể dưới đây:

Dân phụ thứ nhất: của giống dân chánh thứ tư là dân Mộ hà (Rmohal) thủy tổ của người La bông (Lapon) bây giờ.

Dân thứ hai: Là giống dân Thát Đát (Tlavatlis) thủy tổ của dân Mă Lai và Xiêm.

Dân phụ thứ ba: là dân Tôn Tích (Toltecs), dân da đỏ, dân Arteque ở Mỹ Châu.

Dân phụ thứ tư: Là dân Tân cương (Touraniens) thủy tổ của người cỗ Trung Hoa, ở giữa lục địa Trung Hoa, sanh ra đời hồi 800. 000 năm trước Tây Lịch.

Dân phụ thứ năm: Là giống dân cỗ Do Thái (Semites) thủy tổ của dân Do Thái và dân Kobyles ở bắc Phi Châu, sanh ra lối 750. 000 trước Tây Lịch.

Dân phụ thứ sáu: Là dân Ái Kha (Akkadiens) sanh ra tại đảo Sardaigne, gồm dân Pelasges, Etrusques, Carthaginois, Sythes.

Dân phụ thứ bảy: Là dân Mông Cổ sanh ra tại Tartarie miền Đông Tây Bá Lợi Á, thủy tổ của người Tân Trung Hoa người Mông Cổ, người Nhật và người Việt Nam.

 

Giống dân chánh thứ năm và 7 giống dân phụ

Là người da trắng, xin kể dưới dây:

Giống dân chánh thứ năm: Là giống dân Ấn Âu (Aryens) khởi sanh ra cách nay 100. 000 năm, tại miền núi phía Bắc Routa.

Giống dân phụ thứ nhất của dân chánh thứ năm.

Là giống dân Ấn Độ, sanh ra 600. 000 năm trước Tây Lịch.

 

Dân phụ thứ nh́ : Là dân Ả Rập (Arabe) khởi sanh ra 40. 000 năm trước tây lịch.

Dân phụ thư ba: Là dân Ba tư (Perse) dân Ai Cập (Egyptian) sanh ra 30. 000 năm trươc tây lịch.

Dân phụ thứ tư: Là dân Thanh Tề (Celtes) sanh ra 20. 000 năm trước tây lịch. Dân Celtes là thủy tổ của dân Hy Lạp, Albanie, Liban, Ư Đại Lợi, Pháp, Y pha Nho, Bỉ, Thụy Sĩ, và Ái Nhỉ Lan (1) .

Dân phụ tứ năm: Là dân Nhật Nhỉ Mản (Teutons) sanh ra một lúc với dân phụ thứ tư, cách 20. 000 năm trước tây lịch, giống dân này gồm có : Anh, Mỹ, Nga, Đức (Anglo Saxon) Ba Lan, Serbe, Nam Tư, Letton (2) Ḥa Lan (Hollande) và Slaves Scandinaves.

Tiến hóa nhất hiện nay là giống dân phụ thứ sáu của giống dân chánh thứ năm, ra đời trong thế kỷ thứ 19, hiện nay mới có một ít người ở Uc Châu, Mỹ Châu và Anh Quốc. Giống dân này mở từ bi bác ái đi đến đại đồng (Huynh Đệ) .

Nhiều người trong giống dân phụ thứ sáu, mở được giác quan thứ sáu (sixie`me sens) tức là thần nhăn.

Trong khi học đạo tại Ấn Độ, tôi (Nguyễn văn Lượng) được tiếp xúc với hai người thuộc giống dân phụ thứ sáu : Bà Bác Sĩ Bandit người Anh và ông Hodson (3) cũng người nước Anh hiện nay sang ở nước Tân Tây Lan (Nouvelle zelande) Uc Châu, cả hai đều có thần nhăn, thấy được xương gan ruột của chúng ta, và luôn cả linh hồn chúng ta bằng thần nhăn khỏi cần dùng đến X quang (Rayon X) .  

 

Chú thích : (1) Châu Atlantide rất lớn, bị ch́m đến bốn lần mới hết trọn. Lần thứ nhất hôi năm 800. 000 trước tây lịch, một phần lớn về phương bắc bị ch́m trước. Qua lần thứ hai, ch́m thêm một phần nhỏ hơn vào năm 200. 000 trước tây lịch. Lần thứ ba vào hồi năm 75. 025 trước tây lịch ch́m thêm một phần lớn c̣n lại, qua năm 9. 564 trước tây lịch ch́m lần chót làm cho châu Atlantide thành Đại Tây Dương bây giờ đây. Trọn cả một châu ch́m sâu dưới đáy biển.

 (2) Về sau, có một số người Esquimaux, từ miền bắc cực (Á Châu) đi qua Mỹ Châu, nhập vào dân da đỏ.  

 (3) Có một thời gian Tiên Thánh đầu thai xuống châu Atlantide, dạy dỗ, d́u dắt giống dân này tiến hóa quá cao, tạo được nhiều thành tích tối tân, nhưng về sau Tiên Thánh rút lui, để cho dân ấy tự tiến.

 

 (C̣n giống dân phụ thứ bảy, của dân chính thứ năm, và dân chánh, dân phụ thứ sáu, thứ bảy chưa ra đời.

Trong nhân loại phải sanh ra trên địa cầu này, trong một ngươn (Période mondiale) chẳng những c̣n giống phụ thứ bảy của dân chánh thứ năm chưa ra đời mà c̣n giống dân chánh thư sáu và dân chánh thứ bảy cùng giống dân phụ của hai giống dân chánh thứ 6 và thứ 7 cũng chưa ra đời.

Cả hai giống dân chánh thứ 6 và thứ 7 và 14 dân phụ chót này sẽ sanh ra trên một đại lục mới từ đáy biển Thái B́nh Dương nổi lên.

Giống dân thứ sáu mở được thần nhăn và xuất vía dễ dàng, nên giao du các xứ trên địa cầu, khỏi cần dùng máy bay hoặc xe hơi. . . trong nháy mắt họ xuất vía (xuất hồn) đi đến bất cứ nơi nào trên thế giới.

Họ không đau ốm và biết trước ngày chết, khi chết không một người khóc, và cũng không ai chia buồn, v́ họ biết rơ chết là tạm đi vắng một lúc, rồi sẽ trở lại để học hỏi cho đến hoàn toàn giải thoát.

Trước khi chết, họ chọn cha mẹ tương lai trong một đôi vợ chồng trẻ, nào đó, để gởi đồ vật kỹ niệm đặng sau nầy đầu thai trở lại làm con (1)

Chừng ấy đôi trai gái kết hôn với nhau là v́ bổn phận đối với đoàn thể, và sự lợi ích chung, chớ không c̣n dục t́nh như hiện nay. Mọi người đều ăn chay, sống rất khỏe trên 100 tuổi không bệnh và chừng ấy cũng không cần bác sĩ. Đời sống của họ như thiên đàng tại thế. Chừng ấy thế giới thật thái b́nh không c̣n xâu xé v́ miếng ăn, coi nhau như anh em; nước giàu giúp nước nghèo là một danh dự, là bổn phận thiêng liêng, v́ thế mà không c̣n ai đói khổ. Bảy trăm năm nữa, giống dân chánh thứ sáu sẽ ra đời (trên một địa lục mới, địa lục thứ sáu sẽ gọi là địa Lục “ LEMURIE’’ từ đáy biển Thái B́nh Dương nổi lên.  (2)

C̣n giống dân thứ 7 lại càng tiến hóa hơn nữa, h́nh dung tốt đẹp, dáng điệu trang nghiêm tao nhă, trí thông minh tuyệt vời, tâm hồn tràn trề t́nh thương và đức khoan dung, sẽ ra đời, sanh ra trên một địa lục mới, địa lục thứ 7 gọi là địa lục Pushkara.

Cuộc Phán xét cuối cùng

Từ đây cho đến cuộc phán xét cuối cùng, gọi là LONG HOA, c̣n có nhiều cuộc phán xét nhỏ (trong những trận giặc lớn) gọi là LONG VÂN. Phán xét cuối cùng là cơ hội tốt để giúp cho người tiến hóa được mau giải thoát, và thật tiếc thương cho đồng loại chậm tiến hóa bị bỏ rơi lại. Từ đây tới giữa cuộc tuần hoàn thứ năm tức là c̣n một cuộc tuần tuần hoàn nữa, sẽ có đại phán xét cuối cùng, những linh hồn chậm tiến sẽ bị bỏ rơi lại và sẽ bị đưa vào một cảnh giớ tê liệt gọi là “ Pralaya’’ ở đây họ sống như mê như ngũ, không tiến hóa được nữa, sống như vậy trong một gian lối 8. 000 triệu năm, chờ chừng nào, nơi một bầu trái đất mới sẽ sinh ra, trên bầu trái đất ấy loài thú tiến hóa, thành loài người và sự tiến hóa của nó sẽ được ngang hàng tiến hóa với nhữ người bị bỏ rơi, chừng đó Đức Thượng Đế sẽ cho những linh hồn sống như mê như ngũ bị bỏ rơi kia, trở xuống hồng trần tại một thế giới khác hơn địa cầu hiện nay, để họ nối tiếp cuộc tiến hóa.

Trái lại, sau cuộc phán xét cuối cùng, những linh hồn không bị bỏ rơi, sẽ tiếp tục tiến hóa dễ dàng mau chóng v́ họ sẽ sống chung với những người tốt, nhân đức, họ tranh nhau về việc đạo đức và tu hành cho mau được giải thoát

 

Chú thích: (1) Về sau, tŕnh độ của giống dân chánh thứ 6 và thư 7, sau khi chết họ từ khước hưởng phước ở cảnh Thiên Đàng hay là Cực lạc Quốc, và tự nguyện đầu thai gấp trở lại trần thế để tiến hóa, cho được mau giải thoát kiếp làm người để trở thành một Siêu nhân.

 (2) Địa lục Lemurie xưa kia là địa lục của giống dân Lemurie, bị ch́m sâu đáy biển, sau này sẽ nổi lên trở lại để tiếp rước giống dân thứ sáu.

 

 Đây là một cơ hội biết qua về thần nhăn của ông Hodson :

Ban tôi Ông A. Relton, một sinh viên lớn tuổi nhất nơi trường Minh Triết (School of the wisdom) Tại Adras, Ấn Độ. năm ấy ông ngoài 80 tuổi, đau cần cổ không có một Bác Sĩ nào điều trị được. cùng đường ông yêu cầu ông Hodson dùng thân nhăn xem ông đau bịnh ǵ.

Ông Hodson liền bảo ông Relton ngồi trước mặt để ông xem. Ông Hodson nhắm mắt lại dùng thần nhăn quan sát từ đầu đến chân. Khi thần nhăn ḍm cần cổ, ông thấy nơi cổ ông Relton, hai khớp xương trịch qua một bên, ông liền vẽ ra cho ông Relton thấy, nhưng ông nói, vẽ như thế này Bác Sĩ không tin, vậy tốt hơn nên đến nhà chụp h́nh quang tuyến (X quang), chụp một h́nh nơi cần cổ, sẽ thấy rơ khớp xương trịch ấy, rồi Bác Sĩ sẽ trị y như lời ông Hodson đă nói. Tấm h́nh quang tuyến X lộ rơ hai khớp xương trịch qua một bên, Bác Sĩ chuyên môn coi theo đó, dùng ngón tay bóp lại khớp xương hết trịch, ông Relton hết bịnh nơi cần cổ.

Tôi c̣n được biết mỗi ngày ông Hodson xuất vía (xuất hồn) một giờ, để đi lên cảnh trung giới (cảnh của người chết ở) để dùng thần nhăn quan sát cảnh ấy, để rồi dạy sinh viên nơi trường ‘’ School of the wisdom’’. Lúc ông xuất vía, có một người tốc kư (Stenographe) ghi chép những ǵ ông thấy nơi cảnh vô h́nh, tức nói ra miệng. Khi hồn ông trở về nhập xác, ông xem lại coi tốc kư biên chép c̣n chi sơ sót không.   Khi nào ông dùng đến thần nhăn, th́ ông nhắm mất phàm lại; rồi có nhiều bằng cớ thiết thật về thần nhăn của ông cái thấy của ông khác thường hơn quần chúng.

 

 

Rốt cuộc tuần hoàn thứ 7 trái đất này sẽ già cỗi v́ hết sinh lực, sẽ chết như mặt trăng là một bầu trái đất đă chết từ lâu lắm rồi vậy.

Nhân loại c̣n ở lại cuối cùng của dăy địa cầu này trước khi địa cầu sắp chết sẽ có lối 12. 000 triệu người sẽ được đắc quả La Hán, lối 12. 000 triệu người sẽ được điểm đạo từ bậc thứ nhất là Tu Đà Hườn đến bậc thứ ba là A Na Hàm. C̣n lối 24. 000 triệu người sẽ thất bại bị bỏ rơi, và sẽ bị đưa vào cảnh giới tê liệt. gọi là (Pralaya) . Tính chung tất cả nhân loại tùy thuộc địa cầu này là lối 60. 000 triệu. Hơn 2. 000 triệu hiện có mặt tại địa cầu c̣n lối 58. 000 triệu c̣n ở các cửa vô h́nh, tức là ở từ cảnh địa ngục, trung giới và thượng giới v. v. . . (1) .

Về sau, sau khi địa cầu chết, xác thể của địa cầu sẽ thành ặt trăng, để trở thành mặt trăng hiện nay, nó sẽ tan ră, trước khi trái đất chết.

Xét lịch tŕnh tiến hóa thiên nhiên của địa cầu, th́ trái đất ta đă sống được nữa đời, v́ nguồn sinh lực đă đi đến phân nữa cuộc tuần hoàn thứ tư (2) tức là trái đất đă sống được lối 2. 156 triệu năm và c̣n sống thêm lối 2. 156 triệu năm nữa mới măn phần. Sanh mạng của trái đất tùy thuộc bảy lần nguồn sinh lực của 7 tuần hoàn, mà mỗi cuộc tuần hoàn kéo dài lối 616 triệu năm (616 nhân với 7 th́ bằng 4. 312 triệu năm) tức là tuổi cuối cùng của trái đất. Xưa kia ở dăy nguyệt cầu, nhân loại và vạn vật ở mặt trăng cũng nhờ nguồn sinh lực này mà sống (cũng như loài người nhờ không khí mà sống vậy) bấy giờ nguồn sinh lực đă đi qua hết 7 ṿng, tức là đă măn nhiệm vụ nuôi sống nguyệt cầu, nên nguyệt cầu phải chết (hiện nay trên mặt trăng không c̣n một chút sinh khí nào cả) v́ nguồn sinh lực đă sang qua địa cầu

 

 Chú thich: (1) Số 60. 000 triệu linh hồn nhân loại hiện nay, là những linh hồn từ dăy Nguyệt Cầu đem qua Địa Cầu, sau khi Nguyệt Cầu chết.

Trong số 60. 000 triệu linh hồn này phần lớn là hồn thú, khi qua Địa Cầu được tiến lên đến nay thành hồn người.

C̣n một số ít loài người ở Nguyệt Cầu qua Địa Cầu, đến nay đă thành Tiên thánh hết rồi. Có thể nói tất cả nhân loại c̣n lại hiện nay đều là hồi ở Nguyệt Cầu và thành người ở Địa Cầu cho đến ngày nay.

Sự thật như vậy, chúng ta không nên lấy làm lạ, và c̣n phải nh́n nhận rằng tuy chúng ta hiện nay tiến hóa khá nhiều nhưng hầu hết vẩn c̣n thú tánh: hung hăng, tàn bạo, ưa thích dục t́nh, ham ăn và lắm người ngu ngốc gần như loài thú, biết được như thế, chúng ta hăy coi loài thú hiện nay là em út chúng ta, để đừng tàn nhẫn với chúng nó và ăn thịt chúng nó và c̣n phải thương chúng nó, (nhất là thú vật nhà; chó, mèo, ngựa, voi, khỉ v. v. . . là những thú sẽ thành người), dạy dỗ chúng nó tiến hóa mau thành người, như Phật Thánh Tiên lo giúp chúng ta để thành Phật Thánh Tiên vậy.

 (2) Cả thảy là 7 triệu tuần hoàn, luồng sinh lực đi qua 7 lần, mà hiện nay nguồn sinh lực đă đi đến 3 cuộc tuần hoàn rưỡi hay là đi đến phân nữa tuần hoàn thứ tư (coi h́nh trang phụ) .,

 

 Để nuôi sống chúng ta đến ngày nay, và sau này, bao nhiêu con người, thú vật v. v. . . ở dăy Nguyệt cầu cả thảy lối 60. 000 triệu, đều sang qua Địa Cầu để tiếp tục sống và tiến hóa.  (1)

Bởi thế, dầu khoa học có khám phá được Nguyệt Cầu lên tận mặt trăng, phải đem theo sinh lực (dưỡng khí) mà sống, chớ trên mặt trăng không c̣n chút dưỡng khí nào cả.

 oooOooo  

 Thoát kiếp làm người

Làm thế để khỏi bị bỏ rơi trong phán xét nhỏ (LONG VÂN) sắp đến gần đây sau trận giặc thứ ba và cuộc phán xét cuối cùng (LONG HOA) ở giữa cuộc tuần hoàn thứ năm, tức là c̣n 616 triệu năm nữa.  (2) Làm thế nào để được thoát kiếp làm người để trở thành một siêu nhân (Phật Thánh Tiên) . Đó là mục tiêu mà người khôn ngoan đều phải nhắm mà tiến bước.

Một phương pháp duy nhất, muốn được giải thoát, chúng ta phải học hỏi với những Đấng đă được giải thoát, tức là phải làm đệ tử của những Đấng Trọn Lành ấy. Nếu ta chưa đủ đức hạnh để được thâu nhận làm đệ tử của một Đấng Trọn Lành, th́ ta phải tập luyện, học hỏi noi theo đường lối các Ngài đă chỉ dạy, hoặc gần gũi, học hỏi với những người đă được các Ngài thâu nhận làm đệ tử, hoặc học hỏi nơi kinh sách của những người đệ tử viết ra.

Dài theo con đường tiến hóa, có biết bao bậc đàn anh của nhân loại chúng ta đă vượt đến mức tiến hóa cao cả, tức là đă được giải thoát kiếp làm người mà đă trở thành một đấng siêu nhân, Thánh sư của nhân loại, (tức là đă thành Phật Thánh Tiên) .

Lịch sử cận đại cho chúng ta biết: Đức Phật THÍCH CA, ĐỨC DI LẠC BỒ TÁT, ĐỨC LĂO TỬ, xưa kia là người như chúng ta vậy. Nhờ đâu mà ngày nay Ngài đă thoát khỏi ṿng sanh tử luân hồi,


      

Chú thích: (1) C̣n nơi Địa Cầu hiện nay dều là thảo mộc từ dăy Nguyệt Cầu sang qua Địa Cầu tiến hóa thành thú vật. . .

 (2) Từ nay đến cuộc phán xét cuối cùng c̣n lối 616 triệu năm nữa, đừng thấy c̣n xa mà chễnh măng, e tiến hóa không kịp giờ, v́ nhân loại tiến về phần tinh thần rất chậm. ḍm lại từ ngày linh hồn của chúng ta từ Nguyệt Cầu sang qua Địa Cầu đến nay đă bao nhiêu triệu năm rồi, đă hơn 2152 triệu năm rồi, chết đi đầu thai lại hơn một triệu lần mà chúng ta tiến hóa c̣n rất dở dang c̣n rất thấp kém, với tŕnh độ hiện nay trong một triệu người trong hàng nhân loại chưa có người tiến hóa tới mức Tu Đă hoàn, tức là chưa được điểm đạo lần thứ nhất là chưa khỏi bị bỏ rơi ở lại vậy.

Nếu chúng ta không cố gắng tu hành nhiều hơn nữa th́ chúng sẽ bị rớt nơi kỳ LONG HOA (phán xét cuối cùng) bị rơi vào cảnh giới tê liệt, (pralaya) đến 8. 000 triệu năm, sống như mê, như ng. Cảnh ấy, không tiến hóa được chờ chừng nào loài thú ở một Địa Cầu mới, tiến hóa ngang bằng, chừng ấy linh hồn bị bỏ rơi kia mới được trở xuống để tiến hóa.

Tiến hóa về phần tinh thần thật rất khó, vô cùng khó khăn, đối với người thường, không biết cách tu, không cố gắng tu, th́ cả một kiếp người chưa chắc có thể sửa đổi được một tánh xấu nhỏ (hồi nhỏ có tánh xấu ǵ, đến già vẫn c̣n tật nấy) . Ví như muốn diệt cho được tánh kiêu căng, phách lối, chưa chắc 100 kiếp mà người không biết cách tu diệt được. C̣n nói về tánh ích kỷ, cũng không chắc mà 1.000 kiếp mà người không cố gắng diệt trừ nổi tánh ấy. người tu hành mà c̣n 2 tánh này, không sửa được, th́ không hy vọng thoát khỏi, bị bỏ rơi nơi lúc phán xét cuối cùng. Ngoài những tánh xấu phải trừ tuyệt cho được, c̣n phải mở rộng ḷng nhân, ḷng từ, hy sinh hạnh phúc của ḿnh để phụng sự Thiên Cơ, tức là phụng sự nhân loại, giúp cho nhân loại mau tiến hóa, lại càng khó khăn hơn nữa.

Danh Lợi T́nh nó cứ lôi cuốn chúng ta vào ṿng tội lỗi, nếu ta không kềm hăm, chế ngự nó được, th́ ta không mong giải thoát được. Phật Thánh Tiên v́ thấy sự khó khăn ấy sợ chúng ta tiến không kịp, nên hiện nay tất cả Tôn giáo trên thế giới đều đă được Tiên Thánh báo tin và hối thúc, để chúng ta đừng chnh mng, chần chừ mà phải cô gắng tu cho kịp giờ hoặc sớm hơn hầu qua khỏi, không bị bỏ rơi, ở lại nơi hội LONG HOA (phán xét lần cuối cùng) .

 

 

Để trở thành siêu nhân, nêu gương sáng, khiến chúng ta phải cúi đầu thờ kính. Các Đấng ấy đâu có mất, các Ngài đă có mặt từ ngàn xưa và ngày nay vẫn c̣n, các Ngài là đàn anh cao cả của chúng ta, xưa kia đă nguyện giúp chúng ta, th́ nay vẫn c̣n luôn luôn giúp đỡ nhân loại để được tiến hóa cao cả như các Ngài .  

 V́ ḷng quá thương nhân loại, các Ngài đă được giải thoát rồi nhưng không chịu rời bỏ cảnh trần gian để tiến hóa trên các cảnh cao, các Ngài c̣n hy sinh v́ chúng ta là nhập vào Quần Tiên Hội (hay là Thiên Đ́nh do Đức Ngọc Đế lập ra để lănh nhiệm vụ cứu nhân độ thế, giúp cho nhân loại tiến hóa như các Ngài) .

Sau khi được giải thoát kiếp làm người để trở thành Chơn Tiên (ASEKA)  th́ trước mắt có 7 con đường tiến hóa cao siêu hơn, vị Chơn Tiên phải chọn 1 trong 7 con đường kể dưới đây :

Con đường thứ nhất : Nhập vào cảnh toàn phúc ở Niết Bàn, với một năng lực hoạt động vô cùng cao siêu không thể tả nổi, hầu có thể trở nên một Avatar (Hóa thân) của Đức Thượng Đế, trong bầu vũ trụ vị lai. Các bậc tấn hóa theo con đường này, tiếng phạn gọi là Dharmakakya, chỉ giữ Chân thần (Monade) mà thôi, và ngự tại cỏi niết bàn, không c̣n giao tiếp với cỏi đời vật chất nữa   ;

Con đường thứ nh́ : Nhập vào Niết Bàn, nhưng vẫn c̣n giữ ba ngôi của chân nhân (Atma Bouddhi Mnas) và ba hột nguyên tử trường tồn (Trois atmespermanents) của chơn thân (corps nirvanique) tiếng phạn gọi vị ấy là Sambhogakaya.

Con đường thứ ba : vẫn ở mấy cơi thấp, không nhập Niết Bàn, không lănh chức trong Quần Tiên Hội, không giữ xác phàm. C̣n giữ cái thể Thượng Trí tức là Chơn Thân (corps causal) và ba hột nguyên tử trường tồn của (xác phàm, thể vía và hạ trí) nên có thể biểu hiện ở cỏi nào cũng được, để giúp tinh thần cho nhân loại. Tiếng phạn gọi các Ngài là nirmana kaya.

Đường thứ tư : Các Ngài giữ xác phàm y như thể xác của chúng ta vậy (có quyền phép không già không chết) và ở lại cơi trần để giúp cho nhân loại tiến hóa, và lănh chức tước ở Thiên Đ́nh làm nhân viên của Quần Tiên Hội. Có vài vị thâu nhận đệ tử phàm tục c̣n phần đông không dạy học tṛ v́ không được rảnh rang. .

Đường thứ năm : Hiệp tác với các vị Đại Thiên Thần để lo lập dăy trái đất mới dăy thứ năm (5 échaine) thế cho dăy trái đất này (là dăy thứ tư) sẽ chết sau cuộc tuần hoàn thứ 7 (7è ronde) .

Đường thứ sáu : Nhập vào đường tiến hóa vi diệu của Đại Thiên Thần .

Đường thứ bảy : Nhập vào bộ tổng tham mưu của Đức Thái Dương Thượng Đế (Logos solaire), để thi hành Thiên ư, đem chỉ dụ của Đức Thái Dương Thượng Đế trong khắp mười hệ thống tiến hóa của thái dương hệ (dix Systèmes solaires) . Đó là con đường khó nhọc hơn hết, một hy sinh cao cả của vị Chơn Tiên (ASEKA=Adept).

 Hiện nay có độ có độ 60 Đấng Siêu Nhân c̣n giữ xác phàm các Ngài chia địa cầu ra nhiều khu vực để coi sóc, giúp đ nhân loại

QUẦN – TIÊN – HỘI LÀ G̀?