Autobiographe D’un Yogi của Yogānanda 

 

NGUYN HU KIT dch

Tủ sách huyền môn Theosophia A.A. Bailey

NGUYỄN HỮU KIỆT dịch NGUYỄN MINH TIẾN hiệu đính TỦ SÁCH HUYỀN MÔN

 

CÁC BC CHÂN SƯ YOGI N ĐỘ

Dịch từ nguyên tác Autobiographe D’un Yogi của Yogānanda

LỜI GIỚI THIỆU CHƯƠNG I THỜI NIÊN THIẾU CHƯƠNG II MÓN LINH PHÙ CHƯƠNG III PHÉP PHÂN THÂN CHƯƠNG IV ĐƯỜNG LÊN HY MĂ LẠP SƠN CHƯƠNG V NGƯỜI ĐÁNH CỌP CHƯƠNG VI THUẬT PHI THÂN CHƯƠNG VII ĐỨC PHẬT MẪU QUÁN THẾ ÂM CHƯƠNG VIII SƯ PHỤŚRĪ YUKTESWAR CHƯƠNG IX CHUYẾN ĐI BẰNG ĐỨC TIN CHƯƠNG X CUỘC SỐNG Ở TU VIỆN CHƯƠNG XI SỰ GIAO CẢM NHIỆM MẦU Ghi chú

 

LỜI GIỚI THIỆU

Quyển hồi kư này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo v́ nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ. Không phải nó được viết ra bởi một kư giả hay văn sĩ ngoại quốc, mà bởi một tác giả cùng một ṇi giống và cùng một nền giáo dục tâm linh với những người mà ông mô tả. Nói tóm lại, đây là một quyển sách của một người Yogi viết về những người Yogi. Dưới h́nh thức một truyện tường thuật của một nhân chứng tiết lộ cho chúng ta biết cuộc đời và các quyền năng lạ lùng của những bậc hiền giả của xứ Ấn Độ hiện nay, quyển sách này có một tầm quan trọng rất lớn vượt qua cả thời gian. Độc giả cũng sẽ có dịp thưởng thức những câu chuyện đầy thú vị về cuộc đời của tu sĩ Yogananda mà bản thân tôi từng có hân hạnh được gặp ởẤn Độ và Hoa Kỳ. Tôi cũng tin là độc giả sẽ dành cho quyển sách này một sự phán đoán tương xứng với giá trị của nó, v́ đây là một trong những tập tài liệu đă biểu lộ một cách hoàn toàn nhất tinh thần của người Ấn và phơi bày những kho tàng tâm linh quí báu của xứẤn Độ, một tài liệu chưa từng được công bốở các nước Tây Phương và trên thế giới.

W. Y. EVANS WENTZ Tiến sĩ Khoa hc Trường Đại hc Jesus College, Oxford

 

CHƯƠNG I THI NIÊN THIU

Tôi sinh ra ở Gorakhpur1 thuộc miền Bắc Ấn Độ, trong một gia đ́nh khá giả với cả thảy 8 người con. Ngoài tôi ra là 3 anh em trai và 4 chị em gái. Tôi là con thứ tư, với 1 người anh và 2 người chị. Tên cha mẹ đặt cho tôi từ thuở nhỏ là Mukunda Lal Ghosh. Ngày tôi sinh ra đă rơi vào những năm cuối của thế kỷ 19, và trong những năm đầu tiên của cuộc đời, tôi được sống yên ổn tại quê nhà. Cha mẹ tôi đều sinh ra ở tỉnh Bengal. Các vị là những tấm gương sáng đạo đức không bao giờ phai mờ đối với tôi. Nhờ vậy, bầu không khí gia đ́nh mà trong đó 8 người con chúng tôi lớn lên bao giờ cũng ấm êm và ḥa thuận. Cha tôi là một người tốt. Nhưng có lẽ cũng giống như nhiều người cha khác trên thế gian này, dưới mắt chúng tôi ông bao giờ cũng tỏ vẻ nghiêm khắc, cứng rắn. Dù thế, chúng tôi đều hết ḷng thương yêu và kính trọng ông. Tên ông là Bhagabati Charan Ghosh, và là một trong những người sống theo toán học và lư luận, nghĩa là nghiêng về lư trí nhiều hơn cảm tính. Tuy vậy, từ ngày mẹ tôi qua đời, ông bắt đầu bộc lộ trọn vẹn t́nh thương yêu thắm thiết ông dành cho chúng tôi, mà có lẽ từ lâu ông đă cốđè nén chỉ giữ nó trong ḷng. Khi ông nh́n chúng tôi, tôi thấy phảng phất trong đó nét tŕu mến mà mẹ tôi vẫn dành cho chúng tôi khi bà c̣n sống. Hồi đó, cha tôi là phó chủ tịch của công ty đường sắt Bengal Nagpur, một trong những công ty lớn của

Ấn Độ. Công việc này đ̣i hỏi gia đ́nh chúng tôi phải di chuyển chỗở khá thường xuyên, và v́ thế, thời niên thiếu của tôi đă trải qua nhiều thành phố khác nhau. Mẹ tôi là một người phụ nữ tuyệt vời. (Và tôi vẫn thường tự hỏi, trên thế gian này có người mẹ nào là không tuyệt vời đối với con cái họ?) Bà chăm sóc chúng tôi chu đáo, v́ bà không phải làm ǵ thêm cho vấn đề sinh kế của gia đ́nh. Công việc của cha tôi đủ nuôi sống cả gia đ́nh một cách khá đầy đủ. Bao giờ mẹ cũng tắm rửa sạch sẽ và mặc quần áo tươm tất cho anh em chúng tôi vào mỗi buổi chiều khi đón cha về từ công sở. Bà làm như thế để tỏ ḷng kính trọng cha tôi, mà cũng là biểu lộ t́nh thương yêu với chúng tôi nữa. Dĩ nhiên là cha tôi rất vui v́ điều ấy. Mẹ tôi luôn rộng ḷng với những kẻ nghèo khó. Vấn đề là đôi khi bà vượt quá những khuôn thước, chuẩn mực mà cha tôi muốn cả gia đ́nh phải tuân theo. Mặc dù mức thu nhập của cha tôi rất cao, nhưng ông không thích sống xa xỉ và chi tiêu tiền bạc bừa băi. Ông muốn ngân sách gia đ́nh được giữ theo một chuẩn mực điều độ và hợp lư. Có một lần, chỉ trong nửa tháng mẹ tôi đă chi ra cho việc giúp đỡ những người nghèo khó nhiều hơn cả số tiền cha tôi mang về trong một tháng. Cha tôi nói với bà:

- Tôi muốn bà hăy giới hạn việc bố thí, giúp đỡ trong một mức độ hợp lư. Mẹ tôi là người rất nhạy cảm với mọi sự chỉ trích của cha tôi. V́ thế, bà không đáp lại ǵ, chỉ lẳng

lặng mang hành lư đi ra cửa, gọi một chiếc xe ngựa và nói:

-Tôi về nhà mẹ tôi đây. Phụ nữẤn Độ nói chung, chẳng riêng ǵ mẹ tôi, từ xưa nay vẫn thường hăm dọa chồng như thế mỗi khi gia đ́nh có chuyện bất ḥa. Nhưng chúng tôi chưa đủ lớn để hiểu điều đó, và ̣a lên khóc nức nở. Vừa khi ấy th́ cậu tôi đến. Ông kề tai cha tôi nói nhỏ một điều ǵ, mà sau này tôi mới hiểu đó hẳn là một lời khuyên sáng suốt đă từng được chứng nghiệm tính đúng đắn của nó qua nhiều thế kỷ. Cha tôi xin lỗi mẹ, và bà mang hành lư vào nhà, cho chiếc xe ngựa chạy về trống không. Và như thế là chấm dứt cuộc bất ḥa duy nhất mà chúng tôi được chứng kiến giữa cha với mẹ. Những lần sau này, sự việc đúng là diễn ra theo cách khác hơn. Có lần, mẹ tôi bảo cha tôi:

 

– Có người đàn bà tội nghiệp đang chờ tôi trước cửa. Bà ấy rất cần 10 đồng ru-bi. Ông hăy đưa cho tôi số tiền ấy. Cha tôi phản đối nhẹ nhàng:

 

– Sao đến những 10 ru-bi! Bà có thể đưa cho bà ấy 1 ru-bi cũng đủ tỏ rơ ḷng tốt của bà rồi kia mà. Và cha tôi tiếp tục thuyết phục mẹ bằng cách kể lại những giai đoạn khó khăn trong đời ḿnh. Có lúc, ông chỉăn bữa trưa bằng một quả chuối nhỏ, vậy mà ông vẫn theo đuổi việc học. Khi ông vào đại học, ông đă phải van nài một vị thẩm phán giàu có để xin món tiền trợ cấp hằng tháng là 1 ru-bi, nhưng ông này đă từ chối với lư do một khoản tiền như thế là quá nhiều.

Mẹ tôi chăm chú lắng nghe ông, và cuối cùng bà nhoẻn một nụ cười thật tươi với vẻ đắc thắng, bảo cha tôi rằng:

– Ông thấy chưa? Sự từ chối đó đă làm cho ông cay đắng biết bao nhiêu, nên ông đă ôm ấp nó măi cho đến ngày nay. Thế mà ông c̣n muốn lặp lại sự việc như thế với người đàn bà tội nghiệp này sao? Để rồi bao nhiêu năm nữa bà ta cũng sẽ không sao quên được ngày này hay sao? Cha tôi bật cười x̣a trước lập luận hết sức thực tế của mẹ tôi. Ông nói:

 

– Vâng, bà đă nói đúng. Và đây là 10 ru-bi, hăy đưa cho người đàn bà ấy cùng với lời chúc phúc của tôi. Anh em chúng tôi được nuôi dạy trong khuôn khổ lễ giáo chặt chẽ của gia đ́nh. Cha tôi áp dụng những kỷ luật nghiêm khắc đối với chúng tôi, và chính ông cũng nêu gương một đời sống biết tự chế và khắc khổ. Ông không bao giờđi xem hát. Ông dành thời gian rỗi rảnh cho việc tu dưỡng công phu và đọc thánh kinhBhagavad. Mặc dù không hề thiếu thốn về tiền bạc, ông không chấp nhận bất cứ sự xa xỉ, hoang phí nào. Ông mang những đôi giày cho đến khi chúng không thể nào sử dụng được nữa rồi mới bỏđi. Khi xe hơi trở nên phổ biến với các gia đ́nh giàu có ởẤn Độ, anh em chúng tôi đều có, nhưng cha tôi th́ vẫn đi bộ mỗi sáng đến trạm xe buưt và đi xe buưt đến sở làm. Cha tôi chưa bao giờ bị lôi cuốn vào những ham mê vật chất. Sau khi ông góp sức thành lập được ngân hàng thành phốở Calcutta, ông từ chối không nhận phần chia lăi của ḿnh, và nói rằng đó chỉ là việc

 

làm trong bổn phận. Khi cha tôi đă về hưu được khoảng 2 năm, có một nhân viên kiểm toán người Anh đến kiểm tra sổ sách của công ty ông. Người này kinh ngạc khi thấy rằng cha tôi vẫn chưa nhận phần chia lăi thuộc về ông. Sau khi xem xét tất cả sổ sách của công ty, ông ta kết luận là cha tôi đă làm được những phần việc bằng với 3 người khác, và công ty buộc phải trả cho cha tôi một khoản tiền là

125.000 ru-bi – một khoản tiền kếch sù vào thời điểm đó! Công ty tuân thủ quyết định ấy và gửi cho cha tôi tấm ngân phiếu chi trả đủ số tiền trên. Nó được chuyển vào tài khoản của cha tôi ở ngân hàng, nhưng ông dường như không quan tâm mấy đến việc này và chưa từng một lần nhắc đến. Măi về sau này, em trai tôi là Bishnu phát hiện thấy một số tiền lớn trong tài khoản của ông ở ngân hàng, mới mang sự việc ra hỏi ông và nhờđó mà chúng tôi được biết. Khi ấy, cha tôi bảo chúng tôi:

 

– Tại sao người ta phải quan tâm nhiều đến của cải, vật chất? Người đi theo con đường sáng tâm linh không vui mừng v́ được lợi lộc, và cũng không đau buồn khi bị thua lỗ, mất mát. Người ấy hiểu được một sự thật mà lẽ ra ai ai cũng phải hiểu, đó là con người sinh ra không có ǵ cả và chết đi cũng chẳng mang theo được ǵ. Cha mẹ tôi đă quy y với thầy Lahiri Mahāsaya ở thành Bénarès chỉ ít lâu sau đám cưới hai người. Và tính cách khắc khổ tự nhiên của cha tôi càng tăng thêm hơn nữa sau sự kiện này. Mẹ tôi đă có lần tâm sự với chịUma của tôi rằng:

– Cha con và mẹ chỉ gần nhau mỗi năm một lần, với mục đích duy nhất là để có con. Việc cha tôi đến với thầy Lahiri Mahāsaya ở Bénarès là nhờ nơi chú Abinash Babu, một nhân viên thuộc quyền cha tôi, làm ở trạm Gorakhpur. Về sau, chú vẫn thường kể cho tôi nghe nhiều điều kỳ diệu về cuộc đời của các bậc thầy chứng ngộ trên toàn xứẤn, và cho rằng trong sốđó th́ thầy Lahiri Mahāsaya ởBénarès là cao cả hơn hết. Một ngày đẹp trời vào mùa hè, khi chúng tôi ngồi chơi trước hiên nhà, chú Abinash Babu chợt hỏi tôi:

– Cháu có muốn biết về trường hợp kỳ diệu đă xui khiến ba cháu đến quy y với thầy Lahiri Mahāsaya ởBénarès hay không? Tất nhiên là tôi rất ṭ ṃ muốn biết, và tôi biểu lộ điều đó bằng cặp mắt mở to tṛn xoe nh́n chú. Chú bắt đầu kể cho tôi nghe:

– Hồi đó cháu c̣n chưa ra đời. Ba cháu lúc bấy giờ là trưởng pḥng ở trạm Gorakhpur. Có một lần tôi xin phép được nghỉ một tuần để đến thăm thầy Lahiri Mahāsaya ở Bénarès, là vị tôn sư của tôi. Khi ấy, ba cháu bảo tôi rằng: “Nếu chú muốn tiến thân trên đường sự nghiệp, hăy siêng năng làm việc hơn nữa và quên những chuyện cuồng tín vớ vẩn ấy đi.” Ngày ấy, tôi rất buồn. Sau giờ làm việc, tôi theo một lối đi nhỏ trở về nhà và gặp ba cháu cũng đi kiệu về cùng đường. Ông cho những người phu khiêng kiệu trở lại, và xuống kiệu đi bộ cùngtôi. Ông biết tôi đang buồn và muốn lựa lời an ủi. Ba cháu vẫn là một người luôn đối xử tốt với nhân

viên như thếđó. Tuy nhiên, những lời an ủi của ông lúc bấy giờ chẳng lọt vào tai tôi, v́ tâm trí tôi đang măi nghĩ đến vị tôn sư của ḿnh là thầy Lahiri Mahāsaya ở Bénarès. Chúng tôi cùng đi qua một cánh đồng vắng lặng với ánh nắng chiều chưa tắt hẳn đang chiếu vàng trên từng ngọn cỏ. Không ai bảo ai, tự nhiên chúng tôi cùng dừng chân đứng lặng ngắm cảnh hoàng hôn tuyệt đẹp đang trải dài trên đồng cỏ. Ngay lúc ấy, cách chúng tôi không đầy mười thước, bỗng th́nh ĺnh xuất hiện thầy Lahiri Mahāsaya. Thầy cất giọng ôn ḥa từ tốn nói với cha cháu rằng: “Bhagabati, sao con quá khắt khe với nhân viên của ḿnh đến thế?” Giọng nói của ngài tuy không lớn lắm, nhưng có ǵ đó rất khác thường và như vang rền ra khắp chốn. Chúng tôi đứng lặng cả người không kịp tỏ ra bất cứ một phản ứng ǵ. Và ngay khi ấy th́ ngài biến mất. Cha cháu c̣n chưa hiểu ǵ, trong khi chú quỳ sụp xuống trên bờ cỏ và chắp tay gọi lớn: “Thầy Lahiri Mahāsaya, thầy Lahiri Mahāsaya tôn kính của con!” Khi ấy, cha cháu mới biết người vừa hiện ra một cách kỳ diệu trước mặt ông chính là vị thầy tôn kính mà tôi đang mong muốn được đến viếng thăm. Chú Abinash dừng một chút, như để nhớ lại giây phút bàng hoàng, kỳ diệu mà một đời người không dễ có mấy lần được trải qua. Rồi chú chậm răi kể tiếp:

– Sau khi cha cháu đă b́nh tĩnh trở lại, ông bảo tôi: “Này Abinash, chú sẽ được nghỉ phép theo như yêu cầu. Và chính tôi cũng sẽ nghỉ phép để cùng đi với chú. Tôi rất muốn được về nương tựa với bậc thầy

tôn kính ấy, và tôi cũng muốn mang cả vợ tôi theo nữa. Tôi mong muốn được chú giới thiệu với thầy để ngài thu nhận chúng tôi làm đệ tử.” Khi ấy, không chỉ ba cháu là chịu tác động mạnh mẽ từ sự hiện thân của thầy Lahiri Mahāsaya. Chính tôi cũng thấy tâm linh ḿnh ngập tràn niềm vui sướng và đức tin. Những suy nghĩ, mong muốn của tôi đă được đức tôn sư cảm nhận vượt qua không gian xa xôi, và ngài đă đáp lại lời cầu xin của tôi bằng một cách mà tôi không bao giờ ngờđến. Không hiểu sao, tôi cảm thấy có ǵ đó rất gần gũi trong chuyện kể của chú Abinash. Phải chăng những việc như thế này cũng đă từng xảy ra vào một lúc nào đó với tôi từ lâu xa trong tiềm thức? Tôi nôn nóng được nghe chú kể tiếp:

– Hôm sau, chúng tôi đáp chuyến xe lửa chiều, đến Bénarès. Tại đây, chúng tôi nghỉ lại một đêm, và qua hôm sau phải vất vả qua nhiều chặng đường gian khó, có lúc đi ngựa, có lúc đi bộ, mới đến được nơi tịnh thất vắng vẻ của thầy Lahiri Mahāsaya. Khi chúng tôi bước vào sảnh đường để chào ngài, ngài vẫn c̣n đang ngồi trong tư thế kiết già như lúc thiền định. Ngài nh́n thẳng vào mắt cha cháu và nói: “Bhagabati, sao con quá khắt khe với nhân viên của ḿnh đến thế? Ta rất vui khi thấy con đă đồng ư cho Abinash đến đây, và cũng rất vui khi có vợ chồng con cùng đi.” Cha cháu đă lặng người đi một lúc. Ông đă nghe lại chính xác những lời mà đức tôn sư đă nói với chúng tôi trên cánh đồng. Rơ ràng là với ngài, khoảng cách không gian có vẻ như không là ǵ cả!

Chú Abinash dừng một chút rồi chậm răi tiếp:

– Ngay trong lần gặp gỡấy, cha mẹ cháu xin quy y và học phép tọa thiền với thầy Lahiri Mahāsaya. Và cũng từđó, ba cháu và tôi trở nên thân thiết như anh em một nhà, v́ chúng tôi đă cùng nhau theo đuổi một lư tưởng tâm linh giống nhau. Tôi c̣n nhớ, thầy Lahiri Mahāsaya đă rất chú ư đến cháu ngay từ khi cháu vừa mới sinh ra. Chú tin là đời cháu về sau sẽ có nhiều quan hệ với ngài. Tuy nhiên, tôi không có đủ may mắn để trực tiếp học đạo với thầy Lahiri Mahāsaya ở Bénarès, v́ không bao lâu sau khi tôi chào đời th́ thầy đă rời bỏ thế giới này. Điều gắn bó giữa tôi với thầy từ thuở bé là một bức chân dung thầy để lại, và hoàn cảnh ra đời của bức ảnh chân dung này cũng thật kỳ bí không thua kém bất cứ câu chuyện kỳ bí nào về các bậc minh sưđă chứng ngộ. Bức chân dung được lồng trong một khung gỗ chạm trổ rất đẹp, đặt nghiêm trang trên bàn thờ của gia đ́nh tôi, và được chúng tôi mang theo đến bất cứ thành phố nào mà chúng tôi chuyển đến. Mẹ tôi dâng hương hoa và lễ bái trước di ảnh của thầy mỗi ngày hai lần sáng chiều đều đặn, với một sự thành khẩn đă tác động không ít đến tâm hồn thuần thành và ngây thơ bé bỏng của tôi. Càng lớn tôi càng nhận ra là bức chân dung thầy có một ảnh hưởng kỳ diệu đối với tôi. Càng ngày, tôi càng nghĩ nhiều về thầy, thậm chí đến cả trong giấc ngủ. Cha tôi dạy cho chúng tôi biết ngồi thiền từ thuở nhỏ, và trong những lần thiền định của tôi, có nhiều khi tôi cảm nhận thầy như một người sống

 

đang tồn tại trước mắt tôi, không chỉ là một khuôn h́nh vô tri giác. Và tôi lấy làm lạ khi ra khỏi thiền định lại thấy ngài chỉ c̣n là một bức ảnh trong khung gỗ. Tuy nhiên, dần dần tôi có thể cảm nhận được sự hiện hữu của ngài mọi lúc, và tôi thường cầu nguyện trước di ảnh mỗi khi tôi thấy ḿnh yếu ớt về tinh thần, hoặc gặp phải một khó khăn trở ngại nào cần phải vượt qua. XứẤn Độ từ ngàn xưa đă từng nổi tiếng với những bậc minh sưẩn ḿnh trên rặng Hy Mă Lạp Sơn hùng vĩ. Như một truyền thống nối tiếp qua bao đời, những chuyến đi gian nan để tầm sư học đạo trên vùng núi rừng hoang vắng, có khi sơ suất phải bỏ ḿnh, hoàn toàn không phải là điều ǵ xa lạ đối với người dân Ấn. Và chính những thế hệ truyền nối nhau theo cách này đă giữ ǵn cho Ấn Độ một nền văn hóa cao cả đặc thù mà không đâu khác trên thế giới này có được. Nền văn hóa đó được gầy dựng trên nền tảng của sự chứng nghiệm tâm linh, thay v́ là bằng vào những công thức khoa học do lư trí con người sản sinh ra. Và kỳ diệu thay, những chứng nghiệm tâm linh này được tiếp nối không qua một sự truyền dạy trực tiếp nào, mà là thành quả đạt được bằng vào những cố gắng tự thân của mỗi người học đạo, với vị thầy chỉđóng vai như một người dẫn dắt, chỉ đường. Khi tôi nhớ lại những kư ức mơ hồ từ thời thơấu, tôi dường như cảm thấy phảng phất đâu đó h́nh bóng của những cảnh núi rừng hoang vu lạnh giá. Tôi như mơ hồ thấy ḿnh đă từng sống ởđâu đó trên rặng núi Tuyết ngàn đời hùng vĩ của xứẤn, với

những khát vọng mà ở tuổi thiếu niên tôi không thể hiểu được là ǵ, nhưng vẫn âm ỉ và cháy bỏng trong tôi mỗi khi có điều ǵ gợi đến. Và việc chiêm ngưỡng bức chân dung mầu nhiệm của thầy Lahiri Mahāsaya dần dần trở thành một trong những sợi dây nối kết tôi với kư ức xa xăm mờ nhạt của chính ḿnh. Thầy Lahiri Mahāsaya b́nh sinh không cho phép ai chụp ảnh ngài. Tuy nhiên, việc ngài có quá nhiều đệ tửđă làm cho không ít kẻ chú ư đến, và họ rất muốn có những bức ảnh của ngài. Mặc dù đó cũng là một ư tốt, để người ta có thể chiêm ngưỡng và nhớ đến những khi không được có mặt bên ngài. Nhưng chưa có ai đă từng làm được điều đó. Người ta chụp rất nhiều những bức ảnh ngài ngồi giữa các đệ tử vây quanh, để rồi vô cùng kinh ngạc khi nh́n vào ảnh và chỉ thấy chỗ ngồi của ngài trống không như không có ai đă từng ngồi nơi ấy. Và điều này đă gợi lên rất nhiều lời bàn tán xôn xao về những điều kỳ diệu khác nữa xoay quanh cuộc sống của ngài. Ngày kia, một đệ tử của ngài là Ganga Dhar Babu, cũng là một nhà nhiếp ảnh có tài, quyết tâm chụp cho bằng được một bức chân dung của ngài. Vào buổi sáng, khi thầy Lahiri Mahāsaya đang ngồi thiền trên một chiếc ghế dài, phía sau là một tấm b́nh phong, ông này bất thần xuất hiện với máy ảnh trên tay và chụp luôn một loạt đến 12 kiểu ảnh. Than ôi, khi ông ta hăm hở rửa h́nh ra, th́ chỉ thấy có chiếc ghế trống không và tấm b́nh phong phía sau, ngoài ra không c̣n ǵ khác. Kinh sợ và xấu hổ v́ việc căi lời thầy của ông đă không mang lại kết quả ǵ, ông

liền t́m đến quỳ trước tôn sư để xin sám hối. Ngài từ tốn bảo ông:

 

 

– Con đă đến đây với ta để cầu t́m một tinh thần giác ngộ. Con có thể nào chụp ảnh cái tinh thần giác ngộấy được sao?

 

– Bạch thầy, con đă biết là không thể được. Nhưng mong thầy từ bi cho chúng con một di ảnh thân xác phàm tục mà người đang sử dụng. Thầy Lahiri Mahāsaya cười hiền ḥa và nói:

 

– Thôi được, như vậy con hăy trở lại đây vào sáng ngày mai, ta sẽ cho con chụp một bức ảnh. Và như vậy là bức chân dung duy nhất của thầy Lahiri Mahāsaya ở Bénarès được ra đời. Từđó về sau không ai chụp được bất cứ một tấm ảnh nào khác của ngài nữa. Năm tôi lên tám tuổi, một chuyện kỳ diệu đă xảy ra khiến cho từđó về sau tôi càng thêm gắn bó với bức di ảnh của thầy Lahiri Mahāsaya. Vào năm ấy, tôi mắc phải một chứng bệnh hiểm nghèo mà các thầy thuốc đều đă lắc đầu bó tay, không sao chữa khỏi. Tôi nằm liệt giường, chỉ c̣n cử động được hai tṛng mắt đờ đẫn để biểu lộ là ḿnh c̣n sống. Mẹ tôi mang bức chân dung thầy Lahiri Mahāsaya treo trên tường, nơi chỗ tầm mắt tôi nh́n đến. Mẹ ngồi bên giường tôi và bảo:

 

– Con hăy quỳ gối trước mặt ngài trong tư tưởng của con, và chiêm ngưỡng ngài với tất cả ḷng thành. Ngài sẽ cứu con thoát khỏi bệnh tật. Niềm tin nơi đấng tôn sư và t́nh mẫu tử sâu đậm đă khiến cho mẹ tôi xác quyết được điều ấy. Người tin tưởng chắc chắn không chút nghi ngờ ǵ về những

lời người đă nói với tôi. Và niềm tin ấy như truyền thêm một sức mạnh kỳ lạ vào tư tưởng vốn đă yếu ớt đi v́ bệnh hoạn của tôi. Tôi nh́n lên bức chân dung và để hết tâm trí vào việc chiêm ngưỡng, cầu nguyện. Đột nhiên, một vừng ánh sáng rạng ngời tỏa ra, bao phủ lấy tôi và lan tỏa khắp căn pḥng. Cảm giác uể oải, mệt nhọc v́ bệnh tật trong người tôi cũng bất chợt tiêu tan không c̣n nữa. Tôi nghiêng ḿnh nắm lấy bàn tay mẹ tôi để tỏ cho người biết là tôi đă được cứu thoát khỏi căn bệnh nguy kịch nhờ nơi đức tin không lay chuyển của người. Tôi biết là mẹ tôi cũng cảm nhận được ánh sáng kỳ diệu tỏa ra vào lúc đó, v́ tôi thấy người quỳ xuống, chắp hai tay và khấn nguyện thành lời:

– Lạy đức tôn sư cao cả, con xin tạơn ngài đă ban ân huệ cứu sống con của con. Và từ sau lần vượt qua căn bệnh hiểm nghèo đó, dường như số phận cuộc đời tôi đă được định đoạt, bởi v́ không một tài sản thế gian nào c̣n có ư nghĩa đối với tôi. Tôi đă xác định ḿnh sẽđi theo con đường soi sáng tâm linh, và dù sớm hay muộn, tôi vẫn chắc chắn ḿnh sẽ trở thành một tu sĩ. Sau khi tôi đă hồi phục sức khỏe, tôi càng thấy sùng kính bức chân dung thầy Lahiri Mahāsaya như chính những ǵ tôi được nghe kể về cuộc đời của ngài. Việc tôi thoát chết một cách kỳ diệu cũng làm cho các thầy thuốc của gia đ́nh tôi vô cùng kinh ngạc. Nhưng ngoài điều đó ra, nó c̣n để lại cho tôi những thứ khác đáng nói hơn nhiều. Từ sau lần ấy, mỗi khi tôi chiêm ngưỡng bức chân dung, tôi hoàn toàn tin tưởng là tôi đang chiêm

ngưỡng chính thầy Lahiri Mahāsaya, mà không một trở lực không gian hoặc thời gian nào c̣n có thể ngăn cách được giữa ngài và tôi. Tôi thường cảm nhận được ánh hào quang rạng ngời tỏa ra và bao quanh tôi trong những lần tôi tọa thiền và suy nghĩ đến ngài. Lâu dần, trong vùng hào quang ấy, có khi tôi nh́n thấy h́nh ảnh của nhiều vị tu sĩ mà có vẻ như tôi đă từng quen biết. Các ngài đều xuất hiện lặng lẽ trong tư thế thiền định, và khi nh́n thấy các ngài, tôi nghe như tự trong tiềm thức ḿnh dấy lên một khát vọng không sao kiềm chế được: niềm khao khát muốn dâng hiến trọn cuộc đời ḿnh cho việc tầm sư học đạo! Sau mỗi cơn thiền định đạt đến những h́nh ảnh kỳ diệu ấy, tôi thấy trong ḷng khoan khoái và tràn đầy một niềm vui khó tả. Những khi ấy, tôi thấy cuộc đời ḿnh tràn ngập hạnh phúc, an lạc vô biên, và tưởng chừng như không một tai ương, trở ngại nào có thể làm cho tôi nhủn ḷng thoái chí được. Đời sống tâm linh khởi đầu rất sớm của tôi c̣n được ghi dấu bằng một kỷ niệm rất khó quên, bởi v́ nó c̣n để lại một vết sẹo trên cánh tay tôi. Buổi sáng hôm ấy, tôi và chị Uma cùng ngồi chơi dưới một tán cây sung rất to, với những con két đậu trên cành cây mổ vào những trái sung chín đỏ và kêu inh tai. Chị Uma rên rỉ v́ một mụt nhọt ở dưới chân, và dùng thuốc xoa bóp vào chỗđau. Tôi đến bên chị và cũng lấy một chút thuốc xoa vào cánh tay ḿnh. Chị tôi cười hỏi:

– Em không bị mụt nhọt, xoa thuốc vào làm chi? Tôi cũng cười và nói một cách đùa cợt:

– Rồi ngày mai em sẽ có một mụt nhọt trên tay này đấy. Chị tôi bỗng nổi cáu một cách bất ngờ và mắng tôi:

– Đồ nói láo! Tôi thấy ḷng tự ái bị chạm vào, liền nghiêm nét mặt trả lời:

– Vẫn c̣n chưa đến ngày mai, chị không được quyền mắng em như vậy. Rồi sáng ngày mai chị sẽ thấy mọi việc đúng như lời em nói. Chị Uma càng thêm bực dọc và mắng tôi bằng những lời nặng nề hơn. Không hiểu sao lúc đó tôi cũng không kiềm được một cơn giận dữ kịch liệt, và buột miệng nói ra những lời đanh thép, chắc chắn như không thể nào sai khác được:

– Này chị Uma, v́ đây là mong muốn của tôi, chị hăy nghe cho rơ đây. Trước buổi sáng ngày mai, trên cánh tay này của tôi sẽ có một mụt nhọt, và mụt nhọt của chị sẽ lớn lên gấp đôi. Lẽ tất nhiên, chị Uma không thèm đếm xỉa ǵ đến lời nói ấy, và giận dữ bỏđi. Cho đến sáng hôm sau, trên cánh tay tôi quả thật mọc lên một mụt nhọt, và mụt nhọt của chị Uma th́ sưng tấy lên thật dễ sợ. Nhưng chị Uma không sợ hăi v́ cái mụt nhọt mà là v́ sựứng nghiệm dị thường của lời tuyên bố như một sự nguyền rủa của tôi. Chị run rẩy chạy đi t́m mẹ tôi và nói:

– Mẹơi! Em Mukunda hóa thành phù thủy rồi! Và chị kể cho mẹ nghe chuyện của chúng tôi hôm qua. Mẹ tôi không tỏ vẻ ngạc nhiên. Dường như bà tin và hiểu được điều đó. Bà nghiêm khắc nói với tôi:

– Mukunda, con không được dùng ư chí của ḿnh để nghĩ đến hoặc mong ước những chuyện chẳng lành. Tôi rất hối hận và ghi nhớ lời dạy của mẹ từđó cho đến măi măi về sau. Cái mụt nhọt của tôi sau đó phải đi mổ và để lại một vết sẹo trên tay tôi như một lời nhắc nhởđiều không hay mà tôi đă mắc phải. Và phải lâu lắm sau này tôi mới hiểu được rằng những chú thuật được đọc lên với sự tập trung ư chí cao độ có thể có những quyền năng mạnh mẽ mà người ta không sao lường hết được. Và người ta cũng có thể vận dụng những quyền năng ấy như một sức mạnh chính đáng để giúp ḿnh vượt qua những khó khăn trong cuộc đời. Thời gian sau, gia đ́nh tôi chuyển đến ở Lahore, thuộc tỉnh Punjab. Cha tôi cho đặt một trang thờ nhỏ ngoài hiên nhà ở tầng trên để thờ đức Phật bà Quán Âm.2 Không hiểu sao, tôi có một niềm tin chắc chắn rằng đứng trước bàn thờ nhỏ này, mọi điều cầu nguyện của tôi đều sẽ được ứng nghiệm. Một hôm, tôi và chị Uma cùng đứng chơi trước hiên nhà ở tầng trên. Chúng tôi nh́n xuống thấy có hai con diều giấy của ai đó thả chơi đang vờn bay trên mái nhà ở phía bên kia đường. Chị Uma nh́n vẻ mặt suy tư của tôi và nói đùa:

– Hôm nay trông em có vẻ giống như một nhà hiền triết. Em đang nghĩ ǵ thế? Tôi đáp lời chị, đôi mắt vẫn đăm chiêu nh́n vào khoảng không xa xăm:

– Em đang nghĩ đến tấm ḷng bao dung vô hạn của đức Phật bà Quán Âm. Ngài lắng nghe và đáp ứng mọi lời cầu nguyện của chúng sinh. Chị tôi không hiểu vấn đề một cách nghiêm chỉnh như tôi, nên nói với giọng đùa cợt:

– Không hiểu ngài có tốt bụng đến mức có thể ban cho em con diều giấy kia không nhỉ?

– Tại sao lại không chứ? Và tôi bắt đầu cầu nguyện Phật bà Quán Âm hăy mang con diều giấy kia đến cho tôi. ỞẤn Độ, thả diều giấy là một tṛ chơi được ưa thích. Những người chơi diều được quyền t́m cách cắt đứt dây diều của người khác như một phần hào hứng của cuộc chơi. Khi con diều đứt dây, một cuộc rượt đuổi sôi nổi sẽ diễn ra, v́ nó sẽ thuộc về bất cứ ai nhặt được khi rơi xuống. Chúng tôi đang đứng trên bao lơn của tầng trên nhà, nên dĩ nhiên là không thể tham gia cuộc rượt đuổi như những người khác đang ở dưới đường phố. Những người chơi diều ở dưới kia đă bắt đầu cuộc chơi. Chỉ trong chốc lát, một trong 2 con diều đă bị cắt đứt dây và lảo đảo trên khoảng không. Khi con diều lượn ngang gần chỗ tôi đứng, gió bỗng nhiên ngừng thổi trong một lúc, và cánh diều rơi thẳng xuống. Sợi dây bị đứt của nó vướng quanh một cây xương rồng trên sân thượng của nhà bên cạnh, và nó bị giữ lại không bay tới được nữa, đảo nhẹ một ṿng rồi rơi xuống ngay trước mặt tôi. Tôi đưa tay nắm lấy sợi dây, giật nhẹ cho nó đứt khỏi cây xương rồng, và cầm lấy con diều đưa cho chị Uma. Chị nói một cách ương ngạnh:

– Chỉ là một sự t́nh cờ thôi. Nếu lời cầu nguyện của em có thể lấy được cả con diều c̣n lại kia nữa th́ chị mới tin. Tuy chị nói vậy, nhưng ánh mắt chị lộ rơ sự ngạc nhiên và tôi biết là ḷng chị không nghĩ thế. Tôi tiếp tục cầu nguyện với Phật bà Quán Âm để ngài ban cho tôi con diều c̣n lại, với một niềm tin chắc chắn là điều ấy sẽ được ngài đáp ứng. Một lát sau, con diều lại bị một người chơi cắt đứt dây. Khi nó đảo lượn trên không, tôi cảm nhận được ánh mắt hồi hộp của chị Uma dán chặt vào nó. Và kỳ lạ thay, nó gần nhưđi theo đúng lộ tŕnh của con diều ban năy, cũng quấn quanh nhánh xương rồng và rơi xuống trước mặt tôi. Tôi lại giật đứt sợi dây và đưa nó cho chị Uma. Chị lẩm bẩm như không c̣n biết có tôi đang đứng đó, cặp mắt chị nh́n chăm chăm vào pho tượng Phật bà Quán Âm trên trang thờ nhỏ:

– Lạ thật, lạ thật. Đức Phật bà đă nghe và đáp ứng lời cầu nguyện của em. Chị không thể hiểu nổi chuyện này. Và chị hối hả chạy đi như để tránh né sự thật mà chị không sao hiểu nổi ấy!

 

CHƯƠNG II MÓN LINH PHÙ

Sau ba năm làm việc tại Lahore, cha tôi thuyên chuyển về Bareilly, thuộc miền Bắc Ấn. Khi ấy, mẹ tôi đang ở tại Calcutta để lo chuẩn bị việc hôn lễ cho anh cả tôi là Ananta. Việc lập gia đ́nh của anh cả tôi là điều mong ước lớn nhất của mẹ. Và đây cũng là điều rất tự nhiên đối với mọi phụ nữẤn Độ, luôn mong mỏi việc nối tiếp ḍng tộc gia đ́nh được đảm bảo. Vào thời điểm ấy, tôi đă từng được chứng kiến hai cuộc hôn lễ tưng bừng, rực rỡ của hai chị tôi là Roma vàUma. Nhưng anh Ananta là con trai, và là con cả trong nhà, nên mọi việc sẽ được chuẩn bị rất linh đ́nh và long trọng. Gia đ́nh tôi khi ấy vừa mua thêm được một căn nhà rộng răi và đầy đủ tiện nghi ở số 50 đường Amherst. Mẹ tôi mời những vị khách từ xa đến và sắp xếp cho họ trú ngụ tại đây trong thời gian chờ cử hành hôn lễ. Mặt khác, mẹ cũng đă lo đủ mọi việc cần thiết cho đám cưới: thức ăn đầy đủ và đều thuộc loại thượng hảo hạng, kiệu cưới lót bằng vải lụa thêu, trên đó anh tôi sẽ được ngồi lên và đưa đi một cách long trọng đến nhà cô dâu, rất nhiều đèn lồng có phết giấy màu sặc sỡ, những con lạc đà và voi bằng giấy nhồi cứng thật đẹp... Có cả các ban nhạc Ấn Độ và ban nhạc phương Tây, những chú hề giúp vui, những tăng sĩ để cử hành các nghi lễ tôn giáo theo truyền thống...

Cha tôi và tôi là những người duy nhất c̣n ở Bareilly chưa đến nơi cử hành lễ cưới. Và chúng tôi cũng đă sắp xếp để chuẩn bị lên đường. Tuy nhiên, c̣n cách ngày đi mấy hôm th́ tôi được báo trước một sự chẳng lành bằng vào linh cảm lạ thường của ḿnh. Vào lúc nửa đêm, tôi đang ngủ gần giường của cha tôi th́ nghe có tiếng động rất khẽ, vừa đủ để làm tôi thức giấc. Cửa mùng rung nhẹ rồi được vén lên và tôi nh́n thấy mẹ tôi. Người nói với tôi bằng giọng rất khẽ:

 

 

– Gọi cha con dậy, và hăy đi chuyến xe lửa đầu tiên lúc 4 giờ sáng nếu c̣n muốn nh́n mặt mẹ lần cuối... Rồi h́nh ảnh mẹ tôi như hơi rung lên và biến mất. Tôi vùng dậy, nhảy xuống giường và hét lên:

 

– Cha ơi, cha ơi! Mẹ con đang hấp hối. Cha tôi thức giấc v́ tiếng hét của tôi. Người vỗ về trấn an nỗi sợ của tôi bằng những lời thật êm dịu, nhưng tôi biết ḷng người cũng đang run rẩy lo lắng không kém ǵ tôi:

 

– Con ơi, mẹ con vẫn đang khỏe mạnh kia mà. Đó chỉ là ảo ảnh trong giấc mơ mà thôi. Nếu như hôm nay có tin tức ǵ, ngày mai chúng ta sẽ lên đường. Sáng hôm sau, chúng tôi nhận được bức điện từ Calcutta: “Mẹđau nặng. Đám cưới tạm hoăn lại. Hăy đến ngay.” Chúng tôi lên đường ngay. Trên đường đi, chúng tôi gặp người cậu tôi khi xe lửa dừng ở một nhà ga lớn. Tâm trạng tôi lúc ấy ngập tràn sựđau khổ. Linh tính cho tôi biết chắc rằng tôi đă không c̣n mẹ nữa. Mẹ là người duy nhất trên đời này có thể hiểu thấu ḷng

tôi. Đôi mắt mẹ là nguồn an ủi vô biên những khi tôi đau buồn, nhưng lúc này đây, khi tôi đau khổ đến mức chưa từng có trong cuộc đời th́ đôi mắt ấy sẽ không c̣n nh́n tôi được nữa! T́nh thương của mẹ đă ôm ấp tôi trong suốt thời thơấu, giờđây đă bỏ rơi tôi lại giữa cuộc đời khi tôi chưa t́m được một chỗ nương tựa nào khác. Tôi cảm thấy hoàn toàn tuyệt vọng. Cậu tôi lên tiếng hỏi cha tôi:

– Chị c̣n sống chăng?

 

– Tất nhiên là nhà tôi vẫn c̣n sống. Tôi th́ hoàn toàn không tin vào lời nói quả quyết của cha tôi. Và cậu tôi như đọc được ư nghĩấy của tôi qua ánh mắt. Và chúng tôi đến Calcutta chỉ vừa vặn để chứng kiến cái chết của mẹ tôi. Ngay khi ấy, sự sống đối với tôi dường như không c̣n một chút ư nghĩa nào. Sựđau buồn xâm chiếm cả tâm hồn tôi, và thậm chí phải mất nhiều năm sau nữa tôi mới có thể lấy lại được tâm trạng cân bằng của một cuộc sống b́nh thường như trước đó. Trong những ngày ngay sau đó, tôi sống trong một tâm trạng tột cùng của sựđau khổ. Và trong lúc tưởng như hoàn toàn tuyệt vọng ấy, tôi chợt thấy ḿnh cần phải quay về nương tựa nơi đức tin mà chính mẹ tôi là người trước đây đă từng vun đắp cho tôi. Trong một giấc mơ giữa những ngày đau đớn này, tôi nghe thấy tiếng an ủi của mẹ như vọng về từ một cơi xa xăm vô định:

 

– Này con yêu, chính ta đă săn sóc, nuôi dưỡng con từ đời này sang đời khác, đă dành cho con t́nh thương qua hiện thân của vô số những người mẹđă

 

từng sinh ra và nuôi nấng con trên thế gian này. Ta sẽ không hề mất đi vĩnh viễn như con tưởng. Con sẽ nh́n thấy ta trong ánh mắt dịu hiền của muôn ngàn người mẹ khác vẫn đang âm thầm nuôi nấng con cái họ. Sau lễ hỏa táng mẹ, tôi và cha tôi trở lại Bareilly. Từ đó, mỗi buổi sáng tôi đều dậy sớm, ra trước nhà và đến dưới tán cây sheoli rất to có đầy hoa trắng. Tôi đứng đó, chiêm ngưỡng vẻ đẹp tự nhiên của những cành hoa sheoli trắng tinh, trên nền cỏ xanh tươi c̣n ướt đẫm sương sớm. Trước khi ánh mặt trời rạng chiếu, tôi thường nh́n thấy một thứ ánh sáng huyền diệu khác tỏa lan trong vùng. Cảnh vật yên tĩnh và tràn đầy sức sống sau một đêm yên giấc. Và ḷng tôi trong những lúc ấy cũng tràn dâng một thứ nhựa sống mănh liệt, một sự khao khát cầu t́m chân lư, như thúc giục tôi lên đường t́m đến rặng núi Hy Mă Lạp Sơn hùng vĩ đầy tuyết phủ mà giờđây đă quá quen thuộc với tôi trong những giấc mơ dài. Một lần, có người anh họ của tôi vừa đi du lịch trên dăy núi Hy Mă Lạp Sơn trở về. Anh đến chơi và kể cho chúng tôi nghe về những núi non trùng điệp, những hang động kỳ bí mà anh đă có dịp thăm qua, cùng với những vịẩn tu hầu như không muốn tiếp xúc với bất cứ ai... Tôi say sưa lắng nghe những ǵ anh kể lại, và nghe bầu máu nóng trong người như sục sôi lên với ư tưởng là có một ngày nhất định tôi phải đến được tận nơi ấy để chiêm bái. Tôi rủ một người bạn là Dwarka Prasad, lúc ấy đang ở trọ nhà tôi:

 

 

– Chúng ta hăy cùng đi lên núi Hy Mă Lạp Sơn. Anh chàng này chẳng những không chịu cùng đi, mà c̣n đem sự việc tiết lộ với anh cả tôi là Ananta khi anh tôi vừa đến thăm cha tôi và c̣n đang lưu lại đó. Anh Ananta có vẻ không coi trọng ư tưởng táo bạo của tôi. Anh c̣n chế giễu tôi rằng:

 

– Áo cà sa vàng của em đâu rồi? Em phải mặc màu áo tu sĩđó mới thích hợp. Anh không thể nào ngờ được là những lời này tác dụng hoàn toàn ngược lại đối với tôi. Chẳng những tôi không hề cảm thấy bị chế giễu, mà nó c̣n như đánh thức trong tôi những h́nh ảnh xa xăm từ tiềm thức. Tôi nhưđă thấy ḿnh mặc áo cà sa vàng và lang thang đó đây trên khắp nước vào một lúc nào đó. Tôi không biết những cảm giác ấy có chính xác hay không, nhưng có một điều hoàn toàn chính xác vào lúc này là tôi thấy quen thuộc đến mức sẵn sàng khoác lấy màu áo tu sĩ mà không một chút ngỡ ngàng, ngượng ngập. Một buổi sáng, tôi đang nói chuyện với Dwarka. Bỗng dưng tôi cảm thấy ḷng sùng kính và đức tin như dâng tràn trong tôi, và tôi bắt đầu giảng thuyết thao thao bất tuyệt với người bạn này về tất cả những ǵ mà cha mẹđă dạy cho tôi từ thuở nhỏ về một đời sống tâm linh, cả những điều mà tôi chưa từng học qua bao giờ. Măi về sau này, trong những buổi giảng thuyết trước hàng ngàn người nghe, tôi mới nhớ lại và biết rằng đó là buổi thuyết pháp hùng hồn đầu tiên của tôi. Nhưng cảm giác hứng khởi trước một buổi giảng, khi mà đức tin và ḷng sùng kính bất chợt dâng tràn, về sau đă trở thành quen

thuộc với tôi, nhất là trong những dịp giảng thuyết vô cùng quan trọng. Buổi trưa cùng ngày hôm ấy, tôi lén đi Naini Tai, dưới chân Hy Mă Lạp Sơn. Anh Ananta đuổi theo kịp và bắt tôi phải trở lại Bareilly. Từđó, tôi chỉ được phép đi xa nhất là đến tán cây sheoli có hoa trắng ở trước nhà. Và trong những lúc buồn nản v́ không thực hiện được ư định, tôi lại càng thấy nhớ mẹ tôi da diết. Cha tôi không nghĩ đến việc cưới vợ khác sau khi mẹ tôi mất. Ông chấp nhận cảnh gà trống nuôi con trong gần 40 năm trời không một lời than văn. Ông hiểu được nỗi mất mát lớn lao của gia đ́nh chúng tôi sau khi mẹ mất, và ông muốn bù đắp lại cho anh em chúng tôi. Ông trở nên mềm mỏng, dịu dàng hơn nhiều so với trước kia, và quan tâm lo lắng đến hầu như tất cả mọi việc lớn nhỏ trong gia đ́nh. Ông lo xa cho chúng tôi có đủ mọi thứ cần thiết trong cuộc sống. Ông cũng chăm chút cho đến những bữa ăn hằng ngày của chúng tôi. Về phần ông, ngoài giờ làm việc ông dành trọn thời gian cho việc thực hành công phu thiền định và không bao giờ nghĩ đến bất cứ thú vui chơi nào cả. Măi về sau này, tôi có ư định muốn thuê một cô giúp việc người Anh để coi sóc việc nhà và giúp ông được thoải mái đôi chút. Cha tôi lắc đầu rất cương quyết về việc này. Ông nói:

– Từ khi mẹ con mất, cha xem như chỉ c̣n có các con mà thôi. Cha không thể nhận sự săn sóc của bất cứ người đàn bà nào khác ngoài mẹ con trước đây. Hơn một năm sau khi mẹ tôi mất, nói chính xác là

14 tháng, tôi mới nhận được một lời di chúc mà mẹ tôi để lại cho tôi. Tuy nhiên, sự chậm trễ này phần nào cũng là ư muốn của mẹ tôi. Vào lúc mẹ tôi hấp hối, anh Ananta có mặt bên giường bệnh và đă nghe những lời trăn trối cuối cùng của mẹ. Mẹ có những lời dành cho tôi, nhưng dặn anh là chỉ cho tôi biết sau khi mẹ mất được một năm. Anh tôi đă cố tŕ hoăn thêm thời gian đó, nhưng rồi khi anh sắp rời Bareilly để về Calcutta cưới vợ – tất nhiên là người vợ mà mẹ đă chọn cho anh trước đây – th́ anh không c̣n tŕ hoăn thêm được nữa. Một buổi chiều, anh t́m đến tôi:

– Mukunda, có đôi điều anh vẫn băn khoăn không biết có nên cho em biết hay chăng, nhưng chắc chắn nó sẽ làm em ngạc nhiên đấy. Rồi anh nhỏ giọng đi với vẻ cảm thông mà tôi chưa từng thấy ở anh:

 

– Anh sợ rằng nếu cho em biết điều này sớm hơn, có lẽ em lại càng nôn nóng bỏ nhà ra đi xuất gia. Nhưng cuối cùng th́ anh cũng thấy rơ lư tưởng thiêng liêng ấy không thể nào dập tắt được trong em, nên khi ngăn cản việc lên núi Hy Mă Lạp Sơn và đưa em trở về, anh quyết định phải cho em biết ngay những lời trăn trối cuối cùng của mẹ. Anh đưa cho tôi một hộp nhỏ và nói:

 

– Đây là những lời dặn ḍ mẹ để lại cho em. Mẹđă dặn anh là chỉ đưa cho em sau khi mẹ mất được một năm. Anh thú thật là đă tŕ hoăn việc này v́ không muốn thấy em bỏ nhà ra đi.

 

Anh nói câu này mà rưng rưng nước mắt. Tôi mở cái hộp. Trong đó là bức thư mà mẹ tôi để lại cho riêng tôi: “Mukunda của mẹ! Đây là những lời chúc phước lành cuối cùng mẹ có thể gửi đến cho con. V́ mẹ sẽ không c̣n ở bên con trên thế gian này nữa, nên mẹ cần phải cho con biết về những sự kiện lạ thường xảy ra ngay sau khi con chào đời. “Số phận của con đă được báo trước cho mẹ biết từ ngay lần đầu tiên mẹ bế con đến gặp thầy Lahiri Mahāsaya ở Bénarès, khi con chỉ là một hài nhi bé bỏng. Khi ấy, đức tôn sưđang tọa thiền trong sảnh đường với rất đông môn đồ yên lặng vây quanh. Khi mẹ đến đă không c̣n một chỗ trống nào bên trong để có thể nh́n thấy được ngài, mẹđành phải bế con đứng tận ngoài xa, trong một góc nhỏ khuất sau nhiều người khác. Mẹ âm thầm cầu nguyện đức tôn sư, mong rằng ngài sẽ biết được sự hiện diện của mẹ con ta và ban lời chúc phúc đầu đời cho con. “Bỗng nhiên, thầy Lahiri Mahāsaya mở mắt ra khỏi cơn thiền định. Thầy gọi một đệ tử và bảo người này gọi mẹ đến trước ngài. Đám đông môn đồ đều kinh ngạc, v́ từ chỗ ngồi của ngài không thể nào nh́n thấy mẹ con ta tận ngoài xa và khuất sau rất nhiều người. “Mọi người rẽ ra nhường chỗ cho mẹ bế con đến trước tôn sư. Mẹ quỳ xuống, và tôn sưđón lấy con, đặt trên gối ngài rồi đặt tay lên trán con như một dấu hiệu ban ân huệ tâm linh. Ngài nói: ‘Này hiền mẫu, đứa con này sẽ trở thành một tăng sĩ, và sẽ cứu vớt rất nhiều người trên thế gian.’

 

“Khi ấy ḷng mẹ ngập tràn niềm vui sướng. Đức tôn sưđă nghe được lời cầu nguyện của mẹ. Ngài cũng thấy trước được tiền đồ tươi sáng của con. Một lần, khi con c̣n chưa sinh ra, ngài có nói trước với mẹ là về sau con chắc chắn sẽđi theo con đường của ngài. “Và khi gia đ́nh ta đến ở tại Lahore, một sự kiện khác nữa đă xảy ra, xác nhận chắc chắn hơn nữa niềm tin của mẹ về con đường mà con sẽ theo đuổi sau này. Trong di chúc tối hậu này, mẹ muốn kể hết cho con nghe để con có thể hiểu được mẹ kỳ vọng biết bao nhiêu về con. “Một buổi sáng, người giúp việc t́m mẹ và nói: Thưa bà, có một vị tu sĩ ghé lại và nói muốn được gặp ‘mẹ của Mukunda’. Cách nói lạ thường ấy làm mẹ ngạc nhiên, vội vă ra gặp người ấy. Khi đứng trước mặt người, mẹ liền có ngay cảm giác là đang đối diện với một vị sứ giả của thiêng liêng. Người nói: ‘Này hiền mẫu, tôn sư muốn cho bà biết rằng kiếp sống hiện tại của bà sắp hết. Và cơn bệnh sắp tới đây của bà sẽ là cơn bệnh cuối cùng.’ “Khi nghe thế, ḷng mẹ không hề cảm thấy sợ hăi, mà trái lại c̣n dâng lên một niềm phúc lạc an tịnh lạ thường. Mẹ chăm chú lắng nghe người nói tiếp: ‘Bà sẽ được giữ một món linh phù bằng bạc. Bà sẽ khôngnhận nó theo một cách thông thường, mà nó sẽ tự đến với bà trong buổi tọa thiền ngày mai. Bà sẽ được giữ nó cho đến lúc chết, và hăy giao nó cho người con cả, yêu cầu anh ta giữ nó trong một năm, và sau đó phải giao lại cho Mukunda, em trai của ḿnh. Người này rồi sẽ từ bỏ thế gian để xuất gia

học đạo. Và linh phù sẽ tự rời bỏ anh ta vào lúc nó không c̣n cần thiết nữa.’ “Sau đó mẹ cúng dường cho vị tu sĩấy một khoản tiền, nhưng người từ chối không nhận và ra đi ngay. Chiều hôm sau, trong khi mẹđang ngồi thiền, quả nhiên có một linh phù bằng bạc tự nhiên xuất hiện trong ḷng bàn tay mẹ. Mẹ nhận ra vật ấy lúc nó vừa xuất hiện nhờ vào một cảm giác lành lạnh trong tay. Mẹđă vâng lời tôn sư giữ nó cẩn thận cho đến lúc này, nay mẹ giao cho anh cả con, và cùng với di chúc này, anh con sẽ giao lại cho con vào lúc thích hợp. Con không nên buồn thương nhiều về việc mẹ không c̣n bên con nữa. Đức Phật sẽ che chở măi măi cho mẹ, và mẹ cũng cầu xin ngài che chở măi măi cho con, con yêu của mẹ!” Món linh phù là một vật nhỏ h́nh tṛn, bằng bạc, trên có khắc những chữ Phạn cổ nhỏ li ti. Tôi có cảm giác vô cùng quen thuộc đối với nó, nhưđă được biết nó tự lâu rồi. Khi tôi cầm linh phù ấy trong tay, trong trí tôi chợt như lóe lên những tia sáng lạ kỳ soi rọi vào tận trong sâu thẳm của tiềm thức, khiến cho tôi mơ hồ nhớ lại những h́nh ảnh xa xăm từ những tiền kiếp lâu xa vô hạn... Tôi biết rằng món linh phù này hẳn đă theo tôi qua nhiều đời sống trước đây, gắn bó với những thăng trầm trên đường học đạo của tôi, nên giờđây nhân duyên mới đưa đẩy nó đến cùng tôi trong giờ phút này. Và tôi biết thời điểm ra đi của tôi chắc hẳn đă đến gần. Món linh phù đă giúp thêm cho tôi rất nhiều sức mạnh từ khi tôi được mang nó trên người. Về sau, nó đă biến mất vào những giờ phút tưởng chừng

như cực kỳđau khổ đối với tôi, để rồi mở đầu cho việc tôi gặp gỡ bậc chân sư truyền đạo như thế nào, tôi sẽ có dịp tŕnh bày trong một chương sách khác. Nhưng người thiếu niên đă từng thất bại với ư tưởng táo bạo một ḿnh t́m lên Hy Mă Lạp Sơn, giờđây sẽđi xa hơn nhiều với sự phù trợ của món linh vật huyền bí cổ xưa này.

 

CHƯƠNG III PHÉP PHÂN THÂN

Cha tôi đă chấp nhận lời thỉnh cầu của tôi về một chuyến du lịch Bénarès, sau khi tôi đoan chắc với người là sẽ ra đi và trở về mà không gây bất cứ sự rắc rối, phiền toái nào. Cha tôi không ngăn cản ḷng ham thích đi du lịch. V́ ông làm việc trong công ty đường sắt nên chúng tôi luôn có nhiều thuận lợi cho việc đi đó đi đây. Ngay từ thuở nhỏ, tôi cũng đă từng được tham gia nhiều chuyến hành hương xa xôi với vé tàu hạng nhất mà cha tôi có được một cách dễ dàng. Chúng tôi cũng thường có những chuyến đi du lịch các thành phố lớn, các danh lam thắng cảnh. Tuy nhiên, những chuyến đi ấy bao giờ cũng thuận tiện, dễ dàng, và bao giờ cũng có người lớn đi kèm. Nhưng lần này th́ không! Hôm sau, cha tôi gọi tôi đến và đưa cho tôi vé xe lửa đi Bénarès, một số tiền và hai bức thư. Người dặn ḍ tôi:

 

 

– Cha có một công việc cần trao đổi với người bạn là ông Kedar Nath ở Bénarès qua bức thư này. Cha

đă mất địa chỉ của ông, nhưng con có thể chuyển thư cho ông ta qua trung gian một người khác là Đại đứcPranabā. Vị tu sĩ này là bạn đồng môn với cha và có nhiều điều rất đáng cho con học hỏi. Đây là thư giới thiệu của cha, con hăy mang theo đến chỗ ông ấy. Và như thế là tôi khăn gói lên đường đi Bénarès, với nhiệt t́nh cháy bỏng của tuổi trẻ. Tại Bénarès, tôi không khó khăn lắm trong việc t́m đến đại đức Pranabā. Cửa vào đă mở sẵn có vẻ như đang đợi khách. Một người có thân h́nh vạm vỡ, chỉ vận duy nhất một tấm chăn ngang hông, để ḿnh trần, đang ngồi kiết già trên một bậc thềm khá cao trong pḥng khách. Vừa bước vào, tôi đă nh́n thấy ngay nụ cười an lạc nở trên khuôn mặt người, râu tóc đều cạo sạch. Đại đức tiếp đón tôi với vẻ vô cùng niềm nở. Người chào hỏi bằng một lời chúc phúc cho tôi:

– Sự an ổn đến cùng với con! Tôi quỳ xuống và đáp lời ngài trong khi sờ nhẹ lên hai bàn chân, theo như phong tục của nơi đây:

 

– Bạch đại đức, ngài có phải là đại đức Pranabā? Ngài gật đầu và nhoẻn cười:

 

– C̣n con là con trai của Bhabagati? Tôi vô cùng ngạc nhiên, v́ tôi chưa giới thiệu về ḿnh, cũng chưa đưa cho ngài lá thư của cha tôi. Tuy đă thấy rơ là không cần thiết nữa, nhưng tôi vẫn lấy trong túi ra hai bức thư và đưa cho ngài. Chưa xem thư, ngài đă nói nhỏ nhẹ:

 

– À vâng, tôi sẽ t́m ông Kedar để chuyển bức thư cho cha con.

Một lần nữa, vị tu sĩ này lại làm tôi kinh ngạc. Ông có vẻ như biết trước hết thảy mọi việc, hay ông có thể đọc được suy nghĩ trong đầu tôi? Đại đức chậm răi mở thư ra xem. Rồi ngài nói với tôi:

– Cha con là một người tốt. Tôi hiện đang nhận được hai phần lương hưu, mà một phần trong đó là nhờ sự giúp đỡ của cha con khi tôi c̣n làm việc dưới quyền ông ấy. Phần thứ hai là sự hộ tŕ của chư Phật. Chính nhờđó mà tôi sống và thực hiện được những điều cần thiết trong đời sống này. Tôi vẫn c̣n khá ngây thơ để có thể hiểu hết ư nghĩa lời nói này. Tôi hỏi lại đại đức:

 

– Bạch ngài, phần lương hưu của công ty đường sắt th́ con có thể hiểu được. C̣n phần hộ tŕ của chư Phật, ư ngài muốn nói là thế nào? Phải chăng ngài có thể kiếm được ít nhiều tiền bạc nhờ vào đó? Vị đại đức bật cười trước câu hỏi ngớ ngẩn của tôi:

 

– Không, tôi muốn nói đến sự an lạc mà tôi có được sau nhiều năm thiền định. Tiền bạc đối với tôi bây giờ chẳng để làm ǵ nữa cả. Chỉ với những ǵ hiện có, tôi đă dư sức thỏa măn những nhu cầu ít ỏi của ḿnh. Sau này rồi con sẽ hiểu ư nghĩa những điều tôi nói hôm nay. Khi ấy, đại đức bắt đầu ngưng cuộc chuyện tṛ, sửa lại tư thế ngồi thật ngay ngắn, thẳng lưng, mắt nh́n về phía trước. Ban đầu, đôi mắt ngài sáng ngời như tỏa ra hai luồng điện sáng, rồi sau đó dần dần trở nên mơ màng như rơi vào một cơi hư không yên tịnh khác. Tôi biết ngài đang nhập định, nên cố ngồi yên. Nhưng ḷng tôi thấy phân vân bất ổn. Tôi vẫn

chưa kịp nói hết những điều muốn nói với ngài, và cụ thể hơn là ngài vẫn chưa cho tôi biết khi nào sẽ chuyển thư của cha tôi cho ông Kedar, hoặc tôi có phải tự t́m đến ông này hay chăng? Tôi muốn đảm bảo là phải hoàn thành tốt đẹp lời dặn ḍ của cha tôi trước khi trở về. Nhưng ngài đă không nói chuyện với tôi nữa mà lặng lẽ nhập định rồi. Để giảm bớt sự bồn chồn trong ḷng, tôi đưa mắt nh́n quanh pḥng, nhưng căn pḥng trống trơn chẳng có bày biện vật ǵ khác cả. Cuối cùng mắt tôi dừng lại ở một đôi guốc gỗ đơn sơ bên dưới chân thềm.

– Con không cần phải lo lắng. Ông Kedar sẽ đến đây trong khoảng nửa giờ nữa thôi. Đại đức ra khỏi cơn thiền định, ngài nh́n tôi và nói như thểđang đọc thấu suy nghĩ của tôi lúc đó. Nhưng lần này tôi cho là cũng dễđoán được không khó khăn ǵ lắm. Vẻ bồn chồn của tôi hẳn đă lộ rơ ra nét mặt. Nhưng rồi người lại ngồi yên. Nửa giờ trôi qua. Người mở mắt nh́n tôi và nói:

 

– Có lẽ ông Kedar Nath đă đến trước cửa. Tôi lắng tai nghe và quả thật có tiếng chân người đang bước lên cầu thang. Đầu óc tôi bấn loạn v́ những sự ngạc nhiên dồn dập xảy đến. Làm sao ông Kedar biết mà đến đây để gặp tôi? Vị đại đức này không gặp ai khác từ lúc tôi đến đây. Bản thân ông cũng không hề rời khỏi căn pḥng này. Cuối cùng tôi kết luận, ông đă t́nh cờ có một cuộc hẹn trước với ông Kedar Nath vào giờ này. Nhưng

chuyện t́nh cờ này cũng thật rất khó tin, v́ thế tôi nôn nao bước ra khỏi pḥng và đi xuống cầu thang. Tôi gặp một người đàn ông vóc dáng trung b́nh, thân h́nh gầy ốm, nước da hơi nhợt nhạt, đang vội vă bước lên cầu thang. Tôi buột miệng hỏi ngay:

– Thưa ông, có phải ông là ông Kedar Nath? Người đàn ông cười thân thiện và đáp lời tôi:

 

– Phải, thế chắc có lẽ em là con trai của Bhagabati đă đợi tôi ởđây từ sáng? Tôi kinh ngạc. Suy luận của tôi về một cuộc hẹn t́nh cờđă hoàn toàn sụp đổ. Tôi đáp:

 

– Vâng, thưa ông. Nhưng ông làm sao biết được mà đến đây gặp cháu?

 

– À, tôi được đại đức Pranabā báo cho biết và gọi tôi đến đây. Không nh́n thấy khuôn mặt ngạc nhiên đến sửng sờ của tôi, ông tiếp tục nói huyên thuyên v́ có lẽ ông cũng đang suy nghĩ rất nhiều và muốn bộc lộ ra cùng người khác:

 

– Kể cũng thật là khó hiểu. Cách đây khoảng một giờ, đại đức đến t́m tôi khi tôi vừa tắm xong dưới sông Hằng. Tôi không hiểu sao ngài biết tôi đang ở bờ sông vào lúc đó. Đại đức bảo tôi: “Người con trai củaBhagabati đang đợi anh ở nhà tôi. Hăy theo tôi về nhà.” Tôi vui vẻ cùng đi với người. Nhưng mặc dù tôi mang giày bố loại để đi đường xa, c̣n đại đức th́ mang guốc gỗ, tôi vẫn không thể nào theo kịp ngài. Thấy thế, ngài dừng lại và hỏi: “Từđây đến nhà tôi, anh đi khoảng bao lâu?” Tôi đáp: “Khoảng nửa giờ.” Ngài bảo tôi: “Tôi có chút việc phải làm nên

tạm biệt anh ởđây. Tôi sẽ gặp lại anh ở nhà cùng với con trai của Bhagabati.” Và ngài rảo bước đi ngay trước khi tôi kịp mở miệng đáp lời. Tôi thấy ngài mất dạng trong đám đông rồi nên hối hả đến đây ngay. Những lời của ông Kedar Nath càng làm tôi rối trí, hoang mang hơn nữa. Tôi vặn hỏi lại ông:

– Ông có chắc là đă gặp đại đức đấy chứ? Hay có khi ông chỉ nh́n thấy linh ảnh của ngài hiện ra đó thôi? Ông Kedar Nath bỗng trở nên bực dọc, gắt gỏng:

– Sao em lại hỏi thế? Tôi không hề biết nói dối bao giờ. Vả lại, nếu không gặp đại đức, làm sao tôi biết em đang đợi tôi ởđây? Tôi đáp lời ngay để giải tỏa sự bực tức của ông:

– Cháu nói thế là v́ đại đức Pranabā không hề rời khỏi căn pḥng này từ khi cháu bước chân đến đây, dù chỉ là trong chốc lát. Ông Kedar Nath sửng người một lúc lâu rồi nói:

– Thế th́ tôi đang nằm mơ chăng? Tôi không sao tưởng tượng được một việc như thế lại có thể xảy ra ngay trước mắt ḿnh. Rơ ràng là đại đức Pranabā có khả năng phân thân để xuất hiện ở hai nơi trong cùng một lúc! Tôi nhớ lại câu chuyện đă được nghe về thầy Lahiri Mahāsaya ở Bénarès, khi ngài xuất hiện trên cánh đồng để gặp cha tôi ở cách xa Bénarès. Phải chăng khi ấy ngài cũng không hề rời khỏi Bénarès mà chỉ phân thân xuất hiện ở hai nơi cùng một lúc? Chúng tôi bước vào pḥng khách. Ông Kedar bấm nhẹ vào tay tôi và nói nhỏ:

– Này em, chính ngài đă mang đôi guốc gỗđang nằm dưới thềm kia khi đến gặp tôi tại bờ sông. Đại đức Pranabā dường như hiểu thấu tâm trạng ngạc nhiên của chúng tôi. Ngài quay về phía tôi, nhoẻn cười và nói trong khi ông Kedar cúi xuống để chào ngài:

– Sao con ngạc nhiên đến thế? Tính chất đồng thể của thế giới hiện tượng không có ǵ là kỳ lạ đối với các bậc chân tu chứng ngộ. Bất cứ lúc nào tôi cũng có thể nh́n thấy và tṛ chuyện với các đệ tử của tôi ởCalcutta, và họ cũng đạt được khả năng vượt qua sự ngăn cách về không gian dễ dàng theo như ư muốn. Trong buổi tṛ chuyện hôm ấy, đại đức Pranabā c̣n tiếp tục cho tôi biết thêm rất nhiều về những năng lực kỳ bí, huyền diệu mà một vị chân sư có thể đạt được. Tuy nhiên, thay v́ cảm thấy hứng khởi, tôi lại có một cảm giác phân vân, lo lắng. Về sau, tôi mới hiểu là do nhân duyên từ trước, tôi sẽ đến học đạo với thầy Śrī Yukteswar như một vị thầy duy nhất, mà vào lúc ấy tôi vẫn c̣n chưa hề có dịp gặp gỡ. V́ thế mà có một sự ngăn cách lạ lùng khiến cho tôi không hề có ư muốn nhận đại đức Pranabā làm thầy, cho dù tôi rất kính phục ngài. Đại đức Pranabā lại quay sang nói về vị tôn sư của ngài, cũng là đức tôn sư của cha mẹ tôi mà tôi đă có dịp đề cập đến khá nhiều qua bức di ảnh của ngài, đức thầy Lahiri Mahāsaya:

– Đức Lahiri Mahāsaya là vị tôn sư cao cả nhất mà tôi đă từng được biết. Ngài chính là hiện thân của

giải thoát và giác ngộ để mang đến phước lành cho tất cả chúng sanh. Tôi hoàn toàn không nghi ngờ ǵ vềđiều đó. Ngoài những điều đă được biết về tôn sư, tôi c̣n nghĩ rằng, nếu một người đệ tửđă có đủ khả năng để phân thân xuất hiện ở hai nơi cùng một lúc, th́ tất nhiên không có một điều kỳ diệu nào mà bậc tôn sư ấy lại không thể làm được. Đại đức Pranabā tiếp tục nói về thầy Lahiri Mahāsaya:

– Này con, tôi muốn cho con ư thức một cách đầy đủ về tầm quan trọng và quư giá của việc có được một bậc chân sư dẫn dắt là như thế nào. Nếu không có thầy Lahiri Mahāsaya, chắc chắn tôi không thể có được kết quả an ổn giải thoát như hôm nay. Tôi c̣n nhớ, khi tôi đă đến xin học với ngài, mỗi đêm tôi đều thực hành ngồi thiền cùng với một bạn đồng tu khác. Nhưng để kiếm sống, tôi vẫn phải làm việc hằng ngày ở công ty đường sắt, lúc đó dưới quyền cha con. Nhiệt tâm cầu đạo đă làm cho tôi phải vô cùng khổ sở khi phải mất th́ giờ vào công việc trong khi tôi chỉ muốn dành trọn cho công phu thiền định. Tôi chịu đựng sự dằn vặt ấy trong suốt 8 năm trời. Mỗi đêm, tôi dành khoảng vài giờ cho việc ngồi thiền. Tôi đạt được những tŕnh độ chứng nghiệm nhất định về tâm linh, và điều đó là phần thưởng vô giá dành cho những nỗ lực của tôi. Nhưng tôi vẫn c̣n cảm thấy một sự ngăn cách mong manh, như một màn sương mỏng che phủ khiến cho tôi không đạt đến sự chứng ngộ giải thoát. Khi ấy, tôi t́m đến tôn sư và thành khẩn cầu nguyện với ngài: “Bạch thầy, cuộc đời giờđây là một gánh

nặng đối với con nếu như con không đạt đến sự chứng ngộ, bởi v́ con không t́m thấy ư nghĩa sống ở bất cứ một khía cạnh nào khác. Nhưng con vẫn không thể đạt đến sự chứng ngộ với công phu của ḿnh. Xin thầy hăy giúp con.” Tôn sưđáp lại rằng: “Con hăy cố gắng hơn nữa. Đó là những ǵ mà ta có thể khuyên con trong lúc này.” Nhưng tôi đă không c̣n đủ niềm tin vào chính ḿnh sau bao nhiêu nỗ lực thất bại, v́ thế tôi quỳ xuống và khẩn cầu ngài tha thiết hơn nữa. Bấy giờ tôn sư đưa tay xoa đầu tôi và nói: “Được rồi, giờ th́ con hăy trở về và cố gắng tham thiền đi. Ta đă cầu nguyện chư Phật gia hộ cho con rồi.” Với cử chỉ và lời nói của tôn sư, tôi bỗng thấy hết sức yên tâm và tin cậy. Và ngay trong đêm đó, tôi đạt đến mức độ chứng ngộ đầu tiên, không c̣n cảm thấy bất cứ một sự trói buộc nào trong cuộc sống nữa. Kể từđó, tôi thực hiện tất cả mọi công việc hằng ngày trong một niềm an lạc vô biên, không c̣n có những dằn vặt nội tâm như trước nữa. Đại đức Pranabā dừng lại một lát. Tôi cảm nhận được một vầng ánh sáng dịu dàng mà rực rỡ tỏa ra trên khuôn mặt b́nh thản của ngài. Ngài nói tiếp:

– Hai tháng sau đó, tôi trở lại thăm tôn sư và nói: “Bạch thầy, con không muốn tiếp tục việc làm ở thế tục nữa. Con muốn được sống trọn vẹn với đạo vị vừa t́m được.” Tôn sưđáp: “Được rồi, vậy con hăy xin nghỉ việc và nhận lương hưu.” “Nhưng con vẫn chưa đến tuổi nghỉ hưu, và con cần phải có một lư do.” “Con có thể nêu bất cứ lư do nào con muốn.” Rồi tôn sư lặng lẽ nhập định.

Gương mặt đại đức Pranabā có vẻ trầm tư nhưđang nhớ lại những ǵ đă xảy ra trong quá khứ. Một lát sau, ông nói tiếp, giọng trầm hẳn lại:

– Ngay hôm sau, tôi đưa đơn xin nghỉ v́ lư do sức khỏe. Vị bác sĩ của công ty đến hỏi tôi: “V́ sao ông xin nghỉ việc?” Tôi đáp: “Trong khi làm việc, tôi thấy có cảm giác khó chịu, tôi không thể tập trung tư tưởng vào công việc được.” Thật là một lư do mơ hồ! Tự tôi cũng biết thế. Nhưng ông ta không hỏi ǵ thêm, lặng lẽ thu xếp đủ mọi giấy tờ để tôi được nghỉ hưu sớm với lư do “kém sức khỏe” và được nhận lương hưu từ công ty hỏa xa. Tôi biết là việc này không thường xảy ra. Nhưng tất cả mọi sự dễ dàng đă đến với tôi chắc chắn là qua sự giúp đỡ của tôn sư Lahiri Mahāsaya ở Bénarès. Từđó, tôi dành trọn thời gian của ḿnh cho việc tu tập. Sau buổi nói chuyện khá lâu ấy, đại đức Pranabā lại ngồi ngay ngắn và sắp sửa nhập thiền. Tôi kính cẩn đặt nhẹ hai tay lên bàn chân ngài để từ biệt. Ngài nh́n tôi và nói:

– Cuộc đời của con rồi cũng sẽ dành trọn cho việc tu tập thiền định và truyền bá pháp môn này. Tôi sẽ gặp lại con và cha con sau này. Lời dự báo ấy quả nhiên về sau thành sự thật. Khi tôi thành lập một trường học ở Ranchi, ông đă là một trong những người đầu tiên đến thăm viếng và động viên tôi. Nhân dịp ấy, ông đă gặp lại cả cha tôi và tôi trong một hoàn cảnh mà ông đă nh́n thấy trước từ lúc này. Khi ra khỏi nhà, trời đă sẫm tối. Ông Kedar Nath đi cạnh tôi và nói:

– Tôi đă xem thư của cha em. Ông ấy mời tôi nhận một công việc với công ty đường sắt tại Calcutta. Điều đó thật tốt đẹp, nhưng tôi không thể rời Bénarès này, và cũng không thể phân thân để làm việc ở hai nơi cùng một lúc. Cả hai chúng tôi cùng cười x̣a qua lời nói đùa ấy của ông.

 

CHƯƠNG IV ĐƯỜNG LÊN HY MĂ LP SƠN

Gia đ́nh tôi vềở Calcutta khi công việc của cha tôi được thuyên chuyển vềđây lâu dài. Căn nhà lớn nằm ở số 4 đường Gurpar, và anh cả tôi cũng đưa vợ về chung sống với cả gia đ́nh theo như phong tục Ấn Độ. Tôi có một căn gác nhỏ yên vắng để dành riêng cho việc tham thiền mà không bị ai quấy rầy. Tôi tự biết ḿnh cần phải chuẩn bị tinh thần thật đầy đủ trước khi có thể gặp được bậc thầy khai ngộ. Giấc mơ trốn nhà lên Hy Mă Lạp Sơn vẫn chưa tắt hẳn trong tôi sau thất bại lần trước. Ngược lại, nó ngày càng cháy bỏng, thôi thúc hơn bao giờ hết. Lần này, tôi nghĩ cần phải có một sự sắp xếp kế hoạch thật chu đáo nếu muốn qua được cặp mắt của anh Ananta, lúc nào cũng nh́n tôi với vẻ nghi ngờ cảnh giác và sẵn sàng phá hỏng mọi dự tính ra đi của tôi. Một người bạn học cùng lớp là Amar Mitter đồng ư theo tôi trong chuyến đi này. Tôi bố trí anh ta chuẩn bị xe ngựa, và sẽđón tôi ở một vị trí gần nhà nhưng nằm ngoài tầm nh́n của tất cả mọi người trong nhà.

Buổi sáng chúng tôi lên đường, trời có mưa nhẹ. Khi nghe tiếng bánh xe của Amar lăn trên đường, tôi vội vă xếp đồ cho vào một túi vải. Không có ǵ nhiều, chỉ có trong đó một cái mền, một đôi dép, bức chân dung thầy Lahiri Mahāsaya, một quyển kinh Bhagavad, một xâu chuỗi hạt và 2 cái chăn vải.14 Tôi ném gói đồ qua khung cửa sổ để nó rơi xuống đường, nơi tôi sẽ đến nhặt lấy sau khi đă ra khỏi nhà. Xong, tôi vội vàng chạy xuống cầu thang. Tôi gặp cậu tôi đang đứng trước cửa nhà mua rau cải. Ông nh́n tôi vẻ hơi ngạc nhiên và hỏi: “Mày làm ǵ mà vội vàng thế?” Tôi chỉ nh́n ông cười không đáp, rồi bước nhanh ra đường. Sau khi đă có gói đồ trong tay, tôi chạy nhanh đến điểm hẹn với Amar. Đón tôi lên rồi, chúng tôi cho xe ngựa chạy về hướng khu thương mại Chandni Chauk. Tôi đă dành dụm riêng một số tiền để thực hiện kế hoạch này. Chúng tôi sẽ mua Âu phục mặc vào để đánh lạc hướng anh Ananta, v́ khi phát hiện chúng tôi đă ra đi, anh có thể t́m mọi cách để đuổi theo bắt lại. Và tôi đă từng biết anh cũng có tài làm thám tử chẳng kém ai. Chúng tôi c̣n một bạn đồng hành nữa là Jatinda, anh họ của tôi. Anh được chúng tôi dừng xe trên đường để đón lên cùng đi. Anh chàng này ban đầu khá thờơ với chuyện đi lên những dăy núi tuyết hoang vu lạnh giá, nhưng rồi sau đă bị tôi thuyết phục với viễn ảnh lôi cuốn của việc tầm sư học đạo. Cả ba chúng tôi đều đă mặc Âu phục sang trọng, và

tôi hy vọng với lối ngụy trang này anh tôi sẽ khó ḷng mà phát hiện chúng tôi kịp lúc. Chúng tôi c̣n phải đến tiệm giày để trang bị những đôi giày cho hợp với trang phục mới. Tôi nói với các bạn:

 

 

– Những vật dụng bằng da là do sự giết hại sinh linh mà có. Những người hành hương không được quyền sử dụng chúng. Tôi vừa nói vừa tháo sợi dây da trên nón và xé bỏ tấm b́a da bọc ngoài cuốn kinh Bhagavad. Tại nhà ga, chúng tôi mua vé đi Burdwan, dự tính sẽ từđó đi Hardwar, dưới chân dăy Hy Mă Lạp Sơn. Sau khi xe lửa chạy, tôi thấy ḷng rộn ràng phơi phới. Trí tưởng tượng của tôi h́nh dung ra những chuyện mà tôi từ lâu mơ ước, và tôi không thể nào giữ kín nó mà không chia sẻ với các bạn ḿnh. Tôi nói:

 

– Này các bạn, không bao lâu nữa chúng ta sẽ t́m gặp được những bậc chân sư. Chúng ta sẽ cùng nhau tu tập và đạt đến những kết quả chứng ngộ phi thường. Dăy Hy Mă Lạp Sơn sẽ là nơi chứng kiến chúng ta trở thành những bậc chân tu đạt ngộ. Những loài thú dữ sẽ đến phủ phục dưới chân ta v́ chúng ta đă có quyền năng thu phục được chúng. Những con cọp hung dữ cũng sẽ cảm động trước từ tâm của chúng ta, và đến cạnh chúng ta như những con mèo to lớn để được chúng ta vuốt ve tŕu mến chúng. Amar lắng nghe tôi với nụ cười hứng khởi, c̣n Jatinda th́ lộ vẻ suy tư. Anh chàng quay mặt đi

nơi khác, nh́n ra cảnh vật bên ngoài. Một lúc lâu, anh nói:

– Chúng ta hăy chia tiền ra, để khi đến Burdwan mỗi người sẽ tựđi mua vé. Làm như thế sẽ không ai nghi ngờ rằng chúng ta đă cùng nhau trốn đi. Tôi đồng ư không chút nghi ngờ. Khi đến Burdwan vào buổi chiều, Jatinda đề nghị là sẽ đi mua vé trước, c̣n tôi và Amar đứng đợi trên bến. Chúng tôi chờ rất lâu và không thấy Jatinda trở lại, bèn cùng nhau đi t́m anh ta. Nhưng anh ta đă mất dạng đâu đó trong bóng tối nhá nhem đang phủ xuống nhà ga. Đến lúc này chúng tôi mới hiểu ra ư đồ chia tiền của anh ta. Ḷng tôi tràn đầy thất vọng, không ngờ kế hoạch tầm sư học đạo của ḿnh lại bị phá hỏng một cách chua cay bởi người bạn đồng hành tin cậy. Tôi nói với Amar bằng giọng buồn thảm:

– Amar, chúng ta hăy về thôi. Sự phản bội của Jatinda là điềm không tốt, và chuyến đi này chắc chắn sẽ thất bại. Nhưng Amar khá cứng cỏi. Anh hỏi tôi:

– Ư chí tầm sư học đạo của anh chỉ có thế thôi sao? Anh sẵn sàng bỏ cuộc chỉ v́ sự phản bội của một bạn đồng hành mà không thể cố gắng vượt qua được hay sao? Câu nói với hàm ư thách thức của Amar ngay lập tức làm tôi cảm thấy khôi phục ư chí và niềm tin. Chúng tôi mua một ít kẹo mứt để ngồi ăn và chờ chuyến xe lửa sắp tới đi Hardwar qua vùng Bareilly. Khi đổi tàu ở trạm Moghul Serai, tôi nói với Amar:

– Amar, có lẽ giờ này anh tôi đă kịp thông báo cho các nhà ga về sự ra đi của chúng ta. Nếu người ta có hạch hỏi lôi thôi, anh hăy lựa lời mà nói. Dù thế nào tôi cũng không thể nói dối được đâu. Amar cười đáp:

– Mukunda, anh chỉ việc ngồi yên. Chỉ cần anh không cười và không nói ǵ cả, mọi việc để tôi lo. Và anh chàng Amar này quả cũng ghê gớm thật, v́ ngay khi đó anh đă có dịp để trổ tài ứng phó ngay trước mặt tôi. Một nhân viên nhà ga người Anh đến trước chúng tôi, đưa cho chúng tôi xem một bức điện tín màu xanh mà tôi có thểđoán ngay ra nội dung của nó. Ông này hỏi tôi:

– Có phải các em bỏ nhà đi v́ oán hận gia đ́nh hay không? Tôi đáp:

– Không. Và tôi lấy làm sung sướng là câu hỏi vụng về của ông ta đă giúp tôi không phải nói dối. Ông quay sang Amar, nghiêm giọng hỏi:

– C̣n người thứ ba đâu? Chúng tôi đều im lặng. Ông ta hỏi tiếp với giọng đe dọa:

– Các em hăy nói mau và phải nói sự thật. Amar hết sức b́nh tĩnh, trả lời bằng một giọng pha chút hóm hỉnh, khôi hài:

– Thưa ông, rơ ràng là ông đang mang kính. Tôi nghĩ là ông có thể thấy rất rơ chúng tôi chỉ có 2 người.

Rồi anh bật cười ranh mănh và nói tiếp, cho thấy chúng tôi không phải là những người mang tâm trạng của kẻđang chạy trốn chút nào:

– Tôi xin thành thật cáo lỗi cùng quư ông. Bởi v́ tôi không phải là phù thủy, nên không thể có khả năng tạo ra thêm một người thứ ba theo yêu cầu của quư ông được. Người nhân viên nhà ga có vẻ hoang mang, ông nghĩ rằng ḿnh đă lầm, nhưng c̣n muốn xác nhận thêm cho chắc chắn. Ông hỏi Amar:

– Em tên ǵ?

– Tôi là Thomas. Mẹ tôi người Anh, cha tôi người Ấn theo đạo Thiên Chúa. C̣n anh bạn tôi đây làThompson. Tôi cố nhịn hết sức để khỏi bật cười trước câu chuyện bịa đặt của Amar. Nhưng may thay lúc đó c̣i đă rú lên và xe sắp chạy. Người nhân viên hỏa xa tin rằng ḿnh đă lầm, và ông muốn chuộc lỗi bằng cách đưa chúng tôi đến toa hạng nhất dành riêng cho người Âu. Chờ khi ông ta đă chào tạm biệt một cách lịch sự và mất hút vào đám đông, tôi mới lăn ra cười về câu chuyện cha Ấn mẹ Anh của chàng Amar tinh quái. Anh chàng này cũng rất lấy làm hài ḷng thấy ḿnh đă đánh lừa được một nhân viên người Anh chính hiệu. Bấy giờ, tôi mới nhớ lại nội dung bức điện mà người nhân viên hỏa xa đă đưa cho chúng tôi xem. Trong đó ghi: “Ba thanh niên Bengal, mặc Âu phục, đi trốn về hướng Hardwar, qua Moghul Serai. Yêu cầu bắt giữ lại chờ tôi đến nơi. Xin hậu tạ.” Tôi nghiêm nét mặt, nói với Amar:

– Amar, tôi đă dặn trước anh không được để quên bản thời khắc biểu có ghi lộ tŕnh của chúng ta. Tôi chắc là anh tôi đă t́m thấy bản lộ tŕnh ấy ởđâu đó tại nhà anh rồi. Amar biết lỗi không nói ǵ. Chúng tôi im lặng cho đến khi xe lửa dừng ở Bareilly. Dwarka Prasad đang chờ chúng tôi ở ga với bức điện tín của anh tôi trên tay. Anh bạn này cố giữ chúng tôi lại nhưng vô ích. Tôi cho anh biết là đă quyết tâm phải lên tận Hy Mă Lạp Sơn. Anh chàng đành để cho chúng tôi tiếp tục hành tŕnh. Đêm hôm đó, chúng tôi đang ngủ ngon giấc th́ xe lửa dừng ở một ga nhỏ và một nhân viên nhà ga đến đánh thức chúng tôi dậy để gạn hỏi về “ba thanh niên bỏ trốn”. Nhưng ông ta nhanh chóng bị Amar

 

thuyết

phục

bằng

câu

chuyện

“Thomas

Thompson”.

 

 

 

 

 

 

 

 

Sáng

hôm sau,

chúng

tôi

đặt

chân

lên

thị

                     

 

trấn Hardwar với tâm trạng của những kẻ chiến thắng. Chúng tôi đă tận mắt nh́n thấy được những ngọn núi hùng vĩ vươn lên chớn chởở phía chân trời. Không bao lâu nữa chúng tôi sẽ tự ḿnh đến được nơi đó. Chúng tôi đi ra khỏi nhà ga để lẫn vào đám đông, và sau đó th́ t́m một chỗ thuận tiện để thay bộ Âu phục bằng y phục bản xứ. Không hiểu sao, tôi vẫn có cảm giác là chúng tôi sẽ bị bắt lại. Chúng tôi trở vào nhà ga và mua vé đi Rishikesh ngay. Đây là thị trấn được các vị chân sư xem như một nơi linh địa từ xưa nay. Chúng tôi

hy vọng khi đến được đó sẽ thoát khỏi tầm rượt đuổi của anh tôi. Khi tôi đă bước vào toa xe và Amar c̣n ở bên dưới, tôi nghe có tiếng gọi của một người cảnh sát. Ông này có đủ thông tin để không bị Amar đánh lừa với câu chuyện “cha Ấn mẹ Anh” của anh ta. Ông đưa cả hai chúng tôi về đồn cảnh sát, lục soát và tịch thu tất cả số tiền c̣n lại của chúng tôi, rồi thông báo một cách lịch sự là ông có nhiệm vụ phải giữ chúng tôi ởđây để chờ anh Ananta đến. Chuyến đi Hy Mă Lạp Sơn lần thứ hai này của tôi xem như chấm dứt tại đây, khi mà những đỉnh núi tuyết hùng vĩđă nằm trong tầm mắt! Trong thời gian chờ đợi, người cảnh sát hỏi chúng tôi về mục đích của chuyến đi. Sau khi nghe chúng tôi tŕnh bày, ông bèn kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện như để bù đắp lại trở ngại mà ông đă buộc phải gây ra cho chúng tôi v́ nhiệm vụ:

 Các anh mong muốn t́m gặp một vị chân sư đắc đạo nên mới trốn nhà ra đi một cách táo bạo như thế. Nhưng tôi tin là các anh sẽ không bao giờ gặp được vị chân sư nào đáng kính phục hơn là người tôi vừa gặp hôm qua đây, tại chính thành phố này.Ông ta dừng lại một chút, như để chúng tôi kịp hiểu ra những ǵ ông vừa nói. Rồi ông chậm răi kể tiếp:

 Cách đây năm hôm, chúng tôi đang truy nă một kẻ sát nhân trên con đường dọc theo bờ sông Hằng. Chúng tôi được biết tên này đă cải trang thành một tu sĩ để cướp tài sản của những người hành hương. Chúng tôi phát hiện một tu sĩ có h́nh dáng giống như người mà chúng tôi được mô tả để truy bắt.

 

Chúng tôi đuổi theo từ xa và ra lệnh cho ông ta dừng lại. Nhưng ông vẫn điềm nhiên bước đi một cách thanh thản như không hề nghe thấy tiếng chúng tôi. Chúng tôi liền dốc sức đuổi theo, và khi đuổi kịp th́ chính tôi đă dùng thanh đoản kiếm của ḿnh chém ông ta một nhát tận lực. Ông đưa tay đỡ, và nhát kiếm cắt sâu vào cánh tay, máu tuôn xối xả. Người tu sĩ không hề kêu la tiếng nào, vẫn thản nhiên tiến bước với gương mặt b́nh thản như không có ǵ xảy ra. Chúng tôi vây lấy ông ta và buộc ông phải dừng lại. Ông nh́n thẳng vào mắt tôi và nói, giọng từ tốn: “Ông đă lầm rồi, tôi không phải kẻ giết người mà các ông đang t́m kiếm.” Ánh mắt và giọng nói của người khiến cho tôi biết chắc là ḿnh đă lầm. Vô cùng hối hận v́ đă đả thương một người vô tội, lại là một tu sĩ thánh thiện, tôi phủ phục quỳ xuống xin sám hối với ngài. Tôi cũng xé chiếc khăn bịt đầu của ḿnh để băng lại vết thương cho ngài. Như hiểu được tâm trạng ân hận đau đớn của tôi, vị tu sĩ liền nói một cách từ ḥa: “Này con, lỗi lầm của con hoàn toàn không cố ư. Con hăy đi đi, và đừng tự trách ḿnh nữa. Chư Phật từ bi sẽ gia hộ cho con.” Nói rồi, người đưa tay kia đặt vào vết thương. Điều kỳ diệu đă xảy ra ngay trước mắt tôi. Máu lập tức ngừng chảy, và vết cắt sâu trên da liền lại như cũ. Người lại nói: “Để xóa tan sự ân hận trong ḷng con, ba ngày sau con hăy trở lại nơi đây, dưới tán cây đằng kia. Ta sẽ chứng tỏ cho con thấy là ta đă hoàn toàn b́nh phục và con không có ǵ phải lo lắng cho ta.”

Viên cảnh sát dừng lại, vẻ đăm chiêu. Dường như ông vẫn c̣n chưa hết tâm trạng bàng hoàng trước một sự việc kỳ diệu đă xảy ra trước mắt ḿnh. Ông nói tiếp:

 

– Chiều hôm qua, tôi và một người bạn cùng trở lại nơi ấy. Và vị tu sĩđang ngồi tọa thiền dưới tán cây đă hẹn. Ông đưa cho chúng tôi xem chỗ vết chém. Quả thật, vết thương chẳng những đă lành hẳn mà thậm chí chúng tôi c̣n không thể t́m thấy cả một vết sẹo nữa. Thật là một chuyện không thể nào tin được nếu không tận mắt chứng kiến. Sau đó, người chia tay chúng tôi và đi về hướng Rishikesh để lên Hy Mă Lạp Sơn. Viên cảnh sát kết thúc câu chuyện:

 

– Cuộc gặp gỡ lạ kỳ này đă làm tôi thay đổi nhiều lắm. Tôi có cảm tưởng như ḿnh đă trở nên một người hoàn toàn khác hẳn. Tôi cũng rất vui khi nghe ông ta nói thế. Và tin chắc rằng với tâm hướng thượng mạnh mẽ hơn, ông ta sẽ làm được nhiều điều tốt đẹp hơn nữa trong cuộc đời ḿnh. Amar và tôi cũng thấy thất vọng v́ không có may mắn để được gặp gỡ vị tu sĩ thánh thiện ấy, người đă có đủ từ tâm để tha thứ hoàn toàn cho kẻđă làm hại ḿnh. Nhưng chúng tôi cũng thấy có phần tự hào khi nghĩ về đất nước của ḿnh, mặc dù nghèo nàn về vật chất từ bao đời nay, nhưng lại có một kho tàng tâm linh phong phú bất tận, và ngay cả một viên cảnh sát làm nhiệm vụ trừ gian diệt bạo cũng có dịp gặp gỡ được bậc thánh nhân phi phàm xuất chúng.

Tôi ngỏ lời cảm ơn viên cảnh sát v́ đă cho chúng tôi nghe một câu chuyện ly kỳ nhưng có thực, làm củng cố niềm tin của chúng tôi. Về phần ông ta, ông cũng rất lấy làm tự hào v́ đă may mắn hơn chúng tôi rất nhiều. Ông không cần phải lặn lội lên tận những hang sâu động vắng của Hy Mă Lạp Sơn quanh năm lạnh giá, mà vẫn gặp được một bậc chân sư hiền thánh. C̣n chúng tôi, mất bao công sức lặn lội đường xa, cuối cùng giờđây lại chỉ đến được nơi đồn cảnh sát! Tuy nhiên, có một điều mà viên cảnh sát này có lẽ c̣n không sao hiểu được. Đó là việc gặp gỡ một bậc thánh và đi theo con đường của bậc thánh là hai chuyện cách nhau khá xa! Giờđây, trong t́nh trạng bị bắt giữ, chúng tôi vừa gần mà lại vừa xa Hy Mă Lạp Sơn. Tôi chợt nảy ra ư trốn thoát và đi bộ lên núi, nhưng Amar không tán thành. Anh nói:

– Thứ nhất, chúng ta không c̣n tiền bạc. Thứ hai, đi bộ xuyên qua rừng già là cực kỳ nguy hiểm. Chúng ta có thể không đến được đất thánh mà không khéo sẽ chui vào bụng cọp mất. Và cái nhuệ khí cuối cùng của tôi cũng chỉ đến đó mà thôi! Ba ngày sau, anh Ananta và người anh của Amar t́m đến nơi. Amar hồn nhiên vui vẻ khi gặp anh ḿnh. Ít ǵ th́ chúng tôi cũng đă bị giam giữ đến mấy ngày liền, một chuyện mà từ nhỏ chưa từng xảy ra. Nhưng tôi không thể nào vui được, và tỏ ư giận anh tôi ra mặt. Anh an ủi tôi:

– Anh hiểu tâm trạng của em. Chỉ cần em theo anh đến Bénarès gặp một người quen, rồi về Calcutta thăm cha mấy ngày. Sau đó em có thể tự do ra đi t́m thầy. Amar nói cho tôi biết là anh ta không c̣n nuôi ư tưởng tầm sư học đạo nữa. Sau chuyến đi đầy lo lắng này, anh thấy quư giá bầu không khí sum họp gia đ́nh và không c̣n muốn rời xa dù là để làm ǵ. Nhưng tôi th́ khác. Tôi vẫn không hề từ bỏ ư định tầm sư học đạo, nhưng giờđây tôi vẫn phải nghe theo lời anh Ananta và đi đến Bénarès. Ananta đă sắp đặt trước một mưu kế khá hoàn hảo, chu đáo. Trước khi đến chỗ chúng tôi, anh đă ghé qua Bénarès và thu xếp với một học giả uyên thâm nổi tiếng. Ông này và con trai ông đồng ư giúp anh tôi thuyết phục tôi từ bỏ ư định bỏ nhà ra đi xuất gia. Khi chúng tôi đến, người con trai đón tôi từ ngoài sân với thái độ niềm nở, và chủ động đưa tôi vào một cuộc thảo luận ṿng vo đầy tính chất triết lư. Anh chàng này rất tự tin trong việc sẽ thuyết phục tôi từ bỏ ư muốn xuất gia. Chẳng những đưa ra nhiều lập luận, mà anh ta c̣n pha chút hàm ư đe dọa:

– Người trốn tránh những trách nhiệm thông thường hằng ngày của gia đ́nh không thể đạt được đạo lư cao siêu, và chắc chắn sẽ gặp nhiều tai họa trong cuộc sống. Làm sao anh có thể vượt qua nghiệp quả khi anh không có đủ kinh nghiệm sống trong cuộc đời?

Tôi quyết định không tranh căi với anh ta, mà suy nghĩ để đối chiếu lời anh ta nói với những điều đă đọc thấy trong kinh sách. Tôi nhớ lại một đoạn trong kinh Bhagavad: “Dù là một người tội lỗi nhất, nếu biết quay về quy kính sẽ được xem như một kẻ làm lành, v́ ngay khi ấy quả là người đă làm lành. Người sẽ biết được những ǵ nên làm và thẳng tiến đến an lạc. Này tín hữu, những ai thành tâm quy kính sẽ được trường tồn bất tử.” Mặc dù vậy, những lập luận chặt chẽ của anh ta đă tác động phần nào đến tâm hồn c̣n non trẻ của tôi. Tôi liền cầu nguyện với tất cả ḷng chí thành: “Cầu xin chư Phật hăy gia hộ, xóa tan sự nghi ngờ trong con. Hăy giúp con thấy rơ được con đường đúng đắn nhất, con sẽ là người xuất gia hay nên đi theo con đường thế tục.” Vừa khi ấy, cách khoảng sân mà chúng tôi đang đứng nói chuyện không xa lắm, tôi nh́n thấy một vị tu sĩ tướng mạo uy nghi đang chậm răi bước đi về phía tôi. Tôi bước ra khỏi sân và rảo bước về phía người. Vị tu sĩ nh́n tôi với ánh mắt hiền ḥa nhưng rực sáng, và nói như thể người đă nghe hết những ǵ tôi và người thanh niên kia đang trao đổi:

– Này con, đừng tin theo lời kẻ ngu dốt ấy. Ta đến đây chỉ để nói cho con biết rằng, với tất cả những thiện nghiệp đă gieo trồng từ muôn kiếp, con sẽđi theo con đường xuất gia mà không ai có thể ngăn cản được. Với một niềm tin vững chắc vào lời cầu nguyện của ḿnh, tôi cảm thấy hầu như không có ǵ ngạc nhiên trước sự xuất hiện bất ngờđúng lúc của vị tu sĩ. Tôi

cung kính cúi chào người và nở một nụ cười thỏa măn. Ngay lúc ấy, “kẻ ngu dốt” từ trong sân nhà gọi tôi:

– Đừng lại gần người ấy. Vị tu sĩ không nói ǵ thêm, ung dung bước đi. Khi tôi trở lại, ông học giả từ trong nhà bước ra đă nh́n thấy mọi chuyện. Ông đưa ra một nhận xét hết sức “lịch sự”:

– Người tu sĩấy cũng điên rồ không kém ǵ anh đâu. Ông ta chắc hẳn cũng đă từ bỏ gia đ́nh để chạy theo những chuyện viễn vông không thực tế. Tôi không muốn bị lôi cuốn vào sự tranh luận, nên chỉ quay sang nói nhỏ với anh Ananta là tôi không muốn tṛ chuyện thêm nữa. Anh tôi đành phải miễn cưỡng từ biệt, và chúng tôi thẳng ra ga xe lửa để về Calcutta. Trên đường đi, tôi hỏi Ananta:

– Này nhà thám tử, anh làm thế nào mà biết em đă đi với 2 người bạn? Ananta cười, vẻ khoái chí:

– Khi đến trường, anh nghe nói Amar rời khỏi lớp và không trở lại. Anh liền đến ngay nhà Amar và t́m thấy một bản báo giờ của xe lửa, trên đó có đánh dấu lộ tŕnh các em sẽđi qua. Cha của Amar khi ấy đang chuẩn bịđi đâu đó bằng xe ngựa. Ông nói với người phu xe bằng giọng rên rỉ: “Sáng nay con tôi không đến trường, nó đă mất tích và tôi không thểđoán được là nó có thểđi đến đâu.” Người phu xe đáp: “Một người bạn tôi nói là đă đưa con ông và hai người bạn khác mặc Âu phục ra ga xe lửa. Họđă bỏ lại mấy đôi giày da cho anh ta

trước khi lên xe lửa tại ga Howrah.” V́ thế, anh biết là bọn em có 3 người, mặc Âu phục và sẽđi theo lộ tŕnh đă đánh dấu trên bảng báo giờ của xe lửa. Tôi lắng nghe Ananta với tâm trạng vừa thán phục vừa bực dọc. Ananta vẫn thản nhiên nói tiếp:

– Cách giải quyết vấn đề của anh cũng đơn giản thôi. Trước tiên, anh điện báo ngay cho những ga xe lửa mà các em sẽđi qua, để nhờ họ giữ các em lại. V́ Bareilly cũng nằm trên tuyến đường, nên anh cũng báo cho bạn em ởđó là Dwarka. Ngay sau đó, anh ḍ biết được Jatinda cũng đă mất tích vào cùng ngày, nhưng sáng hôm sau đă về nhà với bộ Âu phục. Không khó khăn lắm để biết rằng anh ta chính là người thứ ba trong nhóm. Anh liền đến nhà, phớt lờđi mọi việc và chỉ mời anh ta đi ăn cơm tối. Jatinda không nghi ngờ ǵ, nhận lời cùng đi với anh ngay. Thay v́ đến tiệm ăn, anh bất ngờ đưa anh ta vào đồn cảnh sát, với sự sắp xếp trước với viên trưởng đồn để đưa ra những người có dáng vẻ hung tợn nhất nhằm hù dọa anh ta.Jatinda không phải đứa gan dạ cho lắm, nên chỉ qua vài câu quát tháo là khai tuột ra tất cả: “Tôi nghe lời thuyết phục của Mukunda và cảm thấy bị hấp dẫn mạnh mẽ bởi ư tưởng t́m thầy học đạo trên dăy Hy Mă Lạp Sơn. Nhưng khi nghe Mukunda nói về viễn ảnh những con cọp bị chúng tôi chinh phục bằng đạo lực sẽ ngoan ngỗn đến gần như những con mèo, tôi bỗng thấy khiếp sợ. Tôi nghĩ, nếu như sự tu tập của tôi chưa được trọn vẹn, chưa đủ sức để cảm hóa những con vật hung dữấy th́ điều ǵ sẽ xảy ra? Tôi sợ rằng chúng sẽ chẳng chịu nuốt gọn tôi vào bụng cho êm

ả, mà c̣n xé nhỏ ra từng mảnh nữa. Nghĩ vậy, tôi thấy bủn rủn cả tay chân nên liền t́m cách nói dối Mukunda và Amar để trốn về.” Nghe Ananta kể đến đây, tôi không nhịn được phải bật cười. Và những nỗi oán giận đối với Jatinda bỗng chốc tiêu tan đi mất. Hóa ra anh ta không chủ tâm phản bội chúng tôi, mà chỉ v́ không vượt qua được sự nhút nhát của chính bản thân ḿnh. Tuy nhiên, phải thú thật là tôi có phần khoái chí khi nghe biết anh chàng cũng đă phải vào đồn cảnh sát, không hơn ǵ bọn tôi. Tôi nói với anh Ananta, nửa đùa nửa thật:

– Này anh, anh quả thật có đủ tài năng và bản chất của một con chó săn đấy. Ananta không cho câu ấy là xúc phạm. Anh chỉ nh́n tôi và cười lớn. Khi chúng tôi đến Calcutta, cha tôi không trách mắng tôi một lời nào về chuyện đă qua. Ông chỉ khuyên tôi hăy dằn ḷng trong ít lâu, cho đến khi học xong bậc trung học. Ngoài ra, người cũng đă t́m được cho tôi một vị thầy uyên bác là đại đức Kebalā. Ngài đă hứa là sẽ thường xuyên đến nhà để giúp cho việc học của tôi. Tuy nhiên, dụng ư chính của cha tôi là muốn ngài dạy tôi môn tiếng Phạn. Đại đức Kebalā là một vị học giả uyên thâm, hiểu biết rất rộng. Cha tôi hy vọng là ngài sẽ trở thành vị thầy lư tưởng của tôi, và nhờđó xóa tan đi ḷng khao khát ra đi t́m thầy học đạo. Nhưng ư định của cha tôi đă không được đi theo đúng hướng. Thay v́ làm cho tôi choáng ngợp đi

với kiến thức uyên bác của ngài, để tôi trở thành một người đệ tử hết ḷng vâng theo lời ngài chỉ dạy, th́ đại đứcKebalā lại chỉ cố gắng nâng cao hơn nữa niềm tin và ư chí của tôi, động viên tấm ḷng khát khao chân lư của tôi nhiều hơn nữa. Đại đức Kebalā là một bạn đồng sư của cha tôi, tức là đệ tử của thầy Lahiri Mahāsaya ở Bénarès. Trong số hàng ngàn đệ tử được xem là hết ḷng cầu đạo với tôn sư Lahiri Mahāsaya, đại dức Kebalā vẫn được tôn sư hết sức chú ư và khen ngợi. Ngài có một khuôn mặt đẹp, với những lọn tóc quăn đen huyền và phủ xuống tận vai. Những cử chỉ và dáng vẻđi đứng của ngài đều bộc lộ một tâm hồn rắn rỏi và dũng mănh. Tuy vậy, ngài nói năng từ tốn, khả ái, với sự thuyết phục người nghe đôi khi không chỉ bằng vào nội dung lời nói. Đôi mắt sáng tinh anh và tiềm ẩn những nét ngây thơ như trẻ con, nhưng cũng hàm chứa trong đó sức sống mănh liệt không ǵ khuất phục được. Ngài không những chỉ đến để chỉ dạy cho tôi, mà thực tế chúng tôi dành rất nhiều thời gian để cùng nhau thực hành môn thiền định. Không những am tường về Phật giáo, đại đức Kebalā c̣n tinh thông cả những kinh điển cổ xưa của đạoBà- la-môn và Ấn giáo. Trong thời gian học với ngài, tôi tiến bộ rất nhanh về mọi mặt, ngoại trừ môn tiếng Phạn. Tôi cố t́m mọi lư do để tránh né việc phải mất thời gian cho môn học này, và thay v́ vậy, chúng tôi quay sang nói chuyện về vị thầy Lahiri Mahāsaya quá cố. Thật tinh tế là đại đức Kebalā hoàn toàn hiểu được ư tôi, và ngài cũng

không có chút nỗ lực nào trong việc ép buộc tôi học môn tiếng Phạn. Đại đức Kebalāđă từng sống bên thầy Lahiri Mahāsaya ở Bénarès trong hơn mười năm. Ngài thường kể cho tôi nghe về thời gian đó như là quăng đời giá trị nhất của ngài. Đại đức nói:

 

 

– Thầy tôi thường ở trong một căn pḥng nhỏ trên lầu. Người ngồi thiền trên một chiếc ghế gỗ và mỗi ngày đều có một số đệ tử đến ngồi thiền chung quanh ngài. Khi người nhập định, chúng tôi đều có thể cảm nhận được là người đang an trụ trong cảnh giới an lạc vô biên, và mỗi người đệ tử chúng tôi như đều được tắm trong ánh sáng an lạc tỏa ra từ bản thân ngài. Rất ít khi chúng tôi được nghe người tṛ chuyện. Nhưng bất cứ khi nào mà ai đó trong chúng tôi gặp khó khăn, người đều rơ biết và dành cho những sựưu ái, giúp đỡ cần thiết và đúng lúc. Khi ánh mắt nhân từ của người chú mục vào ai đó trong một buổi ngồi thiền, chúng tôi hiểu rằng người đă đọc thấu tư tưởng và biết là anh ta có chuyện ǵ đó cần đến sự giúp đỡ của người. Được sống gần người là cả một ân huệ lớn lao cho mỗi người. Đôi khi chúng tôi không trao đổi với nhau lời nào, nhưng đạo hạnh của người lan tỏa và thấm nhuần vào tất cả chúng tôi. Tâm hồn chúng tôi cảm thấy được một sự che chở, tin cậy tuyệt đối. Và chúng tôi thực hành thiền định với những kết quả không ngờ trước, những kết quả mà khi không có người chúng tôi không sao đạt được. Rơ ràng sự thuyết giảng của ngài không chỉ giới hạn trong lời nói, mà bằng cả sự

an lạc tột cùng ngài ban phát cho chúng tôi một cách hào phóng không giới hạn. Những lúc tṛ chuyện như thế, vẻ mặt đại đức Kebalā dường như sáng rỡ lên khác thường. Tôi có thể hiểu được là ông đang sống lại những giây phút quư giá của ngày xưa, và thậm chí đang cảm nhận được sự tồn tại của thầy Lahiri Mahāsaya vào lúc này, khi ông tưởng nhớ đến ngài. Đại đức bảo tôi:

– Thầy Lahiri Mahāsaya không phải là một học giả uyên bác. Ngài không mất th́ giờ học hỏi về các thứ kinh sách không thuộc về phạm vi tu tập của ḿnh. Tuy nhiên, những điều ngài am hiểu đối với chúng tôi đă dường như là đại dương mênh mông không giới hạn. Ngài không bao giờ tự ḿnh khoe khoang hay khuyến khích người khác theo đuổi việc học tập kinh sách theo kiểu giáo điều và thiếu sự thực hành. Tôi nhớ có lần người ta đến hỏi ngài về một số trạng thái của tâm thức được ghi trong kinh sách. Ngài đă nói thật chân thành không chút e ngại: “Hôm nay tôi sẽ thực hành những trạng thái tâm thức ấy. Và sau đó tôi sẽ nói về nó cho quư vị nghe.” Qua đó, chúng tôi hiểu thêm về vị thầy của ḿnh. Ngài không bao giờ đặt niềm tin mù quáng vào những điều ghi trong sách vở, và càng không bao giờđem những giáo lư mà ḿnh chưa thực nghiệm ra để giảng dạy cho học tṛ. Tôi c̣n nhớ rất rơ lời dạy của ngài: “Những tên gọi chỉ là lớp vỏ bọc bên ngoài của sự vật. Chân lư phải được thể nghiệm bằng chính công phu thực hành thiền định, không thể bằng vào sự phân tích, chia chẻ ngôn từ.” Ngài thường khuyên chúng tôi

thực hành môn thiền định như một phương thuốc thần kỳ để đối trị hết thảy tất cả các bệnh khổ của thế gian, cho dù đó là những nỗi khổ về vật chất hay tinh thần. Khi ấy tôi hỏi đại đức Kebalā về việc thầy Lahiri Mahāsaya đă nói thế nào về việc tu tập thiền định. Đại đức đáp rằng:

– Thầy Lahiri Mahāsaya rất coi trọng việc thực hành thiền định. Ngài dạy chúng tôi phải kiên tŕ theo đuổi bằng sự nỗ lực thực hành. Ngài nói: “Ngay cả khi tôi không c̣n nữa, pháp môn thiền định này cũng sẽ phát huy hiệu lực của nó và giúp cho quư vị vững vàng tiến lên. Những ǵ mà pháp môn này mang lại sẽ không bao giờ có thể trở nên khô cạn hoặc nhàm chán, điều vẫn xảy ra với tất cả những giáo lư nào được truyền dạy mà không có sự thực hành. Và xin quư vị nhớ cho, sức mạnh của pháp môn thiền định chính là nằm ở sự thực hành.” Những ǵ đại đức Kebalā kể cho tôi nghe không chỉ đơn thuần là một câu chuyện kể. Hơn thế nữa, đó lànhững bài học vô giá mà tôi ghi khắc măi trong suốt cuộc đời ḿnh. Một ngày kia, đại đức Kebalā kể cho tôi nghe một chuyện mà chính ngài đă từng chứng kiến:

 

– Trong số huynh đệ chúng tôi, có sư huynh Ramu là người khiến cho tất cả chúng tôi đều cảm động và thương xót. Sư huynh bị mù từ khi lọt ḷng mẹ, nhưng là người hết ḷng tận tụy hầu hạ thầy một cách chân thành, sùng kính. Sư huynh tự đan lấy những cái quạt bằng lá, và dùng nó để quạt cho thầy những khi nóng bức. Một hôm, tôi theo sư

 

huynh lúc anh vừa ra khỏi pḥng thầy và nói: “Này sư huynh Ramu, sao anh không cầu xin sư phụ cứu sáng đôi mắt cho anh. Ngài là bậc chứng ngộ toàn năng, ngài sẽ ban cho anh ân huệ được nh́n thấy ánh sáng của cuộc đời này.” Ramu ngẩn người suy nghĩ trong một lúc, và tôi biết là huynh ấy tin lời tôi. Hôm sau, Ramu rụt rè tiến đến gần thầy sau buổi tọa thiền. Anh nói: “Bạch thầy, con rất xấu hổ phải cầu xin thầy một ân huệ về thể chất, v́ thầy đă ban cho con quá nhiều ân huệ tinh thần. Nhưng ánh sáng mặt trời đang tràn ngập cả thế gian này mà con th́ không hề nh́n thấy. Xin thầy hăy ban cho con đôi mắt sáng, để con được chiêm ngưỡng sự mầu nhiệm của vũ trụ này.” Đức tôn sư từ ḥa đáp lại: “Ramu, chắc có ai đó đang định làm khó cho thầy. Con biết đấy, thầy không có quyền năng chữa bệnh cho ai cả.” Ramu nói: “Bạch thầy, con tin là Phật tánh thiêng liêng mà thầy đă chứng ngộ có thể làm được điều đó.” Thầy Lahiri Mahāsaya cười hiền hậu và nói: “Nếu con tin như thế th́ đó lại là một chuyện khác.” Rồi ngài nghiêm sắc mặt, dùng tay điểm nhẹ nơi trán của Ramu, nơi chỗ giữa hai chân mày và nói: “Con hăy tập trung tư tưởng vào điểm này, và chú tâm niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà trong bảy ngày. Sau đó con sẽ được nh́n thấy ánh sáng chói lọi của mặt trời.” Một tuần lễ sau, quả nhiên Ramu được sáng mắt. Ḷng tin của anh ta cùng với sự gia hộ của chư Phật thông qua đức tôn sưđă được ứng nghiệm. Để kết thúc câu chuyện, đại đức Kebalā nói:

– Trong suốt cuộc đời ngài, tôn sưđă ban sự an lành cho không biết bao nhiêu xác thân bệnh hoạn, khổ năo, chỉ bằng vào tấm ḷng từ bi vô hạn của ngài. Nhưng những xác thân ấy, dù sao rồi cũng chỉđi đến một kết cục chung là tan ră thành tro bụi. Điều đáng kể hơn chính là hạt giống tỉnh thức, từ bi mà ngài đă gieo vào tâm hồn mỗi người, v́ nó sẽ tồn tại và lớn lên không ngừng qua nhiều thế hệ tiếp nối sau nữa. Tôi hoàn toàn đồng ư với kết luận sâu sắc của đại đức Kebalā. Và cũng chính từ sự đồng cảm giữa chúng tôi như thế mà tôi không bao giờ học giỏi môn tiếng Phạn như cha tôi mong muốn. Thay v́ vậy, đại đức Kebalāđă dạy cho tôi nhiều hơn về những ngôn ngữẩn mật của tâm hồn.

 

CHƯƠNG V NGƯỜI ĐÁNH CP

Một hôm, người bạn học cùng lớp của tôi là Chandi lấy làm hân hoan mà thông báo với tôi điều này:

 

– Mukunda, tôi đă có địa chỉ của vị tu sĩ ngày xưa từng đánh cọp. Nếu anh muốn, ngày mai chúng ta sẽ cùng đi đến đó. Tất nhiên là tôi đồng ư ngay. Thậm chí tôi c̣n cảm thấy nôn nóng, phấn khích đến tưởng như không thể chờ đợi nổi cho đến hôm sau. Hôm ấy trời giá lạnh, nhưng chúng tôi không hề ngần ngại lúc ra đi. Mặc dù Chandi bảo là đă có được địa chỉ, nhưng đó chỉ là một địa chỉ khá mơ hồ ở khu Bhowanipur, ngoại ô Calcutta. Chúng tôi phải

t́m kiếm khá lâu và vất vả trước khi đến được nơi cần đến. Ngoài cửa nhà có treo những chiếc ṿng sắt để thay cho chuông cửa. Chúng tôi khua những chiếc ṿng ấymột cách ầm ĩ, theo đúng với bầu máu nóng nhiệt t́nh của tuổi thiếu niên và tâm trạng nôn nóng sau một thời gian dài t́m kiếm. Một người giúp việc già nua chậm răi đi ra mở cửa. Ông nh́n chúng tôi với một nụ cười nửa mép, và hơi lắc đầu nhè nhẹ, như thể muốn nói cho chúng tôi biết rằng những tiếng động inh ỏi kia cũng không thể làm mất đi sự yên tĩnh cố hữu của nơi này. Chúng tôi hiểu được ư nghĩấy của ông già, và thấy có phần hổ thẹn về thái độ của ḿnh. V́ thế, khi được mời vào pḥng khách, chúng tôi đi rón rén thật nhẹ nhàng và cố giữ thái độ nghiêm trang, từ tốn. Tại đây, chúng tôi phải trải qua một thời gian chờ đợi tưởng chừng như có đến hàng thế kỷ... nghĩa là đủ để làm cho sự nôn nóng của chúng tôi bị đẩy lên thành sự căng thẳng cực độ. Nhưng hơn ai hết, tôi hiểu cái cổ tục này của xứẤn, người đi cầu t́m chân lư trước hết phải học biết sự kiên nhẫn, v́ rất nhiều bậc chân sư dùng điều kiện này để thử thách kẻ đến t́m ḿnh. Cuối cùng, ông già giúp việc cũng xuất hiện và đưa chúng tôi sang một gian pḥng khác nhỏ hơn. Vị tu sĩ tên Sohong Swami, người mà chúng tôi muốn t́m, đang ngồi xếp bằng trên giường, ḿnh vận duy nhất chỉ có một tấm chăn, hay nói đúng hơn là một tấm da cọp. Thân h́nh để trần của ông lực lưỡng đến mức độ tôi chưa từng thấy ai có một thân h́nh

tương tự như thế: to lớn và rắn chắc, bắp thịt cuồn cuộn nổi lên, cổ và vai đều to và đầy đặn. Ông để tóc dài xuống đến vai và một bộ râu đen nhánh. Khuôn mặt thoảng nụ cười hiền ḥa, an lạc trong ánh mắt, nhưng vẫn c̣n phảng phất nét hung tợn, dữ dằn với các nếp gấp sâu và màu da nâu sạm. Chúng tôi cúi chào và đứng yên lặng một lúc lâu bên cạnh ông. Sau đó, chúng tôi phá tan sự im lặng và nói với ông lư do chuyến viếng thăm của ḿnh. Chúng tôi bày tỏ ḷng khâm phục với những ǵ đă được nghe về ông, và rất mong sẽ được ông vui ḷng trả lời một số câu hỏi liên quan đến việc ông trở thành một tu sĩ. Trong khi tṛ chuyện, tôi có cảm giác ông hiểu chúng tôi nhiều hơn những ǵ chúng tôi đă tự nói ra, v́ cung cách cởi mở mà ông dành cho chúng tôi, cũng như những chi tiết ông đề cập đến trong cuộc nói chuyện, quả thật có rất nhiều điều tôi muốn biết nhưng lại quên không nhắc đến. Bạn tôi hỏi:

 

 

– Thưa ông, bằng cách nào mà ông đă chiến thắng con thú dữ tợn nhất rừng già, con cọp xám ở Bengal, mà chỉ với hai bàn tay không?Ông cười hiền hậu và nói:

 

– Nhiều người vẫn tưởng đó là chiến thắng anh dũng nhất trong đời tôi, v́ đó là con cọp cuối cùng mà tôi đánh, cũng là con cọp hung bạo nhất và gây thương tổn cho tôi nhiều nhất, nhưng rồi tôi vẫn hạ được nó. Tuy nhiên, giờđây đối với tôi việc ấy chỉ là một tṛ chơi đă qua. Tôi sẽ không có hứng thú lặp lại những tṛ như thế nữa. Và chiến công hiển hách

nhất của tôi không phải là việc đánh cọp, mà là việc chiến thắng chính bản thân ḿnh. Bạn tôi há hốc mồm kinh ngạc khi nghe câu trả lời này. Riêng tôi, tôi có thể hiểu được phần nào điều ông nói về việc tự thắng bản thân, v́ đă nhiều lần tôi được nghe các bậc thầy khác cũng nhắc nhở như thế. Tuy nhiên, xem việc hạ gục con cọp xám Bengal đă khiến ông lừng danh khắp nước chỉ như một tṛ chơi th́ tôi không tưởng tượng nổi. Lẽ nào ông ta không chút tự hào về thành tích có một không hai đó của ḿnh? Như hiểu thấu được suy nghĩ của hai chúng tôi, vị tu sĩ nở một nụ cười hồn nhiên và nói một cách giản dị:

– Đối với các em, cọp là một con thú dữ ghê gớm. Nhưng đối với tôi, con cọp chẳng qua cũng chỉ là một giống mèo lớn mà thôi! Tôi nói:

 

– Thưa ngài, tôi có nghe về chuyện người ta có thể dùng tự kỷ ám thị để xem rằng con cọp chỉ là một con mèo, và như thế họ có thể nh́n vào con cọp mà không sợ hăi. Vấn đề ở đây đối với ngài là, ngài không chỉ nh́n vào con cọp, mà ngài đánh nhau với nó. Như vậy, dù ngài có nghĩ nó là con mèo, tôi e là bản thân nó không nghĩ như thế.

 

– Đúng vậy, và v́ thế sức mạnh là điều cần thiết. Tôi xem con cọp giống như con mèo, điều đó hoàn toàn không do tự kỷ ám thị, mà v́ tôi có sức mạnh vượt trội hơn nó. Ông đứng dậy và lặng lẽ tiến ra hành lang. Chúng tôi đi theo ông. Đến gần một bức tường gạch cũ,

ông đưa nắm đấm thẳng vào tường. Với cử chỉ ung dung có vẻ như không hề gắng sức của ông, vách tường đă thủng ngay một lỗ. Chúng tôi nh́n rơ vụn gạch rơi xuống và khoảng trống hiện ra bên kia vách tường. Và chúng tôi hiểu rơ ngay những lời ông nói. Quả thật, với một nắm đấm như thế th́ con cọp dữ đối với ông chỉ là một con mèo, v́ ông có thể dễ dàng đấm găy quai hàm nó chỉ với bàn tay không như thế. Ông nh́n chúng tôi và nói tiếp về chuyện đánh cọp:

– Sức mạnh là cần thiết. Tuy nhiên vẫn chưa đủ và chưa phải là yếu tố chính yếu. Nhiều người khác cũng có sức mạnh như tôi nhưng họ thiếu sự b́nh tĩnh. Việc đánh nhau với một con cọp dữ của rừng xanh hoàn toàn khác hẳn với những con cọp trong gánh xiếc đă bị người ta thuần hóa bằng thuốc phiện. Bản chất dữ tợn của nó c̣n tăng lên rất nhiều nếu như nó đă bị người ta bắt giữ lại và bỏđói một thời gian ngắn. Điều bất lợi lớn nhất trong cuộc chiến đấu này là: cọp chẳng bao giờ sợ người, nó vẫn xem đó chỉ là một con mồi yếu ớt chờ đợi bị xé xác ra để đánh chén ngon lành. V́ thế, nó sẽ càng hung bạo và lanh lẹ hơn nhiều nếu nhưđang cơn đói. Nó cần chiến thắng để no bụng. Ngược lại, người ta dù có sức mạnh vẫn thường có tâm lư lo sợ. Và nếu sự sợ hăi làm anh ta mất đi sự b́nh tĩnh, th́ khi đó sự chiến bại dưới vuốt cọp xem như là cầm chắc. Tôi luôn luôn chiến thắng trước hết là nhờ vào tinh thần, ư chí. Bằng cách đó, tôi buộc những con cọp đối mặt với tôi phải khiếp sợ và có thái độ của một con mèo.

Những điều vị tu sĩđang nói dường như khá quen thuộc với những ǵ tôi đă được biết về sức mạnh tinh thần của con người. V́ thế, tôi không chút nghi ngờ khi nghe ông giải thích về phương thức chiến thắng của ḿnh. Đến đây, có vẻ như ông bắt đầu cho chúng tôi một bài giảng về một chủ đề chung, không chỉ là chuyện đánh cọp:

– Tinh thần chính là ông chủđiều khiển thể xác, hay nói cụ thể hơn là các bắp thịt. Một nhát kiếm có sức mạnh tùy thuộc vào nghị lực của người cầm kiếm. Nói cách khác, sức mạnh của thể xác, hay là cái khí cụ vật chất của chúng ta, tùy thuộc vào ḷng can đảm và ư chí đấu tranh. Tinh thần nuôi dưỡng sức mạnh thể xác, và cũng uốn nắn nó theo với bản chất của ḿnh. Những tính chất mạnh mẽ hay yếu đuối trải qua nhiều đời dần dần thâm nhập vào tâm thức của mỗi chúng ta, và rồi biểu lộ ra ngoài thành những thói quen, những thói quen này tạo thành một thể xác khỏe mạnh hay yếu đuối... V́ thế, những điều này xét cho cùng đều do chúng ta tự tạo lấy, không phải là một ân huệ trời ban cho như nhiều người lầm tưởng. Sự yếu đuối của thể xác vốn bắt nguồn từ nơi tinh thần. Rồi chính sự yếu đuối ấy, vốn h́nh thành từ nơi tập quán, thói quen, trở lại ngăn cản sự hoàn thiện hay hướng thượng của tinh thần. Và cái ṿng luẩn quẩn này kéo dài măi măi theo hướng d́m người ta vào chỗ yếu ớt, trụy lạc. Khi chủ nhân tinh thần không ư thức được vai tṛ của ḿnh, như hầu hết người ta đều như thế, và giao phó mọi việc cho tên nô bộc thể xác quyết định, tất nhiên tên nô bộc này sẽ nắm lấy mọi quyền hạn và

biến ông chủ tinh thần trở thành một tên nô lệ. Sự thất bại của con người có nguồn gốc từ mối quan hệ thể xác và tinh thần như thế. Nghe những lời này, tôi có cảm tưởng ḿnh đang đứng trước một nhà hiền triết hơn là một dũng sĩđă từng đánh cọp. V́ sao một người chạy theo sức mạnh lại có thể chuyển sang theo đuổi cuộc sống tinh thần, đối với tôi vẫn là điều hết sức ṭ ṃ muốn biết. Một lần nữa, ông chứng tỏ là biết được điều tôi đang suy nghĩ. Ông mời chúng tôi trở vào nhà và bắt đầu kể cho chúng tôi nghe về cuộc đời của chính ḿnh, cũng là lời giải đáp cho điều tôi muốn biết:

– Từ nhỏ, tôi đă nuôi trong ḷng một ư chí mănh liệt trở thành người đánh cọp. Ư chí tôi đanh thép không lay chuyển, nhưng thể xác tôi yếu ớt. Chúng tôi đều kinh ngạc khi nghe lời này của ông. Một thân h́nh vạm vỡ có một không hai như thế kia mà bảo là “yếu ớt” th́ chúng tôi không sao hiểu nổi! Biết được sự thắc mắc của chúng tôi, ông nhoẻn miệng cười và nói tiếp để giải thích:

 

– Các em tưởng là tôi sinh ra đă có ngay xác thân lực lưỡng thế này sao? Không đâu, đó là cả một quá tŕnh rèn luyện với tinh thần và ư chí sắt đá mới có thể đạt được đấy. Và chính nhờ sự tập trung tư tưởng vào những ư tưởng rèn luyện sức mạnh, cuối cùng tôi đă vượt qua được trở ngại khó khăn về thể lực. Nhưngcũng từđó tôi luôn hun đúc cho ḿnh một sức mạnh tâm linh, một ư chí dũng mănh. Và chính nhờđó mà tôi hàng phục được loài thú dữ của rừng xanh.

Bất chợt, trong đầu tôi nảy ra một ư nghĩ lạ kỳ không hiểu nổi, và tôi buột miệng hỏi ông:

– Thưa ngài, theo ngài th́ tôi có thểđánh cọp được chăng?Ông cười:

 

– Được chứ. Nhưng em cũng nên biết là có rất nhiều loại cọp. Loài hung dữ và tai hại nhất trong sốđó là loài cọp trong khu rừng dục vọng của con người. Việc giết chết những con cọp của rừng xanh thật ra chẳng mang lại ích lợi ǵ. Chúng chỉ hung dữ trong giang sơn của chúng, và rất ít khi tự t́m đến gây hại cho con người. Nhưng loài cọp dữ trong nội tâm của mỗi người th́ luôn chờ dịp để giết chết những điều lành của chúng ta trong từng giờ từng phút. Tôi nói:

 

– Nhưng theo như chúng tôi được biết, chính ngài đă đánh hạ rất nhiều những con cọp rừng xanh như thế. Tôi muốn biết là từ khi nào và v́ sao ngài đă từ một người khuất phục thú dữ chuyển sang khuất phục những vọng tưởng nội tâm như hiện nay? Vị tu sĩ im lặng một lúc lâu. Có vẻ như ông đang hồi tưởng lại những chuyện đă xảy ra trong quá khứ, mà cũng có thể là ông đang cân nhắc xem có nên trả lời câu hỏi của tôi hay không. Lát sau, ông nở một nụ cười và bắt đầu kể:

 

– Khi tôi đă nhiều lần đánh hạ những con cọp dữ, tiếng tăm và sự vinh quang đă đẩy ḷng kiêu căng tự phụ của tôi lên đến mức tưởng như tột cùng. Tôi quyết định không chỉđánh hạ loài cọp, mà c̣n phải làm cho chúng khiếp sợ và vâng theo lời tôi như những con vật nuôi trong nhà. Tôi đă làm được điều

đó, và tôi bày ra rất nhiều tṛ lạ mắt để biểu diễn trước công chúng về sức mạnh và khả năng khuất phục loài thú dữ của tôi. Sự thành công của tôi khiến cho mọi người đều nể sợ. Người ta xem tôi như một dũng sĩ anh hùng và đi đến đâu tôi cũng chỉ nghe toàn những lời khen ngợi, tán tụng.Ông dừng lại một lát, với vẻ chua chát khi nghĩ về chuyện đă qua.

– Ngày kia, cha tôi đến gặp tôi với vẻ mặt suy tư: “Con ơi, cha rất lấy làm lo lắng về những việc con làm. Theo như luật nhân quả, cha sợ rằng con không tránh khỏi những thảm họa khôn lường về sau.” Tôi bật cười với cha tôi và nói: “Cha không nên tin vào những chuyện vô căn cứ như thế. Không ai có thể nh́n thấy được cái gọi là luật nhân quảấy. Nhưng ai cũng có thể dễ dàng thấy rơ được luật của sức mạnh. Con đă chiến thắng và sẽ chiến thắng. Cha đừng lo cho con, chỉ trừ khi con thối chí và đâm ra sợ hăi. Bằng không th́ chẳng có con cọp nào có thể làm hại được con.” Cha tôi có vẻ căng thẳng, người nói: “Con không thể phủ nhận luật nhân quả như thế. Kinh điển từ xưa đă từng ghi chép, và nhiều bậc thánh nhân đă xác nhận điều này. Kẻ làm điều xấu sẽ phải nhận lănh kết quả xấu. Hơn nữa, loài thú ở rừng xanh căm ghét con, một ngày kia chúng sẽ làm hại con.” Cha tôi nói ra những lời này với vẻ lo lắng thật sự và người đă làm tôi cảm động. Tôi t́m cách nói để trấn an người: “Thưa cha, loài cọp vốn là hung dữ. Cuộc sống của chúng chỉ toàn là giết chóc. Chúng giết chết con mồi để ăn thịt, nhưng ngay cả

khi đă no nê chúng cũng không tha cho những con vật hiền lành mà chúng gặp. Chúng có thể vồ chết một con nai chỉ để uống một ngụm máu rồi bỏđi. Thưa cha, nếu như con đánh hạ những con vật hung dữ như thế th́ lẽ nào lại là việc xấu? Biết đâu v́ khiếp sợ với con mà chúng sẽ ngần ngại ít nhiều trong việc làm hại những loài vô tội. Việc làm như vậy làm sao lại phải chịu quả báo xấu hở cha? Xin cha đừng buộc con phải từ bỏ việc đang làm.” Chúng tôi yên lặng lắng nghe và bị thu hút hoàn toàn vào câu chuyện. Theo phong tục Ấn Độ, cha mẹ có quyền quyết định hầu như tuyệt đối với con cái. Không có người con nào dám căi lại cha mẹ, cho dù là trong việc chọn nghề nghiệp sinh sống hay con đường sự nghiệp của ḿnh. Vị tu sĩ chậm răi kể tiếp:

– Cha tôi tỏ vẻ thông cảm với những điều tôi nói. Nhưng ông vẫn không giấu được vẻ lo lắng, căng thẳng ngày càng nhiều hơn. Im lặng một lúc như để cân nhắc kỹ những điều sắp nói, rồi ông mới bảo tôi bằng một giọng rất nghiêm trọng: “Con ơi, cha cũng không giấu con chuyện này. Hôm qua, khi cha đang ngồi thiền ngoài hiên trước, có một tu sĩ lạ mặt đến và nói với cha rằng: “Tôi có một điều muốn nhắn gửi đến con ông. Nếu anh ta không từ bỏ ngay những trận đấm đá hung bạo như hiện nay, th́ không bao lâu nữa anh ta sẽ phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp. Trong sáu tháng trời anh ta sẽ phải ở trong trạng thái dở sống dở chết. Và chỉ sau đó anh ta mới biết chán ngán cảnh thế gian mà đi theo con đường xuất gia làm một tu sĩ.” Tuy cha tôi rất lo

lắng về lời cảnh báo có tính chất tiên tri ấy, nhưng tôi không xem đó là quan trọng. Tôi không hề lấy đó làm điều lo lắng. Trái lại, tôi cho rằng có lẽ chính những kẻ ganh tỵ với sự thành công và danh tiếng của tôi đă t́m cách đe dọa tôi bằng cách đặt ra một lời tiên tri vớ vẩn như thế qua trung gian của một tu sĩ. Vị tu sĩ đột nhiên dừng lại và trầm ngâm rất lâu. Vẻ mặt ông lộ rơ sự hối hận về sai lầm đă qua trong quá khứ. Khi ông ta tiếp tục câu chuyện, giọng ông ch́m xuống, thầm th́, như vọng về từ xa xăm:

– Không bao lâu sau đó, tôi đến chơi Cooch Behar. Phong cảnh nơi đây khá mới mẻ và hấp dẫn đối với tôi, nên tôi có dự tính sẽ lưu lại một thời gian để nghỉ ngơi, thư giăn. Khi biết tin tôi đến, người ta thầm th́ với nhau trên đường phố và tin ấy nhanh chóng truyền lan khắp nơi. Đi đến đâu tôi cũng nh́n thấy những ánh mắt chiêm ngưỡng, thán phục và cũng đầy vẻ ṭ ṃ. Người ta tụ tập thành từng đám đông trên đường tôi đi qua, chỉ cho nhau xem và bàn tán về tôi. Nhiều người trong số họ c̣n cố chứng tỏđă biết về tôi nhiều nhất, bằng cách kể lại những trận đánh cọp của tôi mà họđă từng được xem. Tất nhiên, đă có không ít những sự thổi phồng trong khi kể chuyện, và v́ thế hầu như tất cả người dân thành phố đều mong muốn nhân dịp này được một lần tận mắt nh́n thấy tôi.Ông lắc đầu nhè nhẹ khi kể đến đây, dường như ông vẫn chưa thôi ray rứt khi nhớ lại những giây phút vinh quang hăo huyền mà ngày ấy ông không hề nhận ra.

Ông kể tiếp:

– Buổi chiều, khi tôi đang ngồi trong nhà trọ th́ có tiếng vó ngựa dồn dập chạy đến. Tôi nh́n ra và thấy đó là những người vệ sĩ mặc đồng phục rất nghiêm trang. Họ xuống ngựa bước vào trong sân. Một người trong số họ có vẻ nhận biết tôi. Anh ta tiến lên trước và cúi chào thật lịch sự. Những người khác cũng đều chào theo anh ta. Anh ta đến gần tôi hơn và nói: “Thưa ông, tôi rất hân hạnh được diện kiến với ông hôm nay, và xin cung kính chuyển đến ông lời mời của hoàng tử Cooch Behar. Ngài muốn được gặp ông vào ngày mai.” Tôi hơi phân vân v́ không muốn phải gián đoạn những ngày nghỉ ngơi thư giăn chỉ vừa mới bắt đầu. Nhưng có vẻ nhưđây là một trong những kiểu mời mọc mà người được mời không có quyền từ chối. Dù sao đi nữa, tôi đang ở trên lănh thổ của ông ta, và nếu không có một lư do nào thật hợp lư th́ không thể không nhận lời được. Nghĩ như vậy, tôi đành nói vài câu xă giao rồi báo cho họ biết là tôi nhận lời. Sáng hôm sau, tôi thật bất ngờ khi thấy người ta đưa một chiếc xe song mă thật lộng lẫy đến đón, lại có cả một đoàn kỵ binh đi theo hộ tống nữa. Xe đưa tôi đi một ṿng quanh thành phố và phải băng qua mấy khu rừng cây mới đến dinh thự của hoàng tử. Ông này đích thân ra trước cửa để đón tôi và mời tôi vào một căn pḥng sang trọng với những chiếc ghế bành lót nệm rất lớn. Sau phần nghi thức chào

 

 

 

hỏi, hoàng tử cho tôi biết ngay mục đích của buổi gặp gỡ: “Tôi đă nghe tin đồn trong khắp thành phố này về ông. Người ta

nói ông vẫn thường đánh hạ những con cọp dữ bằng tay không?” Tôi từ tốn gật đầu. Hoàng tử nở một nụ cười bí hiểm rồi nói: “Chuyện nghe có vẻ khó tin đấy. Tôi tự hỏi phải chăng ông đă đánh nhau với những con cọp đă bị cho ăn thuốc phiện?” Máu nóng trong người tôi sôi lên. Và để phản đối, tôi mặc nhiên không thèm đáp lại lời khó nghe ấy. Hoàng tử biết là cách nói khích của ông ta đă mang lại hiệu quả, liền đi thẳng vào đề: “Tôi vừa mới bắt được một con cọp Rāja.15 Tôi có lời thách ông thi đấu cùng với nó. Nếu ông có thể tay không đánh ngă được nó, trói lại rồi rời chuồng cọp mà không cần bất cứ sự trợ giúp nào từ bên ngoài, con cọp ấy sẽ thuộc về ông. Ngoài ra là một số tiền hai ngàn ru­bi và nhiều quà tặng khác. C̣n nếu ông từ chối, tôi buộc ḷng sẽ phải thông báo cho thần dân trên khắp đất nước này được biết rằng ông chẳng bao giờ là một người thực sựđánh ngă được cọp cả, mà chỉ là một kẻ bịp bợm hạ đẳng.” Khi ấy, tôi giận muốn điên lên và nhận lời ngay không cần suy nghĩ. Sau này nghĩ lại, tôi mới biết hoàng tử cố t́nh chọc giận tôi để đảm bảo là tôi sẽ không từ chối hoặc trốn tránh. Dụng ư của ông chỉ là muốn được tận mắt xem tôi đánh nhau với con cọp hung dữ khét tiếng mà ông tin là không ai có thểđánh hạ được. Khi thấy tôi đă nhận lời, hoàng tử lộ vẻ hân hoan ra mặt. Nh́n vẻ mặt khoái trá của người, tôi chợt liên tưởng đến các hoàng đế La Mă ngày xưa đă thích thú như thế nào khi mang những người Thiên chúa tử đạo ra cho thú dữ xé xác. Hoàng tử nói với tôi: “Ông có một tuần để chuẩn bị. Và tôi lấy làm tiếc là từ nay

cho đến ngày thi đấu, ông không được gặp trước địch thủ của ḿnh.” Có lẽ hoàng tử e rằng tôi sẽ trốn mất v́ khiếp sợ nếu như tôi nh́n thấy trước con cọp ấy chăng? Nếu vậy th́ ông ấy đă lầm, v́ tôi thà chết chứ chẳng bao giờ rút lui theo cách ấy. Tôi rời khỏi dinh hoàng tử để trở về nhà trọ, và bắt tay ngay vào việc chuẩn bị cả tinh thần lẫn thể chất cho trận đấu. Không hiểu sao tôi linh cảm thấy đây là một trận đấu không giống như bao nhiêu trận đấu khác mà tôi đăơ trải qua. Ngoài đường phố, người ta xôn xao đủ thứ tin đồn liên quan đến tôi và trận đấu sắp tới. Hoàng tửđă cho chuẩn bị rất quy mô và chu đáo. Ông dựng lên một khán đài với sức chứa hàng ngàn người, giữa là khu vực đấu trường với lồng sắt an toàn và con cọp Rāja bị nhốt trong đó. Người ta cũng tính toán đến việc bỏđói con cọp để nó tăng thêm phần hung dữ, tất nhiên là để cho trận đấu càng hấp dẫn hơn. Nhưng c̣n có một tin đồn khác nữa về tôi. Không hiểu v́ sao mọi người đều biết được và lan truyền khắp nơi lời tiên tri dự báo về số phận thê thảm của tôi trong trận đấu sắp tới. Người ta bàn tán nhau, kẻ th́ cho rằng tôi sẽ thắng, người lại bảo chắc chắn sẽ thua. Cả thành phố như sôi động cả lên và có vẻ như người ta không c̣n chuyện ǵ khác để quan tâm ngoài trận đấu sắp tới giữa tôi và con cọp Rāja. Vé vào cửa để xem trận đấu đă bán hết trước hai hôm. Đến ngày thi đấu c̣n có không dưới vài trăm người chen lấn đứng từ xa ở bên ngoài v́ không mua được vé để vào xem. Có một điều mà ít ai quan tâm đến. Đó là hoàng tử thu

một khoản lợi kếch sù từ tiền bán vé, bất kể kết quả trận đấu sẽ như thế nào! Khi câu chuyện được kể đến đây, cả tôi và Chandi gần như nín cả hơi thở lại để chăm chú lắng nghe. Chúng tôi quên hẳn một điều rất quan trọng: người đang kể chuyện cho chúng tôi nghe chính là người đă tham gia trận đấu. Và chính v́ quên mất điều này, nên chúng tôi không dằn được tâm trạng hồi hộp, lo lắng cho số phận của người dũng sĩđánh cọp trước cuộc chiến đấu một mất một c̣n sắp diễn ra. Vị tu sĩ thong thả kể tiếp:

 

– Khi tôi xuất hiện trên đấu trường giữa những tiếng rống kinh hồn của con cọp dữ, cả khán đài dường như đều nín lặng đi trong chốc lát. Mấy ngàn tia mắt cùng đổ dồn vào tôi, lúc đó chỉ mặc duy nhất một cái quần cụt, phô bày cả thân h́nh lực lưỡng với những bắp thịt cuồn cuộn đang sắp đến lúc thi thố tài năng. Tuy vậy, đứng trước con cọp hung dữ to lớn này, ai nấy đều có cảm giác tôi chỉ là một con cừu non đang nộp mạng. Tôi bước đến, mở khóa để vào lồng an toàn và khóa cửa lại sau lưng ḿnh. Chuồng cọp đặt bên trong, và phải qua một cánh cửa sắt nữa tôi mới đối mặt với con cọp. Tuy vậy, chỉ thoáng nh́n thấy tôi bên ngoài, con cọp đă nhảy dựng lên với những tiếng gầm khủng khiếp. Những người xem đều im phăng phắc. Họ lo sợđang nh́n thấy tôi đi dần vào chuồng cọp trong một cuộc chiến đấu có vẻ như không cân sức. Khi tôi vừa đẩy cánh cửa sắt để bước vào, con cọp liền nhảy vọt tới nhanh như một mũi tên. Tôi xoay người để tránh, nhưng cú nhảy của nó quá nhanh và móng vuốt đă chạm được

vào bàn tay mặt của tôi, xé rách toạt một mảng da thịt và tạo thành một vết thương khá lớn, máu tuôn lênh láng. Tôi chợt nhớ đến lời tiên tri mà cha tôi đă kể lại và thấy rợn cả người. Tuy nhiên, tôi biết ḿnh không c̣n ǵ để chọn lựa vào lúc này. V́ thế, tôi nhanh chóng lấy lại tinh thần, áp chặt vết thương tạm thời trên mảnh quần cụt để giảm bớt lượng máu chảy, và sẵn sàng đối phó với đ̣n tiếp theo. Lần này, khi thân h́nh to lớn của nó phủ lên người tôi, tôi nhanh nhẹn tràn sang một bên vừa tránh kịp, và giáng trả một quả đấm thôi sơn bằng tay trái ngay vào hàm cọp. Nó lảo đảo xoay quanh mấy ṿng và lại phóng tới. Đă kịp thủ thế sẵn, tôi tiếp tục giáng cho nó một loạt quả đấm liên tiếp trên đầu. Nhưng điều bất lợi lớn nhất của tôi là vết thương đầu tiên. Mùi máu tươi như một thứ thuốc kích thích làm cho con cọp điên tiết lên không c̣n biết đau đớn, sợ sệt. Trong nhiều trận đấu trước đây, những quả đấm của tôi thường vô cùng hiệu quả. Có những con cọp sau khi bị tôi đấm vào đầu hay cằm, đă khiếp sợ đến mức không c̣n dám phóng tới mà chỉ thu ḿnh chờ tôi nhảy đến tấn công. Nhưng con cọp hăng máu này rơ ràng là không c̣n biết sợ, nó liên tục tấn công tôi bằng những đ̣n chí tử, với những nanh vuốt sắc nhọn. Đă thế, bàn tay mặt của tôi đă trở nên vô dụng, và tôi chỉ có thể phản công bằng tay trái. Tôi và cọp quần nhau một hồi th́ tôi không c̣n biết là ḿnh đă bị thương ở những nơi nào nữa. Bản năng sinh tồn cho tôi biết là phải nhanh chóng hạ gục nó nếu không th́ tôi sẽ không c̣n đủ sức để đứng vững nữa. Tôi lựa thế tung một cú đấm bằng

hết sức ḿnh vào đầu nó. Con cọp rống lên một tiếng đau đớn, nhưng thay v́ dội ngược, nó lại chồm ngay lên và phóng đến chỗ tôi. Bất ngờ và thất thế sau khi vừa ra một đ̣n hết sức, tôi không tránh né kịp bị nó hất ngă ngửa ra trên sàn. Nhiều tiếng hét kinh khiếp vang lên trên khán đài. Khán giả nhao nhao cả lên và nhiều người la lớn: “Bắn chết nó đi, bắn chết con cọp ngay đi!” Người gác chuồng cọp đă sẵn sàng hành động đúng như thế, v́ mọi người đều nghĩ là tôi đă thua cuộc và cần phải cứu lấy mạng sống của tôi. Nhưng lúc đó tôi và con cọp đă quấn vào nhau, chồm qua quật lại nhanh như cắt, và phát súng mất b́nh tĩnh của ông ta đă đi vào khoảng không vô ích. Ngay khi ấy, tôi lừa được một dịp thuận tiện, hét lên một tiếng lớn và dồn hết sức lực của ḿnh giáng vào giữa đỉnh đầu con cọp một quả đấm. Nó ngă lăn ra sàn gạch và không c̣n cử động.

 

 Thế là con cọp đă bị hạ. Đến đây, tôi nói chen vào và thở ra để trút hết sự căng thẳng tự năy giờ.

 Vâng, nó đă bị hạ. Vị tu sĩ cười một cách hóm hỉnh khi đáp lại với tôi câu này. Và ông kể tiếp:

 Tôi dùng hai tay đẫm máu tươi, banh rộng quai hàm của nó ra và đặt đầu ḿnh vào đó trong một lúc. Khán giả đều nín thở rợn người khi chứng kiến việc ấy. Sau đó, tôi lấy sợi dây xiềng quấn quanh cổ nó và buộc vào song sắt của chuồng cọp. Rồi tôi quay lưng đi về phía cửa chuồng một cách đắc thắng. Nhưng thật bất ngờ, ngay lúc ấy con Rāja vùng dậy và vươn ḿnh nhảy vọt tới. Trong lúc đă

 

đuối sức, tôi đă không buộc đầu dây đủ chặt, và sợi dây xiềng bị kéo tuột ra bởi sức mạnh cú nhảy của con thú. Nó phóng được tới và phủ xuống từ trên cao. Miệng nó ngoạm được một miếng lớn vào vai tôi, máu tuôn ra xối xả. Tôi ngă quỵ. Nhưng ngay lập tức tôi vùng dậy, lăn nhanh qua bên và quay lại giáng liên tục cho nó mấy đấm nữa vào đầu. Con thú giăy lên mấy cái rồi nằm im bất động. Lần này, tôi buộc nó chặt hơn rồi mới từ từ rời khỏi chuồng sắt. Bấy giờ, trên khán đài mới bùng lên những tiếng hoan hô và những tiếng la hét phấn khích. Người ta hoan nghênh chiến công hiển hách của tôi, và người ta tự hào về chuyện tôi đă tay không đánh gục con thú hung dữ nhất của rừng xanh. Tuy tôi bị thương rất nặng nề, nhưng tôi đă hội đủ các điều kiện chiến thắng: đánh gục con cọp, trói nó lại trong chuồng và đi ra mà không có sự trợ giúp của bất cứ ai. Khi người ta băng bó các vết thương cho tôi vừa xong, họ công kênh tôi đi qua khắp các đường phố. Nhiều người ném tiền vàng lên kiệu cho tôi. Cả thành phố tôn xưng tôi như một vị anh hùng chưa từng có. Hoàng tử cho người mang đến ngay cho tôi số tiền đă hứa. Nói chung, lúc bấy giờ tôi hầu như không c̣n thiếu bất cứ thứ ǵ mà từ trước tôi hằng mong muốn đạt được như tiền bạc, danh vọng... tất cả đều thừa thải. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là bỗng dưng tôi có một tâm trạng chán ngắt, lănh đạm với tất cả những ǵ đang xảy đến. Giây phút kề cận cái chết vừa qua như một gáo nước lạnh làm tôi thức tỉnh. Tôi nhận ra tất cả những ǵ ḿnh theo đuổi từ trước đến nay đều chỉ là phù phiếm, không thật. Và chỉ

cần bước qua lằn ranh sống chết là hết thảy đều sẽ không c̣n chút ư nghĩa ǵ nữa! Câu cuối cùng được ông nhấn mạnh bằng cách nói chậm và rơ ràng từng tiếng. Rồi ông dừng lại trầm ngâm. Tôi nh́n thấy được trong ánh mắt ông vẻ suy tư cho thấy những kinh nghiệm tâm linh thực sự mà ông đă trải qua sau lần đối mặt cùng cái chết. Dường như cho đến nay, điều đó vẫn c̣n là một kinh nghiệm quư giá mà ông muốn truyền đạt với chúng tôi. Ông chớp mắt mấy cái nhưđang nhớ lại mọi việc rồi kể tiếp:

 

– Thời gian tiếp theo đó quả là một thời kỳ khủng khiếp đối với tôi. Các vết thương nặng nề không khỏi ngay mà hành hạ tôi đau đớn không thôi. Bất cứ lúc nào mạng sống của tôi cũng đều nằm trong sựđe dọa mà không vị thầy thuốc nào dám đoan chắc là có thể cứu văn được. Tôi chịu đựng cơn đau thể xác từng giây từng phút, cùng với nỗi lo sợ về một cái chết tưởng chừng như không sao tránh khỏi. Nhưng chính trong thời gian này, những sự chiêm nghiệm tâm linh của tôi về cuộc sống cũng chín mùi đến một mức độ không ngờ được. Và kỳ lạ thay, quăng thời gian này kéo dài đúng sáu tháng, khớp với lời cảnh báo tiên tri của vị tu sĩ ngày trước. Chúng tôi không giấu được vẻ ngạc nhiên khi nghe kể đến đây. Phải chăng người ta sẽ có được khả năng biết trước mọi việc khi đă đạt đến sự chứng ngộ? Nhưng đây là một câu chuyện thật hoàn toàn do người trong cuộc kể lại, và xác nhận nó bằng chính cuộc đời ḿnh, nên độ tin cậy là không c̣n ǵ

để nghi ngờ nữa. Chúng tôi rất nôn nao muốn biết phần tiếp theo của câu chuyện.

– Làm thế nào mà tôi b́nh phục được sau sáu tháng kinh hoàng ấy, chính tôi cũng không hiểu nổi. Có lẽ đây là một sự thử thách mà tôi phải trải qua trước khi đạt được điều mà từ trước đến nay tôi chưa từng đạt được. Ngay khi vừa b́nh phục, tôi rời khỏi Cooch Behar để trở về quê quán. Tôi nói với cha tôi suy nghĩ của ḿnh lúc đó: “Thưa cha, giờ th́ con đă hiểu ra vị tu sĩ đưa ra lời cảnh báo con ngày trước chính là vị thầy đáng kính có thể cứu vớt đời con. Nhưng làm sao con có thể t́m được người vào lúc này?” Cha tôi hiểu ḷng tôi lúc đó, người an ủi tôi bằng một giọng quả quyết: “Con đừng lo. Nếu ngài đă có ư muốn cứu độ cho con, chắc chắn ngài sẽ đến đây vào thời điểm thích hợp.” Và quảđúng như cha tôi đă tin tưởng. Ít lâu sau th́ vị tu sĩấy bất ngờ xuất hiện. Người đến gặp tôi và nói bằng một giọng từ ḥa, êm ái: “Con không cần đánh cọp dữ nữa. Con hăy đi theo thầy. Thầy sẽ dạy con khuất phục những con cọp tham dục ẩn nấp trong khu rừng vô minh của ḷng ḿnh. Con đă có quá đủ những lời khen ngợi, ca tụng của người đời. Giờđây con hăy theo ta tinh tấn tu tập để đạt đến sự khen ngợi và ca tụng của những vị thiên thần và các bậc hiền thánh.” Ngừng một chút, vị tu sĩ kết thúc câu chuyện đời ḿnh bằng một giọng trầm trầm, chắc nịch:

 

– Kể từđó, chính tôn sư là người dẫn dắt tôi trên con đường tâm linh. Người khơi dậy nơi tôi những năng lực tinh thần đă từ lâu bị quên lăng. Với sự

 

hướng dẫn của người, mỗi ngày tôi càng mở rộng hơn ḷng từ bi thương xót của ḿnh đến với hết thảy muôn loài, và thậm chí cũng không c̣n để tâm hằn học, hận thù đối với loài cọp dữ trong rừng sâu nữa. Qua một thời gian, tôn sưđă đưa tôi lên núi Hy Mă Lạp Sơn để tiếp tục công phu tu tập thiền định. Chúng tôi nghiêng ḿnh chào tạm biệt vị tu sĩ với ḷng cảm kích vô hạn. Qua câu chuyện cuộc đời của ông, chúng tôi đă học hỏi được rất nhiều, và cảm thấy vững tin hơn nữa vào những điều đă học được trên con đường tâm linh. Chúng tôi hiểu ra một điều là sức mạnh thể chất tuy không thể phủ nhận, nhưng chính sức mạnh tinh thần mới là yếu tố quyết định sức mạnh của một con người. Và điều quan trọng nhất đối với tôi, là niềm mong ước được bỏ nhà ra đi sống đời sống xuất gia của một tu sĩ giờđây càng mạnh mẽ và nung nấu tôi hơn bao giờ hết.

 

CHƯƠNG VI THUT PHI THÂN

Một hôm, người bạn tôi là Upendra đến t́m tôi và nói với vẻ rất hăm hở:

 

– Này Mukunda, hôm qua tôi đă gặp một chuyện rất lạ lùng. Trong một buổi thuyết giảng, có vị tu sĩ kia đă bay lơ lửng lên không trung, với độ cao cách đất khoảng chừng một mét. Tôi nh́n anh ta, nhoẻn miệng cười và hỏi:

– Có phải tên ông ta là Bhaduri, cư trú ở đường Circular? Upendra gật đầu lộ vẻ ngạc nhiên:

– Thế ra anh đă biết vị này rồi sao? Tôi đáp:

– Vâng, v́ ông ta ở gần nhà tôi nên tôi cũng thường đến gặp ông. Nghe tôi nói thế, Upendra có vẻ bị thu hút vào câu chuyện. Anh ta muốn được nghe biết thêm về vị tu sĩ đặc biệt ấy. Tôi liền kể cho anh ta nghe:

– Tôi được gặp ông ta trong một trường hợp t́nh cờ. Khi ấy, ông đă luyện thuần thục phép khícôngPatanjali. Ông có thực hành khí công trước mắt tôi một lần và đến nay tôi vẫn c̣n nhớ rất rơ. Trong căn pḥng kín, ông ngồi vận khí và tôi có cảm giác như một cơn giông băo khủng khiếp đang tràn qua. Rồi sau đó, ông thay đổi hơi thở của ḿnh và tạo ra một ấn tượng yên tĩnh, êm ả sau cơn giông tố. Những cảm giác lạ thường trong lần ấy khiến cho tôi măi măi không sao quên được. Upendra tỏ vẻ hoài nghi. Anh ta hỏi:

– Tôi nghe nói rằng ông ta không bao giờ bước ra khỏi nhà. Có thật vậy chăng?

– Vâng, đúng vậy. Ông sống theo lối nhập thất đă từ hơn 20 năm rồi. Ông chỉ ra khỏi cửa vào những dịp thánh lễ, và những lúc ấy ông thực hành hạnh bố thí với rất đông những người hành khất hoặc những kẻ đói khổ. Upendra lại hỏi:

– V́ sao ông ta có thể lơ lửng được trên không, đi ngược lại với những định luật tự nhiên? Tôi nói:

– Tất nhiên là chính tôi cũng không hiểu biết nhiều hơn anh lắm đâu. Nhưng tôi nghe nói một số môn khícông có thể làm cho cơ thể con người ta nhẹđi,

và v́ thế có thể lơ lửng trên không theo ư muốn. Trong một số trường hợp khác, các bậc chân tu đă chứng ngộ cũng có được năng lực kỳ diệu ấy mà chúng ta không thể giải thích bằng những quy luật thông thường.11 Upendra hỏi tiếp:

– Tôi biết là ông ấy thường có những buổi thuyết giảng cho đệ tử vào buổi chiều. Tôi rất muốn được biết thêm nhiều hơn nữa về ông ta. Anh có thường đến tham dự các buổi thuyết giảng của ông ấy chăng?

– Vâng, tôi rất thường đến dự các buổi thuyết giảng của ông ấy, và học được khá nhiều điều từ những kinh nghiệm thực tiễn trong việc tu tập của ông ta. Sau câu chuyện với Upendra, buổi chiều hôm ấy trên đường đi học về tôi ghé vào thăm vị tu sĩ. Thật ra, ông cũng rất ít khi tiếp khách. V́ vậy, trước cửa nhà bao giờ cũng có một người đệ tử có nhiệm vụ canh cửa và từ chối những chuyến viếng thăm không báo trước. Tôi đă sắp bị mời ra như những người khác, th́ may thay tu sĩđă xuất hiện đúng lúc từ bên trong. Người nói:

– Đừng cản trở Mukunda. Cậu ấy có thể đến đây bất cứ khi nào cậu ấy thích. Trong khi đi cùng tôi lên căn pḥng của ḿnh, tu sĩ nói:

– Việc sống giam ḿnh trong căn nhà nhỏ này, thật ra không chỉ nhằm giúp ích việc tu tập của tôi, mà c̣n nhằm tránh cho người đời một số ư tưởng không hay. Em biết đấy, chân lư của bậc giác ngộ thường làm cho những kẻ phàm tục phải thất vọng

và đau khổ v́ họ không thể bám víu vào những ảo tưởng hư dối của ḿnh được nữa. V́ vậy, nếu không phải là những kẻ thật tâm cầu đạo th́ chẳng nên để cho họ nghe biết chân lư cao siêu của các bậc hiền thánh, kẻo sẽ làm cho họ thất vọng mà chán ngán cuộc sống này. Chúng tôi cùng bước vào một căn pḥng nhỏ đơn sơ. Chính trong căn pḥng này, tu sĩ trải qua phần lớn thời gian của đời ḿnh, v́ ông thường rất ít khi ra khỏi cửa pḥng.

– Bạch thầy, thầy là vị tu sĩ đầu tiên mà con được biết sống ẩn dật theo cách này. Vị tu sĩ cười đáp lại:

– Sự giác ngộ không giới hạn ở bất cứ một h́nh thức tu tập nào. Điều quan trọng là có thể nhận ra được bản chất của mọi sự việc. Ông ngồi xuống chỗ của ḿnh trên sàn nhà. Tôi cũng tự t́m cho ḿnh một chỗ thích hợp. Lúc này tôi mới lặng lẽ ngắm nh́n ông, đang chuẩn bị nhập vào thiền định. Tuy đă bước sang độ tuổi bảy mươi, ông không có vẻ ǵ là già nua, suy yếu. Ông ngồi thẳng lưng, thân h́nh to lớn, vạm vỡ và cân đối. Khuôn mặt đạo mạo với một cḥm râu bạc, đôi mắt tinh anh dừng lại ở một điểm vô định trong không gian, cho thấy ông đang tập trung tư tưởng hoàn toàn trong cơn thiền định. Bất giác, tôi cũng sửa lại tư thế ngồi và bắt đầu nhập thiền. Cả hai chúng tôi cùng trải qua thời gian êm ả quư giá này chừng hơn một giờ. Sau đó, tu sĩ lên tiếng trước, nói với tôi bằng một giọng êm ái, từ ḥa:

– Con đă khá thuần thục trong việc ngồi thiền đấy. Nhưng con đă đạt được kinh nghiệm tâm linh thực sự nào chưa? Ông có ư nhắc nhở tôi về mục đích của việc hành thiền:

– Con không nên nhầm lẫn giữa mục đích và phương tiện. Tôi hiểu điều ông muốn nói. Việc thực hành thiền định chỉ như một phương pháp rèn luyện tâm linh. Sự rèn luyện ấy giúp chúng ta đạt đến điều ǵ th́ c̣n cần phải có sự soi rọi của một trí tuệ minh mẫn và sự dắt dẫn của một bậc minh sư nữa. Vị tu sĩ lại nở nụ cười quen thuộc và chuyển sang một đề tài khác. Ông chỉ vào mấy cái bọc lớn để trên chiếc bàn nhỏ và nói:

– Đây là những thư tín từ Hoa Kỳ gửi đến. Một số các tổ chức tu tập tinh thần ởđó thường quan hệ với tôi để nhờ hướng dẫn việc tu thiền. Tôi rất vui được giúp họ. Em nên biết, phép tu thiền cũng như ánh nắng mặt trời, mang lại hơi ấm khắp nơi mà không là sở hữu của riêng ai cả. Và sự giải thoát của con người hoàn toàn giống nhau ở cả phương Đông và phương Tây. Lúc bấy giờ, tôi rất vô tư khi nghe những lời này của vị tu sĩ. Măi về sau, tôi mới hiểu ra là ông đă nh́n thấy trước sứ mạng truyền bá thiền học sang Hoa Kỳ mà tôi sẽ thực hiện trong nhiều năm sau đó, v́ thế ông muốn gieo vào ḷng tôi ít nhiều những tư tưởng đầu tiên về việc giảng dạy thiền học ở phương Tây. Tôi nói với ông một cách chân thành:

– Bạch thầy, thầy nên viết một tập sách hướng dẫn việc tu thiền. Sẽ có rất nhiều người được lợi lạc qua sự truyền dạy theo cách ấy của thầy.

– Tôi đă truyền dạy cho các môn đồ. Họ sẽ truyền dạy cho đệ tử của họ. Đó là những cuốn sách sống động và thực tiễn hơn nhiều. Một cuốn sách được viết ra trên giấy không thể mang lại niềm tin như những con người sống, và hơn thế nữa, nó thường chịu sự phê phán hẹp ḥi của những kẻ chẳng hiểu biết ǵ. Chiều hôm đó tôi ở lại với ông cho đến khi các đệ tử của ông quy tụ về để nghe thuyết giảng. Buổi giảng pháp của ông có sức thu hút rất mạnh. Ông tŕnh bày những vấn đề một cách lưu loát, và khiến cho người nghe tiếp nhận được một cách dễ dàng những ǵ ông muốn nói. Khi buổi giảng kết thúc, một người đệ tử đến trước ông và nói:

– Bạch thầy, thật tôn quư thay đức hy sinh cao cả, thầy đă từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để đi theo con đường tu tập khắc khổ và mang đến cho chúng con mùi vị của đạo pháp. Sự thật là lúc c̣n niên thiếu, vị tu sĩ này đă từ bỏ gia đ́nh rất giàu có để ra đi xuất gia. Nhưng tôi nghe ông đáp lại lời nói ấy rằng:

– Con đă nói ngược lại với sự thật mất rồi. Những ǵ thầy từ bỏ chỉ là chút tiền bạc và những thú vui trần tục vô nghĩa. Đổi lại, thầy đă đạt được niềm an lạc hạnh phúc vô biên không ǵ hơn được. Nếu so sánh như thế th́ có đáng gọi là một sự hy sinh chăng? Ngược lại, chính người thế gian đă từ bỏđi

những giá trị tâm linh quư báu mà họ hoàn toàn có thể được hưởng, để chạy theo những niềm vui tạm bợ trong phút chốc, những của cải vật chất mà không giúp ǵ cho họ khi đối mặt với những đau khổ của kiếp người. Những người như vậy, họ mất nhiều hơn là được. Và chính cách chọn lựa của họ mới là điều đáng ngạc nhiên một cách kỳ lạ! Và để kết luận, vị tu sĩ đưa ra một nhận xét đầy tính cách thực nghiệm:

– Nhân quả xoay vần là một định luật khách quan từ ngàn xưa không ai tránh khỏi. Nếu chúng ta biết tự lo cho tương lai của ḿnh bằng những việc làm tốt đẹp của hôm nay, th́ đó chính là sự đảm bảo chắc chắn hơn bất cứ một công ty bảo hiểm nào của thời đại. Cuộc sống thế tục đầy dẫy những khổđau, dằn vặt, và con người ta trở nên yếu ớt, thụ động v́ thấy ḿnh bất lực. Họ luôn khẩn cầu, van nài ở bất cứ một thế lực siêu nhiên nào đó để có được sự giúp đỡ, cứu rỗi. Nhưng họ không biết rằng chỉ có tự ḿnh mới có thể cứu vớt được chính ḿnh bằng những thay đổi tích cực trong nhận thức và lối sống. Về sau, tôi vẫn thường đến với vị tu sĩ này sau những giờ tan học. Người dành cho tôi một sựưu ái đặc biệt mà tôi dễ dàng nhận ra nhưng phải măi đến sau này mới hiểu được nguyên nhân. Ngày tôi chuẩn bị lên đường sang Hoa Kỳ, người đă nói rơ với tôi nguyên nhân ấy:

– Con hăy an ḷng đi đến nơi ấy. Tinh hoa của nền văn hóa Ấn Độ được thể hiện qua pháp môn thiền định sẽ được con truyền bá rộng răi trên đất Mỹ. Sứ mệnh thiêng liêng của con đă được xác định từ lâu

xa về trước. Và ta tin chắc rằng với đạo tâm vững chắc, con sẽ thành công. Người dân nước Mỹ sẽ dành cho con một sự chào đón nhiệt t́nh và nồng hậu. Nhưng tôi chỉ thật sự hiểu thấu những tư tưởng của vị tu sĩ khả kính và giàu nghị lực này sau khi chính bản thân tôi đă vượt qua rất nhiều thử thách. Và mối quan hệ hướng dẫn của ông với những người giàu đức tin ở nước Mỹ xa xôi kia có tác dụng gieo cấy trong tôi một ấn tượng tốt đẹp mà sau này đă giúp tôi mạnh mẽ hơn trên con đường truyền bá đạo pháp sang nơi ấy.

 

CHƯƠNG VII ĐỨC PHT MU QUÁN TH ÂM

Tôi đến thăm ngài Mahāsaya,12 đệ tử của đức Ramakrishna vào một buổi chiều. Khi gặp tôi, ngài tươi cười nói với vẻ hiền ḥa:

 

 

– Con hăy chờ trong chốc lát. Bây giờ ta cần phải chiêm ngưỡng đức Phật mẫu Quán Thế Âm. Lời nói đơn sơ của ngài bất chợt gợi lên trong tôi một ḷng sùng kính vô biên nhưđă có từ bao đời trước. Danh hiệu đức Quán Thế Âm như có một mănh lực vô h́nh khiến cho tôi bùng lên một thứ cảm xúc mạnh mẽ không sao tả được. Ngài Mahāsaya có một dáng vẻ rất từ ḥa, với cḥm râu bạc trắng mềm mại và đôi mắt sáng ngời như soi rọi được khắp cơi vô cùng. Nh́n tư thế an vui tự tại của ngài trong lúc chiêm ngưỡng đức Quán Thế

Âm, tôi có cảm tưởng đó là hiện thân toàn hảo nhất của sự tinh khiết. Vị tu sĩ này nổi tiếng về ḷng sùng kính vô hạn đối với đức Quán Thế Âm. Người ta nói là ngài có thể giao tiếp, cảm ứng được với đức Phật mẫu này, và tôi hoàn toàn không nghi ngờ ǵ vềđiều đó. Chính ngay khi bước chân đến gặp ngài, tôi đă cảm nhận được rất rơ ràng điều đó bằng trực giác của ḿnh. Trong đời tôi, nỗi đau khổ lớn nhất mà tôi đă từng nếm trải chính là khi tôi mất mẹ. Nhiều năm sau khi mẹ mất, tôi vẫn luôn cảm thấy một sự khát khao cháy bỏng được trông thấy lại h́nh dáng mẹ. Tôi đă cầu nguyện chỉ để được gặp lại người trong giấc mơ, và đôi khi lời cầu nguyện đó của tôi được đáp ứng. Tuy nhiên, từ khi tôi được tiến bộ phần nào trong việc tu tập tâm linh, th́ ḷng khao khát được gặp mẹ trở nên trầm lắng và sâu sắc hơn. Mặc dù tôi vẫn yêu mẹ như lúc nào, nhưng giờđây tôi hiểu ra rằng mong ước của ḿnh là vô lư và không mang lại ích lợi ǵ. Thay v́ vậy, tôi cố gắng đạt đến những tŕnh độ tâm linh cao hơn, và tin chắc là bằng cách đó tôi được đến gần mẹ tôi hơn. Thời gian gần đây, tôi dần dần có một cảm giác mơ hồ về sự gần gũi giữa h́nh ảnh người mẹđă khuất của tôi với đức Quán Thế Âm. Cảm giác ấy ngày càng rơ rệt, và tôi cảm thấy tấm ḷng từ bi vô hạn mà đức Phật bà này dành cho mọi chúng sanh, trong đó có tôi, quả thật không thể phân biệt nổi với t́nh thương trời bểmà mẹđă dành cho tôi. Tự trong thâm tâm, lư trí của tôi cho rằng ḷng thương yêu và tôn kính mẹđă khiến tôi thánh hóa địa vị của người lên

như đức Quán Thế Âm. Nhưng trực giác của tôi lại hiểu khác. Sự gần gũi giữa hai h́nh tượng đến với tôi một cách hoàn toàn tự nhiên không do suy luận, và tôi âm thầm cầu nguyện, niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm mỗi ngày với ḷng chí thành và cả với sự thương yêu tŕu mến như ngày xưa tôi đến với mẹ tôi. Tôi không nghĩ rằng cảm nhận của ḿnh là đúng hay sai, nhưng tôi biết chắc một điều là do những thôi thúc đó tôi đă t́m đến tôn sư Mahāsaya ngay khi được nghe biết về ông. Tôn sư Mahāsaya là người sống khiêm tốn và giản dị nhưng có kiến thức rất uyên thâm. Ngài có rất nhiều đệ tử. Ngài cũng có mở một lớp học để giúp cho việc học tập của các em học sinh trung học. Trong khi dạy dỗ các học tṛ xuất gia cũng như thế tục, ngài không bao giờ dùng đến những lời lẽ nghiêm khắc, cũng không dùng đến bất cứ một h́nh thức trừng phạt nào. Những điều ngài dạy thường rất ít khi đọc thấy trong sách vở, v́ ngài truyền dạy bằng chính sự thực chứng trong đời sống tâm linh của ḿnh, và các vị đệ tử noi theo tấm gương đạo hạnh của ngài nhiều hơn là những lời thuyết giảng khô khan. Ngài đặc biệt sùng kính đối với đức Phật mẫu Quán Thế Âm, và cũng dạy đệ tử ngài hăy lễ kính đức Phật mẫu thay v́ lễ kính ngài. Trong khi chờ đợi tôn sư tiếp chuyện với ḿnh, tôi cũng quỳ xuống bên cạnh người và chí thành chiêm ngưỡng đức Quán Thế Âm. Một lúc lâu sau, tôn sư ra khỏi thiền định và lấy tay xoa đầu tôi như một

dấu hiệu để báo cho tôi biết là ngài đă sẵn sàng nói chuyện cùng tôi. Tôi cúi chào theo đúng nghi thức đối với một bậc thầy, rồi ngồi xuống bên ngài và nói:

 Bạch thầy, con nghe nói thầy có thể giao tiếp, cảm ứng được với đức Phật mẫu Quán Thế Âm?

Đúng vậy, ta vẫn thường làm như thế.

 Con có thể thỉnh cầu thầy ban cho con một ân huệ, để con có được sự cảm ứng với đức Phật mẫu chỉ một lần giống như thầy được chăng? Tôn sư Mahāsaya yên lặng một lúc lâu. Rồi ngài nói:

Đó không phải là điều ta có thể làm được. Không ai đă giúp ta làm được điều đó, và ta cũng không có khả năng giúp cho ai được như vậy cả. Tôi hiểu ư ngài muốn nói ǵ. Nhưng vẫn khẩn khoản:

 Bạch thầy, nhưng bằng vào sự chứng nghiệm của bản thân thầy, thầy có thể ban cho con niềm tin và một sự dắt dẫn. Tôn sư yên lặng. Tôi phủ phục quỳ dưới chân ngài với sự thành khẩn mà tôi chưa từng biểu hiện từ trước đến nay. Khoảng nửa giờ đồng hồ trôi qua, tôn sư phá tan sự yên lặng và nói:

 Con đă lầm rồi. Ta không thể ban cho con niềm tin được. Nhưng ta thấy rằng điều đó đă tự có nơi con. Nhân danh đức Phật mẫu, ta chấp nhận lời thỉnh cầu của con. Con sẽ được toại nguyện. Tôi sung sướng không sao tả xiết. Ḷng tôi ngập tràn một niềm hạnh phúc vô biên. Tôi tạơn tôn sư và từ biệt ngài để ra về.

 

Cuộc đời có những sự t́nh cờ không sao giải thích được. Căn nhà mà tôi đến để gặp ngài Mahāsaya hôm nay, chính là căn nhà số 50 đường Amherst, tức là căn nhà cũ của gia đ́nh tôi, nơi tôi đă sống những ngày thơấu khổđau khi mẹ tôi qua đời. Từng bậc thang lầu cho đến những bức tường vô tri giác, đối với tôi như đều ghi khắc những kỷ niệm không sao quên được... T́nh yêu thương với mẹ và ḷng sùng kính vô biên đối với đức Quán Thế Âm, với tôi đều tăng lên gấp bội khi tôi được sống lại trong căn nhà này. Tôi luyến tiếc dạo quanh mấy ṿng rồi mới bước ra khỏi cửa để trở về nhà. Đêm hôm đó là một đêm mà và sau tôi không sao quên được. Tôi ngồi thiền như thường lệ cho đến khoảng 10 giờđêm. Đột nhiên, căn gác nhỏ của tôi bỗng sáng rực lên một thứ ánh kỳ diệu khác thường, vừa rực rỡ vừa êm dịu, khiến tôi cảm thấy hoàn toàn thư thái. Ánh sáng ấy bao phủ quanh tôi trong một khoảng thời gian mà tôi không thể biết là bao lâu, v́ ḷng tôi cảm thấy kinh ngạc và sung sướng đến độ không c̣n quan tâm đến thời gian trôi qua nữa. Thế rồi giữa vùng hào quang chói rạng đó, tôi nh́n thấy đức Quán Thế Âm hiện ra với h́nh dáng tuyệt đẹp mà không một pho tượng nào tôi đă từng xem qua có thể lột tảđúng được. Khuôn mặt ngài hiền dịu và bao dung, với một nụ cười làm xóa tan đi hết thảy những âu lo, phiền muộn. Ngài nói với tôi bằng một giọng ngân nga trong trẻo mà tôi chưa từng nghe thấy trên thế gian này bao giờ:

 

 

– Mukunda, Mẹ bao giờ cũng yêu thương con với một t́nh yêu thương không bao giờ khô cạn. Bất chợt, tôi cảm thấy một niềm hân hoan không sao tả hết. Khi ấy, tôi tự hỏi ḿnh: Đức Quán Thế Âm hay mẹ tôi đang nói? Và trong vùng hào quang linh diệu, đầu óc tôi bỗng dưng sáng suốt đến lạ thường, tôi thấy lóe lên trong đầu câu trả lời mà từ xưa nay tôi chưa hề nghĩ đến: “Tại sao ḿnh phải để tâm phân biệt như thế? Mẹ là Quán Âm, Quán Âm là Mẹ, cả hai đều là biểu tượng của t́nh yêu thương không bờ bến. Chẳng phải ngài vừa xác nhận điều đó qua lời nói đó hay sao?” Và tôi thấy ḷng thanh thản hơn bao giờ hết khi những gút mắt nội tâm cuối cùng đă được tháo tung bằng một cách vô cùng đơn giản. Vầng sáng quanh tôi đang từ từ tan biến sau khi linh ảnh của đức Quán Thế Âm không c̣n nữa. Tôi ngồi lặng rất lâu sau đó trong tư thế tọa thiền, không muốn đánh mất đi niềm phúc lạc vô biên vừa đạt được. Hôm sau, tôi t́m đến tôn sư Mahāsaya để tạơn ngài. Nhưng ngài tránh không cho tôi lễ lạy và nói:

 

– Phật tánh trong con vẫn thường tồn. Nếu con biết t́m lại được tánh Phật ấy th́ không cần phải lễ lạy ta. Và ngài nói tiếp khi thấy tôi có vẻ c̣n hoang mang chưa hiểu:

 

– Ta không phải là thầy của con. Vịấy sẽ xuất hiện trong tương lai vào một thời điểm thích hợp và dẫn dắt con trên đường học đạo. Lời tiên tri của ngài về sau tất nhiên sẽ trở thành sự thật. Nhưng trước khi điều ấy xảy ra, tôi vẫn c̣n

học hỏi được rất nhiều qua những lần tiếp xúc với ngài. Tôi thường đến thăm ngài vào những buổi chiều khi thuận tiện. Một hôm, tôi mang đến một ṿng hoa tươi và nói:

– Bạch thầy, đây là ṿng hoa do tự tay con chọn lựa và kết thành. Con muốn dâng lên thầy để tỏ ḷng tôn kính. Nhưng tôn sư khéo léo từ chối và nói:

– Con hăy dành những sự tôn kính này để dâng lên Phật mẫu. Như vậy, cả ta và con đều đến dưới chân người và sẽ càng gần gũi nhau hơn. Hôm ấy, tôn sư đề nghị tôi cùng đến viếng đền Dakshineswar và tôi nhận lời. Hôm sau, chúng tôi xuống tàu vào buổi sáng để đi khoảng 4 dặm trên sông Hằng. Đền thờ đức Quán Thế Âm được xây dựng rất lớn với kiến trúc có tám mái tṛn nhô lên cao vút. Tượng đức Quán Thế Âm được đặt trên một ṭa sen khổng lồđúc bằng bạc với một ngàn cánh hoa, chạm trổ công phu và được đánh bóng sáng rực. Tôn sư Mahāsaya chiêm ngưỡng và lễ bái tượng đức Quán Thế Âm với tấm ḷng sùng kính vô biên. Và khi ngài xưng tụng danh hiệu đức Quán Thế Âm, sự sùng kính của ngài như lan tỏa khắp chung quanh và chính tôi cũng thấy dâng lên một niềm tin tưởng vô biên không tả được. Trong chuyến hành hương này, tôn sư cũng giảng cho tôi nghe về hạnh nguyện của đức Quán Thế Âm và v́ sao người ta hoàn toàn có thể đạt được sự cảm ứng với ngài:

– Điều rất lạ lùng là mọi người ai cũng muốn thấy được sự linh ứng, nhưng tự thân họ lại có quá ít niềm tin và luôn sống trong sự nghi ngờ. Tôi hoàn toàn có thể hiểu được nhận xét thực tiễn này của tôn sư. Một thời gian sau khi tiếp xúc với tôn sư Mahāsaya, tôi mới biết ngài c̣n có nhiều khả năng kỳ diệu khác mà ngài thể hiện rất tự nhiên như việc hít thở khí trời. Một hôm, ngài Mahāsaya đưa tôi đến lớp học. Trên đường, chúng tôi gặp một người quen cũ và anh này làm tôi phải nản ḷng với chuyến đi chơi, v́ anh ta bám lấy chúng tôi bằng một câu chuyện dài nhằng nhịt không sao dứt được. Ngài kề tai tôi nói nhỏ:

– Ta biết con không mấy thích câu chuyện vô vị này. Nhưng con đừng lo, khi chúng ta đi đến ngôi nhà ngói đỏ đằng kia, anh ta sẽ bỗng dưng nhớ ra một chuyện cần kíp, và vội vă đi khuất mắt chúng ta ngay thôi. Tôi nghe ông nói và lấy làm ngạc nhiên pha lẫn chút hoài nghi. Chẳng mấy chốc, chúng tôi đă đến chỗ ngôi nhà ngói đỏ. Anh chàng huyênh hoang ngay khi ấy bỗng dưng đứng sựng lại như chợt nhớ ra điều ǵ. Nh́n bộ dạng hốt hoảng của anh ta thật tức cười. Và anh ta hối hảđi ngay thậm chí quên chào từ biệt hoặc cho chúng tôi biết lư do của sự chia tay đột ngột ấy. Tôi chuyển từ tâm trạng ngạc nhiên sang kinh ngạc dị thường, pha lẫn với niềm vui thoải mái v́ không c̣n bị quấy rối bởi một gă lắm chuyện không đâu. Khi ấy, tôi hiểu là tôn sư Mahāsaya chẳng những có

khả năng đọc thấu ḷng người, mà ngài c̣n nh́n thấy trước được những chuyện sắp đến nữa. Và câu chuyện xảy ra tiếp theo đây chứng minh cho ư nghĩ ấy của tôi về ngài. Tôn sư vỗ vai tôi thân mật và hỏi:

– Con thích xem chiếu bóng không? Vào thời đó ởẤn Độ, việc được đi xem một buổi chiếu bóng là khá hấp dẫn, nhất là đối với lứa tuổi thanh thiếu niên. Nhưng tôi không giống như những thanh niên b́nh thường khác, nên không thấy lôi cuốn mấy với những thú vui loại này. Tuy nhiên, tôi không muốn làm phật ḷng tôn sư. Vả lại, dù đi đâu mà được ở bên người th́ tôi cũng đều thấy vui. V́ thế, tôi vui vẻ gật đầu tán thành. Chúng tôi ghé lại gần bờ một hồ nước trước sân trường đại học Calcutta để ngồi nghỉ chân chốc lát trên một chiếc ghếđá. Tôn sư nói:

– Thầy ta ngày trước thường khuyên ta ngồi thiền gần những nơi có mặt ao hồ phẳng lặng, yên tĩnh. Khung cảnh như thế này thường dễ làm cho chúng ta đạt đến một tâm thức an b́nh, tĩnh lặng. Lát sau, chúng tôi đi vào giảng đường của trường đại học. Người ta đang có một buổi chiếu bóng thuyết tŕnh về một đề tài khoa học. Chúng tôi t́m một chỗ thích hợp và ngồi xem. Tôi không mấy hứng thú với vấn đề đang tŕnh bày, và cảm thấy hết sức nhạt nhẽo, vô vị với những h́nh ảnh được tŕnh chiếu. Chỉ một lúc, tôn sư Mahāsaya quay sang tôi nói nhỏ:

– Này con, tuy rằng ta biết con không thích buổi chiếu bóng này, nhưng chúng ta cũng không nên

ngang nhiên bỏđi ra, v́ như thế sẽảnh hưởng đến những người khác. Con hăy chuẩn bị, điện sắp bị mất trong giây lát, chúng ta hăy nhân đó mà đi ra ngay. Khi chúng ta ra đến hành lang, hệ thống điện sẽ hoạt động trở lại. Ngay khi đó, đột nhiên tất cả ch́m vào bóng tối. Có những tiếng la hốt hoảng trên khán đài v́ bất ngờ. Chúng tôi nhanh chóng dắt tay nhau đi ra hành lang. Quả nhiên, khi chúng tôi đă đều bước trên hành lang phía bên ngoài, đèn điện liền vụt sáng trở lại khắp nơi. Khi chúng tôi ra đến ngoài đường phố, ngài Mahāsaya nói với tôi:

– Ta biết con không thích buổi chiếu bóng vừa rồi của người thế tục. Bây giờ ta sẽ cho con xem một buổi chiếu bóng khác, hy vọng sẽ làm con thích. Nói xong, ngài đến gần và đưa tay áp nhẹ lên ngực tôi, gần vị trí của trái tim. Đột nhiên, tôi không c̣n nghe thấy bất cứ một âm thanh nào nữa cả. Đường phố nhộn nhịp, xe cộ qua lại, tất cả diễn ra trước mắt tôi hệt như trong một bộ phim câm. Hơn thế nữa, tầm mắt tôi tự dưng như mở rộng một cách kỳ diệu. Tôi nh́n gần, nh́n xa, nh́n thấy cả phía sau lưng ḿnh, nghĩa là khắp mọi nơi. Bất cứ tôi chú ư đến điểm nào, nơi ấy liền hiện rơ trước mắt tôi như trong gang tấc. Tầm mắt tôi không bị che khuất, cũng không c̣n bị trở ngại v́ khoảng cách gần xa. Tôi thử nảy ra ư muốn nh́n ra xa, liền thấy rơ cả những khu phụ cận của thành phố cũng rơ ràng nhưđang ở ngay trước mắt ḿnh.

Cảm giác kỳ diệu này làm cho tôi cảm thấy say sưa, ngây ngất trong một niềm vui sướng lạ lùng. Tôi cảmthấy toàn thân ḿnh nhẹ nhàng, thư thái như không c̣n bị trói buộc bởi xác thịt phàm tục này. Tôi có cảm tưởng ḿnh dễ dàng bay vút lên tận các v́ tinh tú mà không có một trở ngại nào. Trạng thái khó tả này kéo dài với tôi trong một lúc, cho đến khi tôn sư Mahāsaya đưa tay vỗ nhẹ vào ngực tôi lần nữa... Tất cả trở lại b́nh thường. Tôi lại nghe thấy tiếng người cười nói xôn xao đi lại... Và trong một lúc, tôi có cảm giác thân xác ḿnh nặng nề gấp trăm ngàn lần trước đây, đến nỗi tôi không muốn nhấc chân lên để đi theo thầy nữa. Tôi biết cảm giác ấy là v́ tôi vừa bước ra khỏi trạng thái xuất thần kỳ diệu kia một cách quá đột ngột. Tôi thầm cảm ơn tôn sưđă cho tôi được nếm trải một kinh nghiệm tâm linh mà tôi biết sẽ c̣n rất lâu tôi mới có thể tự ḿnh đạt đến.

– Ta hy vọng là con thích buổi chiếu bóng vừa rồi. Tôn sư nói với một nụ cười rộng mở trên môi người. Tôi xúc động đến phát khóc lên được. Tôi đă muốn quỳ xuống lạy tạơn người ngay trên đường phố, nhưng người đă kịp giữ tôi lại bằng một thái độ dứt khoát:

– Con không nên làm vậy. Ta chỉ làm thế v́ con xứng đáng được nh́n thấy trước một vài kinh nghiệm tâm linh như thế. Về sau con sẽ tự ḿnh chứng nghiệm những điều c̣n cao siêu kỳ diệu hơn thế nữa. Những lời dạy của ngài tôi c̣n ghi khắc măi trong suốt cuộc hành tŕnh tu tập của ḿnh. Và phép mầu

kỳ diệu ngài đă ban cho tôi lần ấy đă có giá trị động viên rất lớn đối với tôi, giúp tôi vượt qua rất nhiều những khó khăn, trở ngại về sau. Hơn tất cả, ngài đă giúp tôi củng cố một niềm tin không ǵ lay chuyển nổi đối với ḷng từ bi vô lượng vô biên của đức Quán Thế Âm, một chỗ dựa vững chắc giúp tôi có thể an nhiên tự tại ngay trong cả những hoàn cảnh đầy bất trắc. Nhiều năm về sau, tôi được chứng kiến nhiều phép mầu kỳ diệu của các bậc tôn sư, và tôi hiểu ra một điều là đức tin sâu vững của con người có giá trị vượt xa những năng lực tri thức. Những ǵ người ta phải cố gắng nhiều thế kỷ để đạt đến bằng tri thức, bằng khoa học, th́ về phương diện tâm linh đôi khi có thể đạt đến chỉ trong một thời gian rất ngắn. Hơn thế nữa, tôi c̣n biết được rằng hạnh phúc chân thật và sự tồn tại của nhân loại không phải nhờ vào những tiến bộ khoa học kỹ thuật tối tân của một nền văn minh vật chất, mà là nhờ vào những thành tựu về mặt tâm linh mà các bậc thánh nhân đă đạt được và truyền lại.

 

CHƯƠNG VIII SƯ PHỤŚRĪ YUKTESWAR

Chẳng bao lâu đă đến lúc tôi phải đối mặt với kỳ thi tốt nghiệp trung học, theo như mong muốn tối thiểu mà cha tôi kỳ vọng ở tôi trước khi cho phép tôi bước vào con đường xuất gia tu học. Một buổi chiều, tôi đọc thấy trong tập sách ôn thi của một vị giáo sư danh tiếng lời nhận xét sau đây: “Đức tin có thể giúp chúng ta vượt qua mọi việc, trừ việc muốn thi đậu mà không chịu học bài.” Tôi gấp sách lại và nghĩ: “Tác giả này đă không có đủ đức tin trong cuộc sống. Ông ta có thể là một học giả khoa cử nhưng sẽ không bao giờ có thể hưởng được lợi lạc từ đức tin.” Mặc dù tôi có hứa với cha tôi sẽ hoàn tất việc học như người mong đợi, nhưng tôi đă không có đủ can đảm dành nhiều th́ giờ cho việc học. Trong suốt những tháng cuối cùng của niên học, tôi lại thường bị cuốn hút vào những buổi trầm tư bên bờ sông Hằng thay v́ là dành trọn thời gian cho việc ôn thi. Có những buổi chiều, tôi lang thang đi qua khu đất trống dành cho việc hỏa táng các xác chết. Đôi khi tôi ởđó cho đến tận lúc đêm xuống. Khung cảnh băi tha ma hoang vắng, rùng rợn này thật chẳng có chút hứng thú, hấp dẫn nào đối với những con người b́nh thường. Nhưng nó đặc biệt có sức lôi cuốn với những ai đang muốn thể nghiệm tính chất vô thường của cuộc sống. Cuối cùng rồi ngày thi cũng sắp đến. Chỉ c̣n không đầy một tuần nữa, hoặc là tôi có thể vượt qua kỳ thi

bất đắc dĩ này để làm vừa ḷng cha tôi, hoặc là tôi sẽ thất bại ê chề và lại phải tiếp tục những ngày tháng nặng nề buồn chán nơi trường học. Thời gian chờ đợi đối với tôi thật nặng nề. Tôi thực sựđă không chuẩn bị đủ kiến thức để tham gia kỳ thi. Nhưng tôi lại hoàn toàn không muốn thi hỏng, v́ đối với tôi th́ đây chính là cơ hội để vượt qua và giải thoát khỏi con đường khoa cử. Tôi đang lang thang với tâm trạng bất ổn th́ nghe có tiếng gọi trên đường phố:

 

 Mukunda! Anh đi đâu mà biệt tích suốt mấy ngày nay vậy? Tôi quay lại. Đó là Nantu, một bạn học cùng lớp và được chúng tôi mệnh danh là “nhà học giả” v́ sức học uyên bác của anh. Tôi cười thật tươi đáp lời anh:

 À! Cứu tinh của tôi đây rồi. Thú thật với anh là tôi đang đi t́m câu giải đáp cho kỳ thi sắp tới. Nantu cũng bật cười vui vẻ trước lời thú nhận của tôi:

 Tất nhiên là bạn bè phải giúp nhau thôi. Tôi hiểu anh chẳng có hứng thú ǵ với sách vở, nên phải gặp khó khăn vào lúc này rồi. Tôi chỉ mong ngày sau lúc anh thành Phật sẽ nhớ cứu độ cho tôi trước đấy nhé! Tôi cười x̣a với câu nói đùa chân thật và tỏ ra đầy sự cảm thông của Nantu. Anh đề nghị tôi đến nhà anh để cùng nhau chuẩn bị cho chuyện thi cử. Giải pháp của Nantu đề ra tuy không chắc chắn lắm nhưng quả thật khiến tôi rất yên ḷng. Ít ra th́ tôi cũng có được những lư do tương đối để nuôi hy vọng. “Nhà học giả” này hệ thống toàn bộ chương

 

tŕnh học và đề ra một số vấn đề mà anh tin là sẽ rơi vào kỳ thi năm nay. Anh giải đáp các vấn đề ấy cho tôi thật kỹ, và thậm chí đề nghị tôi học thuộc một số trong đó. Tôi rời khỏi nhà anh khá khuya khoắt, trong đầu nhét đầy những kiến thức vừa được anh giảng giải, cùng với niềm hy vọng là đức tin và sự may mắn sẽ giúp tôi vượt qua được khó khăn lần này. Nhưng trong lúc vội vàng, Nantu đă quên khuấy đi môn tiếng Phạn cổ. Mà môn này lại là một trong những điểm rất yếu của tôi. Tôi băn khoăn tự hỏi không biết rồi sự thiếu sót này sẽ được đền bù bằng cách nào đây! Sáng sớm hôm sau, tôi đi bách bộ trên đường phố vắng vẻ để ôn lại những kiến thức vừa học đêm qua. Không khí trong lành của buổi sáng tinh mơ giúp tôi cảm thấy trong người sảng khoái và sáng suốt hơn bao giờ hết. Tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy ḿnh có thể nhớ lại một cách rơ ràng từng điểm một trong những điều mà Nantu đă giảng giải. Trong lúc vui chân, tôi không hiểu tại sao ḿnh lại rẽ vào một con đường nhỏ băng qua một khoảng đất trống khá rộng. Thật ra tôi cũng chẳng hề có mục đích đi đến đâu, chỉ là muốn đầu óc được thư giăn đôi chút sau một đêm căng thẳng mà thôi. Trong lúc tôi đang thong thả đếm từng bước chân trên con đường nhỏ, một cơn gió bỗng thổi ngang qua trước mặt tôi một tờ giấy. Tôi cúi xuống nhặt lên và thấy có vẻ nhưđó là một trang sách bị xé ra từ một cuốn sách viết bằng tiếng Phạn cổ. Tôi thử đọc xem th́ thấy đó là một bài văn khá lưu loát và

súc tích. Tôi vừa đi vừa xem và bỗng thấy thích bài văn cổấy nên gấp miếng giấy cho ngay vào túi. Buổi chiều, tôi sắp xếp thời gian ghé thăm một học giả nổi tiếng về chữ Phạn cổ, đưa cho ông ta xem bài văn cổấy và đề nghị ông giúp tôi phân tích, nhận xét về nó. Ông ta nh́n tôi, cười hóm hỉnh và hỏi đùa:

 

 

– Đây không phải là đề thi tốt nghiệp trung học môn tiếng Phạn năm nay đấy chứ? Nói thế, nhưng ông có vẻ rất thích bài văn này. Ông say sưa giúp tôi phân tích bài văn thật kỹ, và c̣n thông qua đó chỉ ra nhiều điểm quan trọng trong môn học này. Điều mà tôi có nằm mơ cũng không nghĩ đến là tôi đă vượt qua kỳ thi tốt nghiệp một cách thật dễ dàng, cho dù chỉ với điểm số trên trung b́nh đôi chút. Khỏi nói th́ có lẽ độc giả cũng hiểu được những ǵ đă xảy ra: Tôi “trúng tủ” môn tiếng Phạn với bài văn bắt gặp t́nh cờ kia, và cũng nhớ được các “bài giảng” của Nantuvừa đủ để lấp kín những khoảng trống trong bài thi! Cha tôi vui mừng khôn xiết khi biết kết quả thi đậu của tôi. C̣n bản thân tôi th́ xem đây như là thời điểm cáo chung của những ngày dài học tập trong trường lớp, và là giấy phép để tôi bước chân vào đời sống xuất gia như cha tôi đă hứa. Hơn thế nữa, đây c̣n là sự củng cố thêm đức tin sâu vững của tôi, v́ lập luận của vị giáo sư trong tập sách kia rằng “trừ việc muốn thi đậu mà không chịu học bài” đă không c̣n đứng vững nữa trong trường hợp của tôi, một cậu học tṛ theo đuổi những kinh nghiệm tâm linh

nhiều hơn là học bài trong trường lớp. Nếu có dịp gặp được ông ta đâu đó, có lẽ tôi sẽ không ngần ngại mà nói rơ cho ông biết, việc tôi thi đậu chỉ hoàn toàn là nhờ vào đức tin mà thôi! Tôi không bỏ lỡ thời gian chuẩn bị ngay cho tương lai theo đúng như mong ước của ḿnh. Cùng với một người bạn đồng chí hướng là Jitendra Mazumdar, tôi quyết định sẽ t́m đến tu viện Mahāmandai ởBénarès để bắt đầu cuộc sống thoát ly gia đ́nh. Tuy nhiên, điều tôi không hề nghĩ đến trước đó là t́nh cảm gia đ́nh lại níu chân tôi mạnh mẽ đến thế. Từ khi mẹ tôi qua đời, tôi ngày càng thấy thương yêu hai em trai của ḿnh là Sananda và Bishnu nhiều hơn. Và ngay cả đối với những vật vô tri giác như cũng trở nên quyến luyến đậm đà đối với tôi khi trong trí tôi thực sự nghĩ đến việc rời khỏi gia đ́nh. Thế là tôi rơi vào một tâm trạng phân vân không dứt khoát, kéo dài qua nhiều ngày. Sau cùng, tôi quyết định phải tự ḿnh xác định hướng đi đúng đắn nhất bằng cách bước vào căn gác nhỏ quen thuộc của ḿnh và tham thiền để t́m ra đáp án. Với sự quyết tâm cao độ, đêm đó tôi tham thiền đến tận khuya, và cuối cùng tôi nhận ra tất cả những t́nh cảm quyến luyến kia không thể nào vượt qua được ḷng ham thích cuộc sống xuất gia mà tôi đă theo đuổi từ thuở bé. Tất cả những dự báo của mẹ tôi trong lời di chúc để lại, rồi những nhận xét của các bậc tôn sư mà tôi đă gặp... Và cuối cùng, yếu tố quyết định nhất là một điều kỳ diệu vốn đă

xảy ra cho mẹ tôi nhiều năm về trước. Trong khi đang tham thiền, bỗng tôi nghe có một cảm giác lành lạnh trong ḷng bàn tay, khiến tôi phải chú ư đến. Tôi mở mắt nh́n xuống. Lạ thay, chính là món linh phù bằng bạc mà tôi đă cất giữ rất cẩn thận trong một cái hộp có khóa, để trong ngăn tủ! Khi tôi nhận ra món linh phù, trong trí tôi nhớ lại tất cả những ǵ mà mẹ tôi đă kể. Tôi biết là cuộc đời tôi gắn bó với món vật linh thiêng này, và sự xuất hiện kỳ lạ của nó hôm nay chắc hẳn là một thông điệp giúp tôi sớm đi đến quyết định cuối cùng. Ngay lúc ấy, tôi biết rằng sứ mệnh tương lai của tôi đă bắt đầu kể từ giây phút này. Việc chuẩn bị được tiến hành rất nhanh chóng. Cha tôi giữ lời hứa đồng ư cho tôi ra đi nhưng với một sự lưu luyến mà tôi dễ dàng nhận ra trong mắt người. Khi tôi đến tu viện Mahāmandai ở Bénarès, Jitandra đă cómặt ởđó rồi. Vị sư trưởng ởđây là Dayānanda hăy c̣n khá trẻ. Ông đón tiếp tôi một cách nồng hậu. Với dáng người cao và hơi gầy với vẻ mặt trầm tĩnh, người đă tạo cho tôi một ấn tượng ban đầu khá tốt đẹp. Gương mặt khôi ngô của ông có những nét phảng phất gợi nhớ đến nét từ ḥa trên khuôn mặt đức Phật mà tôi thường chiêm ngưỡng. Chỗở mà tôi được bố trí trong tu viện có một căn gác nhỏ yên tĩnh, mỗi buổi sáng tôi có thể tham thiền ởđó trong vài giờ, hoặc vào những lúc thuận tiện khác trong ngày. Những bạn đồng tu khác trong tu viện có vẻ chưa quen mấy với việc thực hành

môn thiền định, nên họ tỏ ra thiếu thông cảm với những giờ tọa thiền của tôi. Tôi được giao một công việc ở văn pḥng, và trong thời gian đầu mọi người đều hài ḷng với những ǵ tôi làm được. Nhưng buổi chiều kia, một bạn đồng tu nói với tôi vẻ châm chọc khi thấy tôi đang sửa soạn lên gác:

 

– Huynh không nên nhập Niết-bàn quá sớm như thế! Hôm sau, tôi t́m gặp sư trưởng Dayānanda để kể lại sự việc và nói:

 

– Bạch sư trưởng, con không biết người ta muốn con phải làm những ǵ, nhưng nếu không thể thực hành công phu thiền định th́ không có một điều ǵ khác có thể làm cho con cảm thấy bù đắp được. Sư trưởng tỏ ra rất cảm thông với tôi. Người nói với các đệ tửđang đứng gần đó:

 

– Các con đừng ngăn cản Mukunda. Dần dần rồi cậu ta sẽ quen dần và ḥa nhập được với đời sống mới. Nhưng tôi lấy làm ngờ vực về sự vâng lời của các đệ tử người, v́ sau lần ấy tôi không thấy họ có thái độ thay đổi ǵ tích cực. Một hôm, sư trưởng nói với tôi:

 

– Mukunda, cha em vẫn gửi tiền đến đây cho em mỗi tháng. Ởđây em sẽ không cần dùng đến tiền, nên ta muốn em hăy gửi trả về nhà. Ngoài ra, ta muốn em biết thêm điều này: khi em đói, hăy giữ đừng biểu lộ cho người ngoài nh́n thấy. Tôi hơi băn khoăn về câu nói sau cùng của sư trưởng. Tôi không biết là bộ dạng của tôi có làm cho người ta thấy rơ là tôi đói hay không, nhưng tôi biết

rất rơ một điều rằng đó là sự thật. Ởđây chúng tôi chỉăn lần đầu trong ngày vào lúc giữa trưa, trong khi ở nhà tôi vẫn quen với bữa ăn thịnh soạn lúc chín giờ. Và ba tiếngđồng hồ chênh lệch không phải là một thời gian ngắn ngủi hoặc dễ chịu chút nào cho một cậu trai trẻđang lớn như tôi. Thay v́ “quen dần đi” như lời sư trưởng nói, tôi càng ngày lại càng cảm thấy khó chịu hơn. Tôi luôn nhớ lại những ngày c̣n ở nhà, người đầu bếp chỉ cần dọn cơm trễ chừng 10 phút đă có thể bị tôi quở trách! Trong một nỗ lực để chế ngự bản thân ḿnh, tôi đă thử nhịn đói trong một ngày. Nhưng vô ích, v́ sau đó tôi càng thấy nôn nao hơn nữa trong lúc chờ đợi bữa trưa ngày hôm sau! Một hôm, trong lúc tôi đang chờ đợi giờ cơm trưa sắp đến th́ Jitandra đến báo một tin chẳng lành:

– Xe lửa của sư trưởng Dayānanda về trễ giờ, chúng ta sẽ đợi sư trưởng về để cùng ăn. Trong hai tuần qua, sư trưởng có việc phải đi vắng. Để tỏ ḷng kính trọng người, hôm nay tất cả chúng tôi phải đợi người về đến nơi để cùng ăn cơm. Điều oái ăm là nhà bếp đă nấu nướng sẵn sàng, và hương vị của các món ăn – khá đặc biệt trong ngày đón tiếp sư trưởng

 

– không bay đi đâu mà dường như chỉ xông thẳng vào mũi tôi. Cái mùi thơm ngào ngạt đó mới ngửi thấy th́ vô cùng dễ chịu, nhưng ngay sau đó lại có tác dụng làmcho cơn đói cồn cào lại càng hoành hành thô bạo hơn trong bao tử. Tôi buồn bực nằm co trong cơn chờ đợi, không thiết nghĩ đến bất cứ

một việc làm nào. Thời gian bấy giờ đối với tôi như kéo dài vô tận. Trời đă về chiều, và màn đêm dần buông xuống trước khi sư trưởng của chúng tôi về đến tu viện. Tôi đón tiếp sự trở về muộn màng của người với niềm vui sướng mà tôi nghĩ là người sẽ chẳng bao giờ hiểu được nguyên do! Nhưng sự việc chưa chấm dứt ởđây. Jitendra chậm răi thông báo cho tôi biết tin “thời sự” mới nhất bằng một giọng uể oải, có lẽ anh ta cũng đă đói cực kỳ:

– Sư trưởng c̣n đi tắm, và người phải tham thiền một lúc. Sau đó, chúng ta mới dùng cơm. Tôi rủn cả người ra và nghĩ thầm: “Người chết đói đầu tiên trong năm nay ở Bénarès này chắc hẳn phải là tôi.” Đúng chín giờ th́ bữa cơm mới được bắt đầu. Buổi cơm tối hôm đó hẳn là một trong những giây phút tuyệt vời khó quên nhất trong đời tôi, sau một ngày chờ đợi dài đằng đẳng tưởng như hàng thế kỷ. Tôi ăn ngấu nghiến như chưa từng được ăn. Nhưng tôi cũng c̣n đủ sự lưu tâm để nhận thấy là vị sư trưởngchỉăn uống qua loa như để không làm buồn ḷng các đệ tử. V́ thế, sau bữa ăn tôi bước vào pḥng người.

 

– Bạch sư trưởng, ngài không thấy đói sao?

 

– Có chứ. Trong bốn ngày qua ta chẳng ăn uống ǵ. Và khi đi trên xe lửa ta không bao giờăn v́ những rung động nặng nềởđó làm cho tâm thức rất khó được an định. Ngày hôm nay lại c̣n khá nhiều công

việc tổ chức làm ta bận trí, nên ta đă ăn uống quá sơ sài. Thôi được, ngày mai ta sẽ bù đắp lại vậy. Tôi nhớ lại tâm trạng của ḿnh trong suốt ngày hôm đó và lấy làm kinh ngạc pha lẫn sự hổ thẹn khi so sánh với những điều ngài nói. Nhưng tôi vẫn không sao hiểu được trọn vẹn vấn đề. Tôi đánh bạo hỏi ngài:

– Bạch sư trưởng, ngài có dạy không nên bày tỏ cho người khác biết cơn đói của ḿnh. Nhưng nếu trong trường hợp đói mà không có ai mời ăn, chẳng phải sẽ chết đói hay sao?

 

– Này con, nếu có trường hợp đó, con hăy vui vẻ chịu chết. Tôi giật nẩy cả ḿnh như bị tạt vào một gáo nước lạnh. Câu trả lời của sư trưởng vượt ngoài sức tưởng tượng của tôi. Ngài vẫn thong thả nói tiếp:

 

– Mukunda, con đừng tưởng việc để tâm t́m kiếm vật thực sẽ nuôi con sống măi. Khi nghiệp lực không c̣n nữa, dù con có nằm trên một núi thức ăn, con cũng không sống được. C̣n nếu nghiệp lực chưa dứt, việc ăn uống của con tự khắc sẽ được giải quyết không cần lo lắng. Con nên biết, con cũng như ta, chúng ta bỏ đời sống gia đ́nh ra đi cầu đạo, hẳn phải v́ một cái ǵ đó cao quư và quan trọng hơn chứ không phải là vấn đề vật thực. Những lời ngắn gọn nhưng dứt khoát của vị sư trưởng làm tôi thấy như bừng tỉnh sau một cơn mê dài. Tôi vụt hiểu ra sự vô nghĩa, tạm bợ của xác thân vật chất này, và tinh thần tôi đă yếu đuối biết bao nhiêu mới bị nó hành hạ tưởng như không sao chịu đựng được. Và tôi lấy làm xấu hổ khi thấy rơ ḿnh

 

hoàn toàn chưa có đủ sự chuẩn bị để đối phó với những vấn đề lớn lao hơn, như sự sống chết của một đời người! Tôi nhớ lại những lần hiếm hoi khi tôi vượt lên được sự ràng buộc của thể xác bằng một tinh thần cương nghị, dũng mănh. Những khi ấy tôi thấy tôi mạnh mẽ và thanh thoát biết dường nào. Bài học hôm nay ở tu viện Mahāmandai tại Bénarès này sẽ là một bài học tôi không thể nào quên cho đến tận cuối đời. Từ Calcutta ra đi, tôi không mang theo bất cứ món của cải quư giá nào, ngoại trừ món linh phù bằng bạc của mẹ tôi để lại. Tôi luôn giữ nó thật cẩn thận bên người, hoặc khi không mang theo nó, tôi để vào trong một chiếc hộp nhỏ có khóa rồi đặt trong ngăn tủở pḥng tôi. Những khi nội tâm bất an hoặc gặp phải chuyện ǵ khó khăn, trắc trở, tôi đều lấy nó ra và ngồi lặng yên ngắm nh́n trong một lát. Những khi ấy, tôi nghĩ đến mẹ tôi và thầy Lahiri Mahāsaya, và tự nhiên một nguồn sức mạnh tinh thần vô biên như được truyền tiếp đến cho tôi, khiến tôi lại cảm thấy vững vàng và tự tin hơn để tiếp tục chí nguyện của ḿnh. Sáng hôm ấy, tôi mở khóa chiếc hộp đựng món linh phù để nh́n ngắm nó. Kỳ lạ thay, ổ khóa vẫn c̣n nguyên vẹn, nhưng món linh phù đă không cánh mà bay! Lời dự báo của vị tu sĩ lúc trao nó cho mẹ tôi giờđây đă ứng nghiệm. Và nếu đúng như thế, có nghĩa là nó đă làm xong sứ mệnh hộ phù cho tôi. Điều này đồng nghĩa với việc một bước ngoặc quan

trọng nào đó của đời tôi chắc chắn là đang âm thầm đến gần. Tôi đă nghĩ như vậy và băn khoăn chờ đợi. Mối quan hệ giữa tôi với các bạn đồng tu trong tu viện Mahāmandai ngày càng xấu đi. Việc tôi dành nhiều thời gian cho việc tham thiền có vẻ như không thích hợp với đường hướng tu tập chung của toàn tu viện. Sự căng thẳng với các huynh đệ đă đến mức làm cho sư trưởng cũng phải phật ḷng. Thất vọng nặng nề v́ cảm thấy ḿnh không đạt được những điều mong muốn như khi bước chân ra đi, tôi mơ hồ cảm thấy tu viện này có lẽ không phải là nơi thích hợp cho việc tu tập của tôi. Tôi dồn nỗ lực vào việc tham thiền và cầu nguyện sao cho sự hộ tŕ của chư hộ pháp sẽ giúp tôi sớm t́m được bậc minh sưđích thực của ḿnh. Một hôm, trong lúc đang tham thiền nhập định ở trạng thái hoàn toàn tập trung, tôi bỗng nghe có tiếng nói văng vẳng quanh ḿnh:

 Vị đạo sư của con sẽ xuất hiện trong ngày hôm nay. Tiếng nói ấy làm tôi cảm thấy hân hoan vui mừng khôn tả. Và chỉ trong phút chốc tôi vụt nhớ ra ngay. Chính là âm hưởng giọng nói của đức Phật mẫu Quán Thế Âm mà tôi có lần đă được nghe khi c̣n ở Calcutta. Tâm trạng thư thái, vui mừng của tôi vẫn c̣n đang kéo dài chưa dứt, th́ bỗng nhiên tôi nghe có tiếng gọi giật giọng từ bên dưới:

Mukunda, hăy dẹp ngay chuyện tọa thiền của anh đi. Chúng tôi cần anh đi chợ mua đồ.

 

Nếu vào một lúc khác, có lẽ tôi đă bực tức lên và cự nựđôi câu trước những lời thô thiển đó. Nhưng hôm nay tôi thấy ḷng rất vui và hoàn toàn không muốn đánh mất niềm vui ấy. Tôi thư thả đứng lên, leo xuống gác và nhận nhiệm vụđi mua đồ cùng với một người nữa là Habu. Chúng tôi phải mua đồ ở một khu chợ khá xa, nằm ở khu Bengali của thành Bénarès. Nhưng những món đồ cần mua không nhiều lắm, nên chỉ khoảng gần trưa là chúng tôi đă mua xong và trên đường trở về. Chúng tôi chen qua những đám người đông đảo đủ mọi tầng lớp của phố thị, và cuối cùng cũng ra đến khu đường trống. Ngay khi đi qua một ngă tư, tôi nh́n theo con đường nhỏ cắt ngang qua lối chúng tôi đang đi và nh́n thấy một tu sĩở cách đó không xa. Vừa nh́n thấy ông ta, tôi bỗng giật nẩy cả người. Ông mặc áo cà sa màu vàng sậm, khuôn mặt và dáng dấp của ông quen thuộc với tôi đến mức lạ kỳ: chính là khuôn mặt rất thường xuất hiện trong những giấc mơ của tôi thời niên thiếu. Tuy vậy, tôi vẫn c̣n chưa thấy chắc chắn lắm, nên sau một lúc dừng lại để ngắm nh́n ông, tôi lại rảo bước đi theo Habu lúc ấy đă mang đồ đi khá xa và đang đứng lại để chờ tôi với dáng ngạc nhiên. Nhưng tôi bỗng nghe hai chân ḿnh nặng như ch́, tưởng chừng không sao nhấc lên được. Một sức mạnh kỳ bí thôi thúc tôi quay lại và hướng về người tu sĩ. Ngay khi ấy đôi chân tôi trở lại b́nh thường. Không tin nổi vào cảm giác của chính ḿnh, tôi liền thử quay lại đi theo Habu nhưng vô ích, đôi chân tôi

quả nhiên lại không sao nhấc lên được nữa. Thế là tôi tuân theo một mệnh lệnh tự trong tâm thức ḿnh và quay lại đi về hướng vị tu sĩ. Tự năy giờ, vị tu sĩ vẫn đứng yên nơi một góc đường với dáng vẻ thản nhiên, hiền hậu. Có vẻ như ông đang kiên nhẫn chờ tôi đến. Khi tôi đến gần, tôi thấy ánh mắt người nh́n tôi và tôi quả quyết ngay là ḿnh đă nghĩđúng. Tôi đến ngay trước mặt người và không ngần ngại quỳ ngay xuống trên đường phố:

 

– Kính lạy sư phụ. Tôi nói ra lời ấy như tuân theo một nhân duyên từ tiền kiếp mà chính tôi cũng không sao hiểu nổi. Vị tu sĩ nở nụ cười thật từ ḥa, đưa tay sờ đầu tôi theo như cách mà các bậc tôn sư vẫn làm để tỏ ḷng thương yêu với môn đệ.

 

– Con đă đến, cuối cùng th́ con đă đến. Ta chờ đợi con cũng đă khá lâu rồi. Tôi ngẩng lên nh́n người một lát trước khi người ra hiệu cho tôi đứng dậy. Người có đôi mắt đen sáng ngời và biểu lộ rơ sựđiềm tĩnh, khuôn mặt rắn rỏi với những nét cương nghị nhưng đôn hậu, và một mái tóc uốn quăn thành từng lọn dài xuống tận hai vai, ḥa hợp với cḥm râu ngắn hơi vuốt nhọn xuống dưới cằm. Nhưđă biết nhau tự thuở nào, sư phụ nắm tay đưa tôi đi về một am thất ở khu Mahal của Bénarès. Dáng đi nhanh nhẹn với tấm lưng cao và thẳng đứng của người như không có chút dấu ấn nào của tuổi tác. Nh́n người bước đi, tôi có thể cảm nhận được những nét hài ḥa giữa sức mạnh và sự dịu dàng.

Khi chúng tôi đến một am thất nằm gần bờ sông Hằng, sư phụ nói với tôi bằng một giọng rất êm ái:

– Ta sẽ dành cho con tất cả t́nh thương và những ǵ thuộc về ta. Tôi đáp lời người một cách cung kính:

– Bạch sư phụ, con chỉ mong muốn được đi theo người để đạt đến chân lư giác ngộ. Tất cả những điều khác con không màng đến. Tuy chúng tôi không trao đổi ǵ nhiều với nhau, nhưng bóng chiều cũng đă nhanh chóng đổ xuống. Niềm vui của lần gặp gỡ kỳ diệu này đă khiến tôi cảm thấy thời gian nhưđang trôi qua quá nhanh. Sư phụ đưa tôi vào nhà. Chúng tôi cùng vào một căn pḥng nhỏ và ăn xoài với bánh ngọt. Người hỏi tôi một số việc, nhưng có vẻ như chỉ để trấn an tôi mà thôi, v́ tôi nhận thấy là người đă biết rơ những việc ấy trước khi tôi kịp nói ra. Người nói với tôi:

– Con đừng buồn về việc món linh phù đă không c̣n với con nữa. Nó đă hoàn tất sứ mạng cần thiết của nó và sẽ không ích ǵ nếu con c̣n giữ nó với con.

– Bạch thầy, sự gặp gỡ hôm nay với thầy là niềm vui sướng vô biên khiến cho con thấy không có ǵ phải quan tâm đến chuyện mất mát ấy nữa cả. Và tôi cũng nói ra một điều mà tôi nghĩ có lẽ sư phụ đă biết rơ:

– Bạch thầy, con cảm thấy không khí ở tu viện hiện nay con đang ở quá ngột ngạt. Có lẽ con rất cần phải thay đổi chỗở. Sư phụ nh́n tôi và mỉm cười, có vẻ như ngài đang chờ đợi tôi nói ra câu này:

– Có một nơi mà không khí sẽ không ngột ngạt đối với con chút nào. Đó là gia đ́nh con ở Calcutta. Hăy trở về với gia đ́nh. T́nh thương của con bao trùm hết thảy chúng sanh, vậy tại sao con lại loại trừ chính những người mà lẽ ra con phải thương yêu hơn hết? Tôi không thấy có ǵ không hợp lư trong lời nói của sư phụ. Tuy nhiên, ư tưởng về một kẻ ra đi thất bại quay trở về làm tôi không sao chịu đựng nổi. Những bức thư từ nhà gửi đến vẫn khẩn thiết van nài tôi quay trở về, nhưng tôi đă dửng dưng không hề nghĩ đến chuyện thay đổi ư định. Anh Ananta cuối cùng đă bực tức và tuyên bố: “Hăy để cho con chim non ấy tung bay khắp những vùng trời cao rộng mà nó c̣n khao khát. Rồi sẽ đến lúc nó phải mỏi mệt và quay về với tổấm gia đ́nh.” Trong đầu óc non nớt bốc đồng của tôi lúc ấy, tôi không cho đó là lời chân thật xuất phát từ t́nh cảm, mà cảm thấy như một lời khiêu khích, thách thức đầy gay cấn. V́ thế, tôi đă nhủ ḷng sẽ không bao giờ quay trở lại gia đ́nh. Phải mất nhiều năm sau tôi mới ư thức được đầy đủ những sai lầm trong suy nghĩ của ḿnh khi ấy.

– Bạch thầy, con không thể nào trở lại Calcutta. Con có thể theo thầy đi đến bất cứ nơi đâu, nhưng xin thầy đừng buộc con quay về với gia đ́nh. Xin thầy cho con biết đạo hiệu của thầy và nơi ở mà con có thể t́m đến.

– Ta tên là Śrī Yukteswar Giri. Tu viện chính của ta ở Serampore, đường Rai Ghat. Ta chỉ đến đây trong vài ngày để thăm mẹ.

Tôi thầm nghĩ những việc xảy ra ở đời quả là không sao lường trước. Serampore cách Calcutta chỉ không đến mười hai dặm đường. Vậy mà tôi đă phải chờ đợi đến tận bây giờ, và phải tại thánh địa Bénarès này mới có cuộc gặp gỡ quan trọng này. Bất chợt, tôi liên tưởng đến biết bao bậc hiền thánh của xứẤn Độ từ xưa kia, và ngay cả chính đức Phật cũng đều đă từng đặt chân lên thánh địa này. Sư phụŚrī Yukteswar nghiêm nét mặt và nh́n tôi, nói với vẻ thật nghiêm khắc:

– Con sẽ đến chỗ ta trong bốn tuần nữa, hăy nhớ lấy. Rồi người chậm răi nói tiếp:

– V́ ta đă bày tỏ ḷng thương yêu vô hạn dành cho con, nên đổi lại con đă căi lời ta. Nếu trong lần gặp gỡ sắp tới mà con vẫn không làm ta hài ḷng, ta không đảm bảo là sẽ thu nhận con. Ta rất nghiêm khắc trong việc nhận đệ tử, và tất cả đều phải tuyệt đối tuân theo những chỉ dẫn của ta. Người nhấn mạnh hai chữ “tuyệt đối”. Tôi thấy hơi lo ngại, nhưng vẫn kéo dài sự yên lặng. Sư phụŚrī Yukteswar hiểu được suy nghĩ của tôi thật dễ dàng. Người nói:

– Ḷng tự ái của con đă ngăn không cho con trở về với gia đ́nh, phải không? Con sợ sẽ bị mọi người chế giễu rằng đă học đạo không thành? Tôi không xác nhận sự thật ấy, chỉđáp lại với sự bướng bỉnh của một con ngựa non:

– Con sẽ không trở về nhà.

– Con phải trở về trong ba mươi ngày nữa. Người gằn giọng vào chữ “phải”, như một mệnh lệnh không chấp nhận sự chối từ. Nhưng tính hiếu

thắng của tôi không dễ bị đập tan như vậy. Tôi kính cẩn đáp lời ngài:

– Bạch sư phụ, không khi nào con trở vềđâu. Sau đó, tôi quỳ xuống từ biệt mà không nói thêm điều ǵ khác nữa. Khi bước ra khỏi am thất của thầy, tôi vẫn c̣n băn khoăn chưa sao hiểu nổi ư muốn của thầy khi nhất quyết buộc tôi phải trở về nhà. Và tôi lấy làm buồn bă khi không thể tuân theo lời dạy của thầy. Măi về sau này, tôi vẫn nhiều lần nhớ lại và vô cùng ân hận v́ chuyện ấy. Và mỗi lần như thế, tôi càng thêm kính phục sự hiểu biết sâu xa và tế nhị của thầy. Không những người dạy cho tôi về đạo hạnh mà c̣n là cách suy nghĩ hoàn thiện t́nh cảm con người nữa. Từ hôm sau đó, mối quan hệ giữa tôi với các bạn đồng tu trở nên căng thẳng đến mức không sao chịu nổi. Gần như ngày nào tôi cũng có ít nhất một hai lần đụng chạm với họ. Và ba tuần sau, khi sư trưởngDayānanda có việc phải đi Bombay, th́ mọi chuyện bùng nổ không cứu văn được nữa. Họ đưa ra lời chỉ trích cực kỳ xúc phạm đối với tôi:

– Mukunda chỉ là một kẻăn bám. Anh ta chẳng làm được ǵ mà cũng không hềđóng góp tiền ăn cho tu viện. Trong lúc bốc đồng, tôi thấy giận chính ḿnh v́ đă nghe lời sư trưởng gửi trả tiền về nhà. Sau đó, tôi quyết định là không thể nào kéo dài cuộc sống căng thẳng này lâu hơn được nữa. Tôi t́m đến chỗ Jitendra và nói:

– Jitandra, tôi sẽ rời khỏi đây. Anh vui ḷng chuyển lời từ biệt và cáo lỗi của tôi đến với sư trưởng khi người trở về. Jitandra giẫy nẩy lên khi nghe tôi nói:

– Tôi cũng sẽđi. Đây không phải là nơi chúng ta có thể thực hành công phu thiền định như mong muốn. Tôi liền nói với Jitandra:

– Tôi vừa gặp một vị minh sư. Tu viện của người ở tại Serampore. Chúng ta sẽ cùng đi đến đó. Và như vậy, con “chim non” lại tiếp tục vỗ cánh bay sang hướng đông, về gần Calcutta.

 

CHƯƠNG IX CHUYN ĐI BNG ĐỨC TIN

Vào thời điểm đó, anh Ananta đă chuyển từ Calcutta đến ở tại Agra, v́ anh làm chuyên viên kế toán tại đây cho công ty đường sắt Bengal-Nagpur. Tôi và Jitendra định ghé lại thăm anh trước khi đi đến tu viện ở Serampore. Mặc dù rất vui khi được gặp tôi, nhưng anh cũng không bỏ lỡ một cơ hội để lên lớp tôi về ư nghĩa cuộc đời. Anh nói:

 

– Mukunda, rồi em sẽ sống ra sao nếu không có phần gia tài của cha để lại? Em đă lăng phí cuộc đời ḿnh một cách hoàn toàn vô ích. Tôi không cần suy nghĩ, trả lời anh ngay:

– Em chỉ có một phần gia tài quư giá nhất là đức tin mà cha mẹđă hun đúc cho em từ thuở bé. Những thứ khác hoàn toàn chỉ là tạm bợ nên em không quan tâm đến.

– Em phải biết là tiền bạc bao giờ cũng cần đến trước nhất. Điều thực tế là đức tin chỉ được nói đến sau khi đă có đủ tiền bạc. Em hăy chờ đấy mà xem, cuộc đời c̣n dài mà. Tôi bất chợt ứng khẩu đáp ngay lời anh:

– Đức tin là trên hết, tiền bạc chỉ có giá trị khi người ta có đủ đức tin. Anh hăy chờ đấy mà xem, cuộc đời ngắn ngủi lắm. Tôi không ngờ rằng lời nói ấy có giá trị như một lời tiên tri, v́ chỉ có hai năm sau th́ Ananta đă từ giă cuộc đời để đến với một thế giới mà tiền bạc không giúp ǵ cho anh được nữa! Anh Ananta cười cầu ḥa khi thấy câu chuyện đă có vẻđi đến chỗ hơi căng thẳng. Anh t́m cách chuyển hướng sang một đề tài khác hơn:

– À, ra là thế. Nhưng em lại từ bỏ Bénarès có vẻ hơi sớm đấy. Nào, giờ th́ em đă định đi đến những đâu nữa đây, nhà tu sĩ?

– Không hẳn là thế. Thời gian ở Bénarès đă mang lại cho em những ǵ cần thiết. Giờ th́ Jitandra đang rủ em viếng đền Taj Mahal. Sau đó, cả hai chúng em sẽđi Serampore để đến tu viện của một vị đạo sư mà em vừa gặp được. Ngày chúng tôi vừa đến, anh Ananta sắp xếp đủ mọi thứ tiện nghi cho chúng tôi nghỉ lại. Tuy nhiên, thỉnh thoảng tôi bắt gặp anh nh́n tôi với ánh mắt khác thường. Tôi không biết là chuyện ǵ, nhưng dám chắc là anh đang toan tính trong ḷng điều ǵ đó khác thường. Hôm sau, khi chúng tôi cùng ăn điểm tâm, tôi hiểu ra điều đó. Trong khi lấy thức ăn cho tôi,

anh Ananta vờ như vô t́nh đặt một câu hỏi mà thật ra là cố nối tiếp vấn đề của ngày hôm trước:

– Như vậy là em nhất quyết không cần đến phần gia tài của cha để lại? Tôi đáp với giọng cương quyết, tỏ ra không có ǵ để phải suy nghĩ lại:

– Em cho rằng chỉ có đức tin là điều cần thiết nhất cho sự tồn tại tốt đẹp của một con người. Anh tôi bắt ngay vào vấn đề bằng một giọng điệu khích bác, tỏ rơ thâm ư anh đă chuẩn bị từ mấy ngày qua:

– Chỉ nói không thôi th́ quá dễ. Cuộc đời đầy dẫy những bất trắc sẽ chứng minh cho em thấy điều ngược lại. Nếu em rơi vào một t́nh huống cấp bách, lúc đó sẽ chỉ có tiền bạc cụ thể mới cứu được em chứ không phải là đức tin. Khi ấy chắc chắn em sẽ sẵn sàng quỳ xuống van xin bất cứ ai có thể giúp được em bằng những hành động cụ thể chứ không phải là những lời răn dạy thuyết giảng về đức tin.

– Không bao giờ. Không bao giờ em cần phải van xin ai khi có đủ đức tin. Chính đức tin sẽ giúp em an lành vượt qua mọi sự. Anh Ananta đi vào vấn đề chính mà tôi tin là anh đă sắp đặt sẵn trong ḷng từ trước:

– Điều em nói chỉ là lư thuyết. Nếu phải nhận một cuộc thách đố để chứng minh bằng thực tế, liệu em có dám không?

– Không có ǵ phải nghi ngờ cả. Em chấp nhận bất cứ h́nh thức thử thách nào đối với niềm tin này. Anh tôi bắt đầu tŕnh bày kế hoạch mà anh đă vạch sẵn:

– Được! Anh sẽ gửi em và Jatindra đến Brindaban, cũng gần đây thôi. Vé xe lửa lượt đi sẽ được mua sẵn cho các em, ngoài ra các em không được mang theo bất cứ tiền bạc hoặc tài sản giá trị nào. Các em không được xin ăn, xin tiền hoặc tiết lộ cuộc thử thách này cho bất cứ ai biết. Vấn đề anh cần biết ở đây là liệu chỉ với đức tin của ḿnh các em có thể được ăn uống no đủ, thăm viếng một vài nơi ở Brindaban và an toàn trở vềđây trước lúc nửa đêm hay không. Nếu các em làm được điều đó, anh tin chắc là sẽ không c̣n việc ǵ khác có thể làm cho anh ngạc nhiên hơn được nữa. Tôi đáp ngay không chút ngần ngại:

– Em bằng ḷng chấp nhận cuộc thử thách này. Trong một thoáng, tôi vụt nhớ lại tất cả những điều kỳ diệu đă xảy ra cho tôi chỉ nhờ vào đức tin vững chắc. Từ khi tôi thoát chết khỏi căn bệnh mà tất cả thầy thuốc đều đă bó tay, đến hai con diều giấy bắt được một cách lạ kỳ, món linh phù hiện ra trong tay tôi vào giây phút quyết định nhất, những lời động viên đúng lúc của các vị tôn sư, h́nh ảnh đức Phật mẫu Quán Thế Âm hiện ra với tôi, kỳ thi tốt nghiệp với kết quả không ngờ, và gần đây nhất là việc gặp gỡ trong cuộc đời thực vị sư phụ mà tôi nhiều lần nh́n thấy trong giấc mộng. Với tất cả những điều ấy, tôi không tin là đức tin của tôi giờ đây lại có thể dễ dàng sụp đổ trước bất cứ hoàn cảnh khắc nghiệt nào.

– Ư chí của em thật đáng khen. Anh tôi nói thế rồi quay sang Jitandra:

– C̣n em, dù muốn hay không cũng hăy đi theo Mukunda để làm người chứng, và cũng có thể sẽ là nạn nhân của đức tin đấy. Jitandra có vẻ kinh ngạc cực độ. Sự việc xảy ra quá nhanh đến nỗi dường như anh chưa kịp h́nh dung ra tất cả mọi chuyện sẽ phải diễn ra như thế nào theo các điều kiện của cuộc thử thách. Tuy nhiên, v́ không biết phải phản ứng thế nào, anh yên lặng chấp nhận. Chỉ trong nửa giờ sau, Jitandra và tôi đă có mặt tại nhà ga để đáp xe lửa đi Brindaban. Bất chấp lời cam kết của chúng tôi, anh Ananta muốn tự ḿnh chứng thực mọi việc, nên anh đưa hai chúng tôi vào một góc nhà ga và lục lọi kỹ lưỡng. Anh rất hài ḷng khi thấy quả là chúng tôi không mang theo ǵ, ngoài bộ y phục đang mặc trên người. Jitendra đến lúc này có lẽđă đủ thời gian để h́nh dung ra tính chất nghiêm trọng của sự việc, liền lên tiếng kêu ca với anh tôi:

– Ananta, ít nhất chúng tôi cũng phải có được vài đồng ru-bi dự pḥng, để khi gặp chuyện khẩn cấp có thể gọi điện thoại về nhà chứ? Không đợi anh Ananta trả lời, tôi quay sang nói với Jitendra bằng giọng nghiêm nghị:

– Tôi sẽ không nhận cuộc thách thức này nếu anh mang theo dù chỉ một xu. Jitendra cố xoay chuyển t́nh thế bằng cách quay sang thuyết phục tôi:

– Dù sao th́ có tiền trong túi vẫn làm cho tinh thần dễ an ổn hơn chứ.

Tôi không đáp lời, chỉ đưa mắt nh́n anh trách móc. Anh chàng liền im bặt. Khi ấy, anh Ananta nói với tôi bằng một giọng mềm dẻo hơn:

– Không phải là anh quá tàn nhẫn đối với em đâu, nhưng anh muốn làm rơ mọi chuyện một lần, c̣n hơn là để em suốt đời đeo đuổi măi những chuyện không đâu. Bằng như em có thể chứng tỏ được là em đúng, anh sẵn sàng nhận em làm thầy. Điều kiện lạ thường này của anh đưa ra quả là tương xứng với tính cách kỳ dị của cuộc thách thức. Bởi v́ theo phong tục Ấn Độ, người anh cả có uy quyền rất lớn trong một gia đ́nh, và không bao giờ chịu nhún ḿnh với các em trong bất cứ lănh vực nào. Nếu anh tôi chịu nhận tôi làm thầy, có lẽđây sẽ là trường hợp có một không hai ở xứ này! Xe lửa bắt đầu lăn bánh và khuôn mặt của Jitendra có vẻ như ngày càng nghiêm trọng. Sau cùng, anh ta không dằn ḷng được nữa và quay sang ghé vào tai tôi nói nhỏ:

– Tôi e là lát nữa chúng ta không thể dọn đức tin lên bàn ăn được rồi. Tôi thản nhiên:

– Anh hăy yên tâm, việc ǵ đến sẽ phải đến.

– Dù sao đi nữa, tôi cũng không thể hoàn toàn yên tâm với cái đức tin vô h́nh của anh. Tôi muốn đi thăm viếng đền Taj Mahal chứ không muốn đến nằm lại vĩnh viễn trong các lăng tẩm ấy v́ chết đói.

– Hăy vui lên đi, Jatindra, và đừng nói nhảm như thế. Anh không thấy là chúng ta đang có diễm phúc được viếng thăm thành phố Brindaban, một thánh

địa đă từng có dấu chân của ngài Śrī Krishna đó sao? Khi xe ngừng ở một ga nhỏ, có hai người khách mới lên và bước vào ngồi chung toa với chúng tôi, nơi băng ghế đối diện. Chỉ c̣n một ga nữa là chúng tôi đến nơi. Ngồi yên được một lát, một trong hai người khách gợi chuyện hỏi chúng tôi về đời sống trong tu viện. Ông ta có người em trai sắp vào sống trong một tu viện, và muốn đảm bảo là hiểu biết được ít nhiều về nơi mà em ḿnh sắp đến. Chúng tôi rất lấy làm vui vẻ mà trao đổi với ông về những nội quy, luật lệ thông thường trong một tu viện. Dù sao, cũng là việc nên làm để khuyến khích một người theo đời sống xuất gia. Hai người khách lấy làm vui mừng và ngạc nhiên khi được biết chúng tôi mặc dù c̣n khá trẻ nhưng đă thực sự nếm trải qua đời sống khắc khổ trong một tu viện tại Bénarès. Khi câu chuyện đă khá thân mật và lan sang một số đề tài khác, một người hỏi tôi:

– Các vị đến Brindaban để làm ǵ? Các vị có ai quen ởđó chăng? Tôi đă hứa với Ananta là không tiết lộ cuộc thách thức cho bất cứ ai biết, nhưng tôi không thể nói dối trong bất cứ trường hợp nào. V́ thế, tôi t́m cách để nói đúng sự thật mà không phạm vào điều đă hứa:

– Chúng tôi đến đó như khách hành hương, v́ đă từng nghe tiếng về những thánh tích nơi ấy. Thật ra mà nói, chúng tôi không quen ai ởđó cả. Jitandra ngầm tỏ vẻ hết sức khâm phục câu trả lời của tôi. Và anh ta càng khâm phục hơn nữa khi nghe

một trong hai người khách đưa ra câu nói mà anh nôn nao chờđợi:

– Thật là quư hóa. Chính tôi đang có việc đến thăm người quen ở gần một nơi thánh tích của Brindaban. Chúng tôi sẽ rất hân hạnh nếu được cùng đi thêm với quư vị một đoạn đường trước khi chia tay. Sự niềm nở và chân thật của hai người khách khiến cho chúng tôi không thể nào từ chối. Vả lại, chúng tôi c̣n chờ đợi ǵ hơn thế nữa kia chứ? Khi xuống ga xe lửa, hai người hành khách nắm tay chúng tôi cùng bước ra khỏi sân ga và gọi một chiếc xe ngựa. Họ hướng dẫn xe đi về một khu phố sầm uất, quanh quẹo qua rất nhiều đường phố và cuối cùng dừng lại trước một ṭa nhà lớn có khoảng sân trước rất rộng với những cây cao che rợp bóng mát. Chủ nhà tiếp đón rất nồng hậu v́ là người quen thân với hai người bạn mới của chúng tôi. Sau câu chuyện chào hỏi ngắn ngủi, chúng tôi bắt đầu cảm thấy gần gũi với nhau ngay v́ những quan điểm khá giống nhau khi bàn về cuộc sống. Không bao lâu đă thấy gia nhân trong nhà chuẩn bị xong và dọn lên một bàn tiệc hết sức thịnh soạn. Chúng tôi được mời thưởng thức những món đặc sản ngon nhất của thành phố, v́ chủ nhà vốn đă có dự tính đón tiếp những người bạn từ xa đến, nên cũng muốn nhân dịp này giới thiệu với chúng tôi những ǵ tốt đẹp nhất của thành phố này. Sau bữa ăn, chúng tôi được mời đi dạo ở hoa viên sau nhà, có trồng nhiều loại hoa thơm và đẹp đẽ. Trong hoa viên c̣n có cả một hồ sen rộng với cảnh trí yên tĩnh rất thích hợp cho việc tọa thiền. Trong

khi đi dạo, tôi nhân lúc thuận tiện liền kề tai Jitendra nói nhỏ: “Này bạn, bữa ăn bằng đức tin cũng khá ngon đấy chứ.”Jitendra chỉ nh́n tôi cười không nói, nhưng tôi biết anh đang tự trách v́ sự thiếu kém đức tin của chính ḿnh. Nghỉ ngơi trong chừng một tiếng đồng hồ, chúng tôi được chủ nhà mời cùng dự chuyến tham quan các thánh tích trong thành phố. Chúng tôi đi bằng xe ngựa và ghé vào nơi nào cũng được đón tiếp rất niềm nở, v́ chủ nhà vốn là một bậc danh gia vọng tộc nổi tiếng trong thành phố. Đến chiều, sau khi đă hết ḷng cầm giữ chúng tôi nhưng không được, chủ nhà liền đích thân đưa chúng tôi ra ga xe lửa và lấy sẵn hai vé hạng nhất để chúng tôi trở về Agra. Khi chúng tôi đă ngồi yên trên toa xe lửa, Jitendra mới quay sang nói với tôi:

– Mukunda, tôi quả thật chưa có được một đức tin vững vàng như anh. Nhưng qua kinh nghiệm lần này, tôi nghĩ là ḿnh đă thay đổi rất nhiều. Tuy không nói ra, nhưng trong ḷng tôi thầm nghĩ:

– Thật ra th́ tôi cũng không hoàn toàn vững vàng như anh tưởng đâu. Bởi v́ cũng đă có lúc tôi thấy lo sợ trong ḷng. Nhưng cũng may là đức tin cuối cùng đă chiến thắng. Và chính kinh nghiệm lần này đă củng cốthêm đức tin cho tôi nữa chứ chẳng riêng ǵ anh. Và tôi nghĩ không cần thiết phải nói ra với Jitindra những suy nghĩấy. Anh có vẻđang rất hân hoan nghĩ đến lúc gặp lại anh Ananta. Chúng tôi thong thả cuốc bộ từ nhà ga về và gọi cửa nhà anh Ananta trước lúc nửa đêm. Khi vừa nh́n

thấy chúng tôi, khuôn mặt anh lộ rơ vẻ kinh ngạc. Anh nh́n chằm chằm vào Jitindra và hỏi:

– Jitindra, em hăy nói sự thật. Các em đă đi đến đó và trở về như thế nào? Làm thế nào các em được ăn uống và có tiền mua vé xe lửa? Các em không gặp bất cứ người quen cũ nào để xin tiền đấy chứ? Anh nôn nóng đưa ra hàng loạt câu hỏi giật giọng, không kịp để cho chúng tôi nghỉ ngơi chốc lát sau một chặng đường dài và cả một ngày đi xa. Chúng tôi lặng lẽ vào pḥng khách, ngồi xuống ghế nệm trước khiJitendra lên tiếng trả lời anh:

– Xem nào, anh Ananta. Ít nhất anh cũng nên tỏ ra yên ḷng khi thấy chúng tôi đă an toàn về đến nơi như thế này chứ. Anh xem chúng tôi có vẻ ǵ là đă nhịn đói suốt ngày nay chăng? C̣n việc gặp người quen cũ, anh đừng lo. Chúng tôi đă không gặp ai, nhưng dù có gặp cũng không thể có chuyện xin tiền. Anh biết tínhMukunda rơ hơn tôi mà. Anh Ananta sau một lúc khích động đă lấy lại được b́nh tĩnh và nhận ra sự thật để chấp nhận. Anh liền đi lấy nước và một ít thức ăn nhẹ cho chúng tôi. Sau đó, không khí trở nên đầm ấm hơn khi cả ba chúng tôi cùng ngồi với nhau. Jitendra lúc ấy mới nói một cách trịnh trọng:

– Với tư cách một người chứng và cũng là người trực tiếp tham gia, tôi tuyên bố Mukunda đă thắng cuộc thách thức này. Chúng tôi đă hoàn tất chuyến đi thành phố Brindaban, ăn một bữa trưa thịnh soạn ngon nhất thành phố, tham quan hầu hết các thánh tích bằng xe ngựa, và đi xe lửa vé hạng nhất trở về đây. Tất cả những điều ấy đều được thực hiện hoàn

toàn bằng vào đức tin, v́ chúng tôi không có mang theo đồng bạc nào, như anh đă biết. Anh Ananta sửng người ra nh́n chúng tôi như những sinh vật kỳ dị nhất mà anh chưa từng được gặp. Khi đă lấy lại tinh thần, anh yêu cầu Jitendra kể lại chi tiết cụ thể về chuyến đi. Sau khi kể lại mọi việc cho anh nghe xong, Jitendra kết luận:

– Không chỉ có riêng anh, mà chính tôi cũng đă không có đủ đức tin khi khởi sự chuyến đi này. Nhưng bây giờ th́ mọi chuyện đă khác, tôi hoàn toàn tin tưởng là người ta có thể dựa vào đức tin như một sức mạnh rất cụ thể, không mơ hồ chút nào. Anh Ananta quay sang tôi, nghiêm nét mặt:

– Munkunda, không phải chỉ là chuyện thắng hay thua một lời thách thức. Anh đă sai rồi. Và anh thành thật xin em hăy thu nhận anh làm người học tṛ đầu tiên để dẫn dắt anh bằng đức tin của em. Và trước hết, hăy truyền cho anh pháp môn thiền định mà em đang theo đuổi. Tôi không từ chối. Hơn nữa, đó cũng là một trong những điều kiện mà tôi đă chấp nhận với anh khi bắt đầu cuộc thách thức. Chúng tôi làm lễ nhập môn với h́nh thức đơn sơ nhưng không kém trang nghiêm ngay trong đêm ấy. Và tôi chỉ dạy cho anh những điều cơ bản về phép tọa thiền mà lẽ ra anh đă có thể học được nơi cha mẹ từ trước đây nếu như anh có đủ đức tin. Buổi sáng, chúng tôi cùng ăn điểm tâm trong một không khí ḥa hợp, cởi mở chưa từng có. Sau đó, tôi

định sẽ lên đường ngay đi Serampore để đến tu viện của thầy Śrī Yukteswar. Jitendra thấy nhớ nhà và muốn về thăm. V́ thế, chúng tôi chia tay nhau ở Calcutta. Từđó, tôi đáp xe lửa đi qua 12 dặm nữa về phía bắc để đến Serampore. Khi đang đứng chờ trước cổng tu viện ở đường Rai Ghat sau khi đă nhờ một vị sư huynh đi thông báo cùng thầy, tôi bất chợt nhớ ra và nhẩm tính lại. Hôm nay đúng là ngày thứ 28 kể từ hôm tôi gặp thầy Śrī Yukteswarở Bénarès. Và thầy đă nói với tôi vào hôm đó rằng: “Con sẽ đến chỗ ta trong bốn tuần nữa.” Một niềm vui dâng lên trong ḷng tôi. Trải qua bao năm đợi chờ và t́m kiếm, cuối cùng th́ tôi cũng đă gặp được bậc minh sư như mong muốn. Và chính tại nơi đây, trong tu viện êm ả của người, tôi sẽ trải qua mười năm tốt đẹp nhất của đời ḿnh và chuẩn bị những hành trang tinh thần cần thiết để về sau có thể thực hiện sứ mệnh thiêng liêng là truyền bá pháp thiền của Phật giáo sang nước Mỹ.

 

CHƯƠNG X CUC SNG TU VIN

Thầy Śrī Yukteswar ngồi trên một tấm thảm trải dưới sàn pḥng khách. Khi tôi được đưa đến gặp thầy, khuôn mặt thầy rất thản nhiên không biểu lộ cảm xúc ǵ. Tôi cúi chào, lễ bái thầy theo nghi thức thầy tṛ, rồi kính cẩn thưa:

 

 

– Bạch thầy, con đến để xin được làm đệ tử thầy.

– Hoặc là ta không xứng đáng, hoặc là con không xứng đáng, v́ con đă căi lời ta. Nếu một người có đủ trí sáng suốt để căi lời ai đó, th́ người kia không xứng đáng để làm thầy. C̣n nếu như không đủ sáng suốt mà dám căi lời thầy, th́ người như thế chưa đủ tư cách làm đệ tử.

– Bạch thầy, con đă sai. Đây là lần đầu tiên con học được điều đó nơi thầy. Từ nay con sẽ không bao giờ như thế nữa. Con sẽ tuyệt đối vâng theo lời dạy của thầy.

– Như vậy th́ được. Từ nay ta sẽ chịu trách nhiệm tinh thần về cuộc đời của con.

– Và con cũng xin đặt tương lai con hoàn toàn trong tay người. Buổi lễ nhập môn đă có thể tiến hành. Thầy Yukteswar xác định lại lời tôi đă hứa một cách rất thiết thực:

– Việc trước tiên ta muốn con làm là hăy trở về với gia đ́nh ở Calcutta. Con phải vào trường để tiếp tục học lên cho xong đại học. Tôi nhận lời không ngần ngại:

– Bạch thầy, con xin nghe theo lời dạy của thầy. Nhưng tự trong ḷng tôi dấy lên một mối hoài nghi, chán nản. Những kiến thức mà tôi không chút đam mê kia sẽ theo tôi đến suốt cuộc đời này sao? V́ sao cha tôi muốn như vậy, rồi giờđây thầy tôi cũng vậy? Nhưng thầy tôi đọc thấu mọi suy nghĩấy. Ông ôn tồn giải thích để làm tan đi mối nghi trong ḷng tôi:

– Ngày sau, sứ mệnh của con là truyền bá chánh pháp sang phương Tây. Sứ mệnh ấy sẽ được thực hiện một cách tốt đẹp và dễ dàng hơn nhiều nếu như con đă có được một mảnh bằng đại học. V́ thế, thầy hy vọng là ngày nay con không nên dễ dăi với chính ḿnh.

– Bạch thầy, thầy có thể nh́n xa hiểu rộng hơn con. Con không có lư do ǵ để không vâng theo lời thầy. Và quả thật là ḷng tôi không c̣n phân vân ǵ. Hơn nữa, lúc này tôi thật tâm muốn làm vui ḷng thầy. Kể từđây, xem như nguyện vọng lớn nhất đời của tôi đă được thực hiện. Tôi đă t́m được một nơi nương tựa tinh thần vững chắc, một ngọn đèn sáng dẫn dắt tôi trong đêm tối trần gian. Tôi nghĩ là mẹ tôi cũng rất vui khi biết rằng những lời dự báo về tương lai của tôi, mà bà đă được nghe từ thuở mới lọt ḷng, giờđây đang dần dần trở thành hiện thực. Thầy tôi đứng dậy, vẫy tay bảo tôi đi theo người. Ông muốn đưa tôi đi thăm qua toàn cảnh tu viện, nơi tôi sẽ gắn bó cuộc đời ḿnh kể từđây. Ngay khi ấy, tôi chợt nh́n thấy trên bức vách phía trong, được treo ở một vị trí trang trọng trong một khung gỗ chạm trổ tinh vi đẹp đẽ là một bức chân

dung vô cùng quen thuộc và tôn kính đối với tôi, thầy Lahiri Mahāsaya ở Bénarès. Tôi buột miệng gọi tên thầy:

– Thầy Lahiri Mahāsaya.

– Đúng vậy, ngài là sư phụ của ta. Bậc tôn sư cao cả nhất mà ta đă từng được biết. Tôi từ từ đến trước bức chân dung và thành kính chiêm ngưỡng một lúc lâu. Tôi nhớ lại sự che chở mà ngài đă dành cho tôi trong suốt thời gian qua, và giờđây, ân huệ lớn nhất mà ngài tiếp tục ban phát cho tôi là đă đưa tôi đến với một trong những đệ tử cao quư của ngài. Như vậy, sư phụ tôi cũng là bạn đồng sư với cha tôi. Sau này tôi mới biết hai người đều hiểu nhau sâu sắc. Vậy mà phải chờ đến khi trải qua bao nhiêu là cố gắng tôi mới có thể tự ḿnh t́m được đến dưới chân người. Chuyện nhân duyên đưa đẩy quả là việc không thể nào đoán trước được đối với những kẻ c̣n trong ṿng phàm tục. Sư phụ đưa tôi đi một ṿng quanh tu viện. Đó là một ṭa kiến trúc hai tầng theo lối cổ trông rất chắc chắn. Bao quanh là những khoảng sân rộng với cây rợp bóng mát. Có lẽ được xây dựng đă từ khá lâu nên những bức vách đều đă phủ rêu xanh bên ngoài. Xa về phía sau là vườn cây ăn trái khá rộng, trồng nhiều loại cây và có cả các loài hoa quư nữa. Trên tầng trên có lan can vây quanh ba phía, cho thấy có một khoảng sân thượng bên trên để từđó người ta dạo chơi và nh́n ra chung quanh. Giảng đường là một căn pḥng rộng nằm ở tầng dưới. Từđó, có cầu thang dẫn lên pḥng khách của

sư phụở tầng trên, có sân thượng nh́n ra hướng con đường lớn. Vật dụng trong nhà như bàn ghế, giường tủ... khá đầy đủ, tiện nghi. Hầu như tất cả đều được làm bằng gỗ quư, trông giản dị nhưng chắc chắn và sạch bóng. Buổi cơm chiều khá đơn giản, với đậu xào và một ít rau luộc. Tôi được biết có hai đệ tử được giao cho việc chợ búa, bếp núc và các công việc nội bộ linh tinh khác của tu viện. Sau bữa ăn, chúng tôi cùng ra ngồi hóng mát trên sân thượng, trên một tấm chiếu trải gần ngoài lan can. Tôi thưa với sư phụ:

– Bạch thầy, xin thầy kể cho con nghe qua về cuộc đời thầy. Sư phụ cười thật thoải mái:

– Cuộc đời ta chẳng có ǵ để lưu tâm, v́ nó sẽ chẳng có điểm nào để con phải ghi vào sử sách. Tất cả đều giản dị, b́nh thường, không khác mấy với bao nhiêu người mà con đă gặp. Tên ta lúc trước là Priya Nath Karar. Ta sinh ra cũng tại Serampore này. Cha ta là một nhà buôn lớn và rất thành công. Ông để lại cho ta một di sản đồ sộ. Mặc dù ta không quan tâm nhiều đến của cải, nhưng chính tu viện này cũng là cơ ngơi người đă gầy dựng và để lại cho ta, nên ta khỏi phải nhờ đến sự giúp đỡ của bất kỳ ai khác. Cũng như con, ta vốn không thích sự học tập ở nhà trường, v́ ta cho rằng những kiến thức ởđó rất nông cạn. Khi lớn lên, ta đă lập gia đ́nh và có một con gái, hiện nay đă có gia đ́nh. Khi đă luống tuổi ta mới được gặp thầy Lahiri Mahāsaya ở Bénarès và

theo học với người. Nhưng phải đến khi vợ ta qua đời, ta mới chính thức xuất gia, lấy pháp danh là Śrī Yukteswar. Thếđó, chuyện về đời ta chỉ đơn giản có thế thôi! Tôi chăm chú lắng nghe, và biết thầy chỉ mới nói qua về những sự kiện b́nh thường. Điều quan trọng hơn trong cuộc đời của một vị tôn sư là những kinh nghiệm tâm linh và quá tŕnh rèn luyện, những điều ấy hoàn toàn chưa được người nhắc đến. Nhưng người đă im lặng. Và tôi cũng im lặng ngồi bên cạnh người, không hỏi ǵ thêm nữa. Chúng tôi cùng ngồi ngắm những v́ sao sáng rực trong đêm trong trẻo của vùng nhiệt đới. Như hai người bạn tri kỷđă lâu lắm chưa từng có dịp gặp nhau, chỉ cần được ở bên nhau trong im lặng cũng đă cảm thấy những mối giao t́nh xưa bừng lên mănh liệt trong ḷng, tôi và thầy tôi đă lặng lẽở bên nhau như thế cho đến tận nửa đêm. Đêm hôm đó là một đêm êm đềm và hạnh phúc nhất trong cuộc đời tôi kể từ khi mất mẹ, mặc dù tôi thực sự không chợp mắt chút nào. Sau khi gặp sư phụ, tôi đă t́m lại được cảm giác yên ổn, được che chở, giống như những ngày ấu thơ quấn quít bên mẹ tôi. Sáng hôm sau, thầy tổ chức lễ nhập môn để chính thức thu nhận tôi làm đệ tử và truyền thụ phép tọa thiền cho tôi. Trước kia, tôi đă từng được học môn này từ mẹ tôi, và sau đó c̣n có sự hướng dẫn của rất nhiều người, như cha tôi và một số đệ tử khác của thầy Lahiri Mahāsaya. Giờđây, sư phụ chỉ cần trắc nghiệm lại những kiến thức và kinh nghiệm của tôi, đồng thời giải đáp những điểm c̣n nghi ngờ.

Điều khác biệt lớn nhất khi tôi thọ giáo với sư phụ lần này so với những lần khác là ḷng tin tưởng tuyệt đối. Tôi đặt hết niềm tin vào thầy, và cũng tự tin nhiều hơn so với trước kia. Và với tâm trạng ấy, những kiến thức đă học cũng như những điều thầy mới truyền dạy dường như đều tự chúng tỏa sáng trong tôi một cách rơ ràng, minh bạch. Tôi tiếp thu rất nhanh và đạt được những kinh nghiệm tâm linh mà những bạn đồng tu của tôi không sao bắt kịp. Nhưng sư phụ tôi không cho phép tôi ở lại lâu bên người. Người nhắc lại lời đă nói, và bảo tôi trở về nhà ởCalcutta để tiếp tục theo đuổi việc học. Bây giờ th́ tôi vui vẻ thực hiện điều đó như một phần trong nỗ lực tu tập của ḿnh mà không tránh né nữa. Khi đưa tôi ra cổng tu viện, thầy nói với tôi:

 Con sẽ trở lại đây trong ba mươi ngày nữa. Và tôi hân hoan trở về nhà. Không giống như những lần trốn đi lên Hy Mă Lạp Sơn thất bại phải quay về, lần này tôi đă t́m được con đường sáng để noi theo mà không cần phải lên tận đỉnh núi cao ngàn đời tuyết phủ kia. Cả gia đ́nh đều hết sức vui mừng trước sự trở về của tôi. Nhất là cha tôi càng vui sướng hơn khi biết tôi quyết định sẽ tiếp tục theo đuổi việc học lên đại học. Ông nói với tôi vào một buổi chiều khi chúng tôi cùng ngồi chơi ngoài sân sau bữa cơm:

 Mukunda, cha rất lấy làm sung sướng và hănh diện về con. Con đă gặp được sư phụ trong một hoàn cảnh nhiệm mầu kỳ diệu cũng giống như cha ngày trước. Và cha rất vui khi thấy rơ là thầy Lahiri Mahāsayavẫn che chở cho cả gia đ́nh ta trong từng

 

giây từng phút. Ta đă hết ḷng cầu nguyện và giờ đây mong ước của ta được đáp ứng. Con không cần phải bỏ ta ra đi để t́m thầy học đạo. Sư phụ con sẽ đáp ứng cho con mọi sự hướng dẫn cần thiết trên đường tu tập mà không cần phải lên tận đỉnh Hy Mă Lạp Sơn xa xôi kia nữa. Qua hôm sau, cha tôi đă lo xong mọi thủ tục và tôi ghi tên vào học trường Đại học Calcutta. Đường từ Calcutta đến Serampore không xa lắm, nên mặc dù theo đuổi việc học, tôi vẫn thường xuyên đến ở tu viện nhiều hơn thời gian ở nhà. Cả cha tôi và thầy tôi đều không ngăn cản điều đó. Các vị có vẻ như để cho tôi được tự do chọn lựa trong việc này. Và mặc dù không ham thích việc học, tôi cũng cố gắng hoàn thành mỗi môn học không dưới mức trung b́nh. Những ngày ở lại tu viện là những ngày êm ả nhất đối với tôi. Tôi học theo nếp sống giản dị và điều độ của thầy, và điều đó đă tạo thành những nề nếp tốt đẹp giúp cho tôi có đủ sức chịu đựng trong cuộc sống bôn ba vất vả về sau này. Sư phụ tôi luôn luôn dậy sớm, trước lúc b́nh minh. Thầy ngồi tĩnh tọa ngay trên giường cho đến khi ánh sáng ban mai bắt đầu hiện rơ. Sau đó, thầy tṛ tôi cùng đi bách bộ một ṿng ra bờ sông Hằng, con sông thiêng liêng tự ngàn đời của xứẤn. Khi mặt trời bắt đầu lố dạng, những tia nắng đầu tiên làm ấm lên mặt sông c̣n đang phủ sương mờ, tôi cảm thấy tâm hồn ḿnh như trải rộng ra đến tận những cơi xa mờ không bờ bến.

Trong những lần đi bên nhau như thế, chúng tôi thường trao đổi về một vài đề tài mà tôi đang nghiền ngẫm. Sư phụ luôn đưa ra cho tôi những chỉ dẫn sáng suốt và thích hợp. Nhiều lần, người làm tôi kinh ngạc cả về những kiến thức đối với các môn học ở trường đại học của tôi. Tôi vẫn tưởng người đă nói là không thích việc học tập ở trường và sẽ không có được bao nhiêu kiến thức về những lănh vực ấy. Khi tôi nói thật với thầy về suy nghĩ này, người mỉm cười nói:

 

– Không thích không có nghĩa là không biết. Đôi khi người ta vẫn phải học biết những điều ḿnh không thích, chỉ để có thể làm tốt hơn những điều ḿnh thích. Hơn nữa, ta đă nói rằng những kiến thức ấy là nông cạn. Con có thể nào không hiểu được những điều nông cạn và lại giỏi về những điều sâu sắc hay sao? Cách giải thích của sư phụ làm cho tôi chợt hiểu ra sự nông cạn của chính ḿnh. Từđó, tôi không bao giờ lơ là trong việc học tập ở trường đại học nữa. Chúng tôi ăn điểm tâm qua loa sau khi đi dạo về. Và những công việc chấp tác trong tu viện được phân công cho từng người rất rơ ràng, hợp lư. Sư phụ giao công việc và trách nhiệm cho từng huynh đệ, nên chẳng mấy khi sư phụ phải để tâm đến, trừ ra có những trường hợp đặc biệt cần phải có ư kiến của người. Cơm ở tu viện bao giờ cũng là cơm chay,16 ngay cả không được dùng đến món trứng. Bữa cơm trưa tuy có phần thịnh soạn hơn bữa sáng, nhưng vẫn rất đơn giản, không cầu kỳ. Thường là các món rau đậu và

ngũ cốc chế biến. Sư phụ rất quan tâm đến việc ăn uống của các đệ tử, người chỉ dạy những phương thức ăn uống sao cho vừa giản dị vừa phải đảm bảo có đầy đủ dinh dưỡng, và không chạy theo sự ngon miệng. Vào buổi chiều thường có nhiều người đến viếng thăm tu viện. Nh́n sư phụ tiếp khách mới thấy rơ được sự b́nh dị và lịch thiệp của người. Không bao giờ sư phụ tỏ ra vẻ ḿnh là người hiểu biết hoặc cao thượng hơn người khác. Ngược lại, với những kẻỷ vào quyền thế hoặc địa vị xă hội, người vẫn đối xử với họ một cách b́nh thường không hề tỏ ra trọng vọng hoặc sợ sệt. Trong việc luận bàn đạo lư, sư phụ luôn luôn biết chú ư lắng nghe người khác, nhưng không bao giờ để cho định kiến về một người chi phối đến khả năng phán đoán của ḿnh. Có lần, sư phụ bảo tôi: “Chân lư có thể được nói ra từ miệng một đứa bé, và khi ấy vẫn cần phải nghe theo. Nhưng một học giả uyên bác cũng có khi chỉ nói ra những điều tự phụ kiêu căng và xa rời chân lư.” Buổi cơm chiều rất thường khi có khách cùng ăn. Đôi khi, có những vị khách đến bất ngờ không báo trước, nhưng sư phụ bao giờ cũng khéo léo trong việc tiếp đăi. Trong sinh hoạt của tu viện, sư phụ chủ trương tiết kiệm nhưng không hà tiện. Người dạy: “Vật chất của cải là những thứ hư dối tạm bợ. Nó không xứng đáng để chúng ta tham tiếc, ǵn giữ. Nhưng nếu kẻ nào tiêu pha một cách phung phí, kẻ ấy đă xúc phạm và tỏ ra không hề có sự cảm thông

chia sẻ với những đồng loại của ḿnh c̣n đang đói khổ.” Những buổi giảng của sư phụ thực sự thu hút hoàn toàn tâm trí của chúng tôi, v́ người nói bằng kinh nghiệm tâm linh thực sự của ḿnh chứ không phải chỉ đọc lên từ kinh điển. Hơn thế nữa, mỗi khi tŕnh bày một vấn đề, sư phụ luôn đọc được suy nghĩ, nhận thức của chúng tôi về vấn đề ấy, nên người có thể chọn những cách diễn đạt hoàn toàn thích hợp để chúng tôi tiếp thu một cách dễ dàng. Sư phụ cũng không cố chấp vào giờ giấc sinh hoạt của bản thân ḿnh như một số vị tôn sư vẫn thường làm. Mặc dù người luôn tuân thủ sựđiều độ và đúng giờ, nhưng mỗi khi có người cần trao đổi học hỏi nơi sư phụ vào những giờ mà ngài sắp sửa tọa thiền, ngài luôn thản nhiên bỏ qua và vui vẻ tiếp tục cuộc nói chuyện. Đối với sư phụ, việc dẫn dắt những người học đạo cũng quan trọng không kém công phu tu tập của chính bản thân ḿnh. Ngài dạy: “Nếu v́ có lợi cho việc tu tập của ḿnh mà khước từ một tâm hồn non nớt vừa t́m đến, th́ người ấy chưa thật sự hiểu được ư nghĩa của giải thoát.” Một buổi chiều, tôi đang ngồi chơi bên cạnh sư phụ th́ có một con muỗi từđâu vo ve bay đến, đậu lên đùi tôi. Tôi đưa tay lên định đập xuống, nhưng rồi nghĩ đến giới sát sanh và liền chuyển sang hất nhẹ, đuổi nó đi. Thầy hỏi tôi:

 

– Sao con không giết nó?

 

– Bạch thầy, con nghĩ là không nên sát hại sinh vật.

 

– Nhưng con đă phạm giới trong tư tưởng của con rồi.

Và thầy nói tiếp:

– Người ta phải dứt trừ ngay cả đến những ư định giết chóc. Nhân dịp này, trong trí tôi liền nảy ra một vấn đề mà từ lâu tôi vẫn băn khoăn chưa hiểu rơ:

 

– Bạch thầy, như vậy ta có nên hy sinh mạng sống của ḿnh để tránh khỏi phải giết chết một con thú dữ hay chăng?

 

– Không. Sư phụ trả lời dứt khoát, và tôi hết sức kinh ngạc v́ thầy đă nói khác với nhiều vị tôn sư khác khi được tôi hỏi vềđiều này. Sư phụ ôn tồn giải thích:

 

– Trong trường hợp đó, con đă phạm giới v́ giết hại chính ḿnh. Và mạng người là rất quan trọng. Trong ṿng luân hồi, việc có được thân người cũng là rất khó, v́ chỉ có thân người mới giúp ta dễ dàng tu chứng và giác ngộ. Trong trường hợp bắt buộc phải lựa chọn th́ giết một con người là phạm tội nặng nề hơn nhiều so với giết một con vật. Nhưng đó không phải là giải pháp tốt đẹp nhất. Tôi đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác:

 

– Bạch thầy, như vậy phải làm sao với con thú dữ ấy?

 

– Hăy khuất phục nó. Nếu có ḷng từ bi, người ta sẽ khuất phục được thú dữ. Lời dạy ấy về sau được minh chứng qua một câu chuyện tôi được nghe từ sư huynh Prafulla, người đă tận mắt chứng kiến và kể lại. Lần ấy, sư phụđang đến thăm một tu viện khác của người ở Puri. Khu vực này tọa lạc gần bờ biển vịnhBengal, với khung cảnh thơ mộng và xanh tươi

v́ có rất nhiều cây cối. Vào buổi chiều, sư huynh Prafullavừa từ trong ṭa nhà chính bước ra th́ kinh hoàng khi nh́n thấy một con rắn hổ mang thật lớn đang ngóc cao đầu lừ lừ tiến về phía sư phụ, đang đứng bên một khóm hoa cách đó chừng ba mét. Sư huynh vừa định kêu to lên để báo động, th́ vừa kịp nhận ra là sư phụđă thấy con rắn v́ người đang ngẩng đầu lên và quay về phía nó. Con rắn vẫn chậm chạp ḅ đến. Sư phụ không tỏ vẻ ǵ là hốt hoảng hoặc sợ hăi. Người vẫn thản nhiên đứng đó và nh́n nó bằng ánh mắt sáng với vẻ hiền ḥa. Ánh mắt ấy như nói với con rắn độc rằng người sẽ chẳng bao giờ làm hại nó. Chỉ c̣n cách chừng nửa mét, con rắn bỗng nhiên từ từ hạ thấp đầu xuống, trườn nhanh đến sát chân người, cạ đầu vào mấy cái rồi phóng nhanh mất dạng vào vườn cây! Một buổi trưa, sư phụ bỗng nh́n tôi chăm chú và nói:

– Mukunda, con gầy quá. Sự quan tâm của thầy làm tôi xúc động. Tôi quả thật đă dùng rất nhiều loại thuốc bổ và các loại thức ăn giàu dinh dưỡng, nhưng chứng đau bao tử kinh niên đă tác động như một thứ ṛ rỉ từ nội tạng, và tôi chưa bao giờ có thể lên cân hoặc cảm thấy thực sự khỏe mạnh. Tôi nói rơ với thầy vềđiều đó. Sư phụ bảo tôi:

 

– Thuốc men cũng là một nhân tố tốt. Nhưng nếu đó là một căn bệnh xuất phát từ nghiệp quả th́ thuốc men không phải là phương thức chữa trị hữu hiệu.

Những ǵ thuộc về tinh thần phải được giải quyết bằng tinh thần. Dừng lại một chút, sư phụ nói tiếp:

– Sứ mệnh của con trong tương lai đ̣i hỏi phải có một sức khỏe thật tốt và thân thể cường tráng. V́ vậy, con cần phải khỏi bệnh. Sư phụ nói những lời ấy bằng giọng rơ ràng và dứt khoát như một mệnh lệnh. Và trong thoáng chốc tôi chợt nhớ đến câu chuyện của người tu sĩđă từng đánh cọp. Tôi nhớ lại kết luận về “tinh thần làm chủ thể xác” của ông ta, và tự dưng thấy trong ḷng dâng tràn một niềm tin mănh liệt. Tôi biết là sư phụ không nói ra những lời ấy như một sự an ủi tinh thần cho thể xác bệnh hoạn của tôi. Chắc chắn người đă hiểu và biết là tôi có thể vượt qua bằng đức tin của ḿnh. Hai tuần lễ sau đó tôi nhận thấy rơ ḿnh bắt đầu lên cân. Những cơn đau giảm dần và mất hẳn. Tôi ăn uống ngon miệng với bất cứ món ăn ǵ và sức khỏe nhanh chóng thay đổi ngày càng khá hơn. Chỉ ba tháng sau, thân thể tôi hầu nhưđă thay đổi hoàn toàn, trở thành một thanh niên lực lưỡng khỏe mạnh. Bất chợt tôi nhớ lại có lần tôi đă hỏi vị tu sĩ từng đánh cọp về việc ḿnh “có thểđánh cọp được không?” Quả thật, với sức khỏe ngày nay, nếu muốn th́ chắc hẳn tôi đă có thể rèn luyện cho việc đánh cọp được rồi! Về sau, tôi c̣n biết được thêm rất nhiều trường hợp kỳ diệu mà sư phụ tôi dùng đức tin để chữa khỏi nhiều bệnh tật cho mọi người. Nhưng người không bao giờ làm việc này một cách bừa băi. Dường như

 

ngài hiểu rơ nhân duyên và nghiệp quả của mỗi người, và chỉ dùng đức tin để tác động trong những trường hợp mà ngài biết chắc là đúng đắn và mang lại hiệu quả. Sư phụ tôi c̣n thông hiểu cả Kinh Thánh của đạo Thiên chúa. Ngài trích dẫn những câu mà ngài cho là phù hợp với giáo lư đạo Phật, và giảng giải một cách sâu sắc những câu chuyện kể trong đó. Sự gần gũi sư phụđă mang lại cho tôi niềm tin mạnh mẽ và kiến thức ngày càng mở rộng. Để củng cố niềm tin cho các đệ tử mới nhập đạo, người thường khuyên họ phải dẹp bỏ sự mặc cảm về quá khứ không tốt của ḿnh và tập trung hoàn toàn nỗ lực vào công phu tu tập trong hiện tại để đạt được một tương lai tốt đẹp hơn. Tuy vậy, người chưa từng rầy la hoặc trách mắng những người chậm tiến. Thay v́ vậy, người truyền dạy những kinh nghiệm thực tế mà bản thân ḿnh đă từng trải qua, cũng như vỗ về, an ủi trong những lúc họ gặp khó khăn, chán nản. Đôi khi tôi cảm thấy chỉ riêng một việc được ở bên sư phụ thôi đă có giá trị làm nâng cao mọi giá trị tinh thần mà tôi hiện có, cũng như thúc đẩy việc chứng nghiệm những trạng thái tâm linh cao siêu và mới mẻ hơn trước đây. Nói tóm lại, cuộc sống bản thân người đă có thể xem là một bài giảng pháp tuyệt vời mà chúng tôi có thể lắng nghe măi măi, cho dù người không dùng đến ngôn ngữ thế gian để diễn giải. Cung cách mà người đối xử với học tṛ cũng vô cùng đặc biệt. Người có nhiều đệ tử trẻ tuổi mà

người thừa biết là tính khí c̣n đầy dẫy những sự bốc đồng. Trong những giờ giảng pháp hoặc tọa thiền, người luôn buộc tất cả phải giữ sự nghiêm trang, thành kính và tập trung chú ư. Nhưng trong sinh hoạt thường ngày, người luôn cho phép những trận cười thoải mái hoặc sự trao đổi thân t́nh. Những lúc ấy, chúng tôi có cảm tưởng người là một người bạn thân thiết chứ không phải một vị tôn sư nghiêm khắc. Trong tu viện cũng có một số đệ tử thuộc nữ giới. Không giống như một vài vị tôn sư khác, luôn cảnh giác học tṛ ḿnh trước nữ sắc và thậm chí xem đó như một nguyên nhân tiềm ẩn sẵn sàng làm hại đời sống xuất gia, sư phụ không biểu lộ bất cứ một sự phân biệt nào. Người thương yêu và lo lắng cho tất cả giống như nhau, không phân biệt nam nữ. Người dạy: “Một người đàn ông mặc quần áo phụ nữ không thể trở thành đàn bà. Cũng vậy, tâm thức chúng ta không phụ thuộc xác thân tạm bợ này để phân biệt thành nam hay nữ. Tất cả mọi người đều có trí tuệ và tánh Phật giống như nhau. Không có cái gọi là nam hoặc nữ trong sự giác ngộ.” Có lần tôi đánh bạo hỏi xem sư phụ nghĩ ǵ về quan điểm của một số vị tôn sư khác, khi họ cho rằng đàn bà là sự cám dỗ nguy hiểm nhất đối với đàn ông. Sư phụ nh́n tôi cười và nói:

 

– Điều đó đúng nhưng chưa đủ. V́ đàn ông cũng là sự cám dỗ nguy hiểm nhất đối với đàn bà. Dừng một chút để tôi kịp hiểu ra, rồi người mới chậm răi nói tiếp:

– Con nên biết, sự cám dỗ có nguyên nhân từ ngay nơi bản tâm ḿnh. Những kẻ chỉ biết nh́n thấy nguyên nhân từ bên ngoài sẽ không thể và không bao giờ chiến thắng hoàn toàn được sự cám dỗ. Ta không dạy điều này cho tất cả mọi người, nhưng với những đệ tử xuất gia như các con th́ cần phải hiểu rơ như vậy. Tôi hiểu ư sư phụ muốn nói ǵ. Đối với những người thế tục mà đức tin và sự hiểu biết c̣n hạn chế, th́ việc tránh né những nguyên nhân bên ngoài là cần thiết. Nhưng đối với những ai đă muốn t́m đến chân lư giác ngộ cuối cùng th́ vấn đề không c̣n là sự tránh né nữa. Sau này, tôi c̣n có nhiều dịp được sư phụ dạy thêm về vấn đề này. Ngài nói:

– Nhiều vị tôn sư xem quan hệ t́nh dục giữa nam nữ là tội lỗi, và truyền dạy quan niệm ấy cho tất cả mọi người. Điều đó chỉđúng với những ai đă thọ giới xuất gia và theo đuổi cuộc sống thoát tục. C̣n đối với những đệ tử tại gia, hoạt động sinh lư là một bản năng tự nhiên để duy tŕ ṇi giống. Vấn đề ở đây là dạy cho họ biết cách chế ngự dục t́nh để không đắm sâu vào sự thỏa măn dục tính. Quan niệm sai lầm như vậy có thể tạo ra một mặc cảm tội lỗi không cần thiết trong cuộc sống gia đ́nh, và điều đó có tác dụng ngăn trở hơn là thúc đẩy việc đạt đến sự an vui. Nên dạy cho các đệ tử tại gia biết về việc bảo tồn sinh lực bằng lối sống chung thủy và tiết dục. Điều đó thiết thực và có thể được thực hiện bởi bất cứ ai. Những người có quan điểm cứng nhắc như trên thường rất khó mở rộng ḷng để hóa độ các đệ

tử tại gia, v́ họ nh́n những người ấy như những kẻ đă hoen ố v́ tội lỗi. Trong sinh hoạt thường ngày, sư phụ rất ít khi sai bảo hoặc nhận sự phục dịch của các đệ tử cho những vấn đề thuộc về cá nhân ḿnh. Người chỉ đồng ư khi biết vị đệ tửấy thật ḷng muốn được làm vậy. Người tự giặt giũ lấy quần áo của ḿnh, vốn cũng chẳng có bao nhiêu v́ người ăn mặc vô cùng giản dị. Người tự dọn dẹp, sắp xếp pḥng ḿnh lúc nào cũng ngăn nắp, sạch sẽ. Và mỗi khi có việc phải đi đâu, người tự ḿnh sắp xếp hành lư, vật dụng. Về sự tu tập của tôi, sư phụ có vẻ rất hài ḷng, v́ tôi tiếp thu những lời dạy của người và tiến bộ một cách nhanh chóng. Nhưng cách sống tùy tiện, buông thả đến phóng túng – ảnh hưởng của sự nuông chiều trong gia đ́nh từ nhỏ – của tôi không được người tán đồng. Một hôm, người bảo tôi:

– Con nên suy nghĩ nhiều hơn về cung cách sống của cha con. Mọi thứ đều có quy củ, điều độ và được sắp xếp, tổ chức thật chặt chẽ. Tôi hiểu đó là lời giáo huấn khéo léo của người. Và từđó cố gắng hết sức để thay đổi lối sống của chính ḿnh. Khi vừa đến tu viện, sư phụ giao cho tôi việc tiếp khách và điều hành, giám sát những công việc mà sư phụ muốn giao phó cho các huynh đệ khác, nghĩa là thay thế sư phụ trong việc đưa ra các mệnh lệnh, chỉ thị. Chừng nửa tháng sau, có một thanh niên tên là Kumar từ miền đông tỉnh Bengal đến và được giao công việc ở nhà bếp. Anh ta là người nhanh

nhẹn, lanh trí và không bao lâu đă được sư phụ chú ư đặc biệt. Một hôm, sư phụ gọi tôi đến và nói:

– Mukunda, từ nay con hăy giao lại công việc cho Kumar. C̣n con sẽ phụ trách công việc ở nhà bếp. Tôi thản nhiên vâng lời sư phụ, v́ tôi biết quyết định của người bao giờ cũng có những dụng ư sâu xa và sáng suốt. Nhưng Kumar không được như thế. Anh ta cho rằng việc tiếp quản công việc của tôi là một sự “thăng tiến” đặc biệt, cho thấy sư phụđă dành sựưu ái cho anh ta hơn tất cả mọi người khác. Từ suy nghĩấy, anh ta đâm ra hách dịch và kênh kiệu với tất cả huynh đệ trong tu viện. Mọi người liền ngầm thỏa thuận phản kháng bằng cách đến t́m tôi mỗi ngày để nhận sự chỉ bảo, điều hành của tôi, thay v́ là với Kumar. Anh chàng không chịu đựng nổi sự khinh thường này, liền lập tức t́m đến sư phụ và nói với giọng tức tối:

– Bạch thầy, Mukunda thật khó chịu. Mặc dù anh ta giao công việc cho con theo lời sư phụ, nhưng các huynh đệ khác vẫn t́m đến anh ta để xin ư kiến. Khi ấy tôi đang quét dọn ở một pḥng bên cạnh và t́nh cờ nghe được câu chuyện. Sư phụ trả lời Kumar với giọng thản nhiên:

– V́ thế nên ta mới cho nó xuống nhà bếp, c̣n con th́ lên pḥng khách. Nhưng xem ra con không làm được công việc của ḿnh rồi. Con nên biết rằng muốn người khác vâng lời ḿnh th́ phải tự ḿnh chứng tỏ năng lực lănh đạo điều hành, không thể chỉ dựa vào quyền hạn quy định của chức vụ. Bây giờ

hăy đểMukunda làm công việc ấy và con th́ trở lại với nhà bếp. Sau việc ấy, tôi mới hiểu được dụng ư của sư phụ. Người đă nh́n thấy nơi anh ta tính kiêu căng tự phụ ngay từ đầu, và tạo một điều kiện để anh ta bộc lộ ra nhằm giúp anh ta diệt trừ cái bản chất không hay đó. Nhưng Kumar vẫn chứng nào tật nấy. Anh ta thường xuyên gây gỗ với các huynh đệ và cư xử thô lỗ với bất cứ ai. Một hôm, anh vô cớ nổi nóng và xúc phạm tôi bằng những lời nặng nề. Tôi cố dằn ḷng và nói với anh ta một cách b́nh tĩnh:

– Nếu anh không thay đổi được tính khí như thế, chắc chắn sẽ có ngày anh phải rời khỏi tu viện này. Kumar không đếm xỉa ǵ lời nói ấy mà cất lên một giọng cười ngạo nghễ. Ngay sau đó th́ sư phụ bước vào. Anh ta ngay lập tức mách lại nguyên văn lời đe dọa của tôi. Tôi cúi đầu chờ đợi một lời quở trách. Nhưng sư phụ trả lời với một sự thản nhiên, lạnh lùng:

– Có thể là Mukunda đă có lư khi nói thế. Và người lặng lẽ bỏđi. Chúng tôi đều biết là sư phụ đă rơ hết mọi chuyện. Một năm sau, Kumar xin phép về thăm nhà. Sư phụ không cho phép, nhưng anh ta bất chấp và cứ sắp xếp ra đi. Hơn hai tháng sau, anh trở lại tu viện với một sự thay đổi tệ hại đến không ngờ. Anh ăn nói cực kỳ thô tục và xúc phạm hầu hết mọi người, thậm chí c̣n lén hút thuốc lá và uống rượu, là những việc hoàn toàn bị cấm chỉ trong tu viện. Một buổi tối, sư phụ gọi tôi vào và nói:

– Mukunda, con hăy bảo Kumar rời khỏi tu viện vào sáng mai. Ta không muốn tự ḿnh nói với nó điều đó. Người dừng lại một lát, vẻ mặt buồn bă, trầm tư:

– Ta đă cố hết sức để cứu vớt nó nhưng không được nữa rồi. Giá như nó đừng căi lời ta mà về thăm nhà th́ vẫn c̣n có hy vọng. Giờ th́ đă hết rồi. Những thói xấu thế tục đă nhiễm vào tâm hồn non nớt của nó đến mức không thể cứu chữa được nữa. Việc Kumar bịđuổi khỏi tu viện không làm cho mọi người vui, mà chỉ thương xót v́ thấy trước một tương lai u tối ảm đạm đang chờđón anh ta. Mặc dù anh không tốt với tất cả huynh đệ chúng tôi, nhưng tấm ḷng bao dung không bờ bến của sư phụđă cảm hóa hết thảy mọi sự hiềm thù, đố kỵ trong chúng tôi, khiến cho mọi người đều mở ḷng thương xót cho sự sa đọa của anh. Sự viếng thăm của quan khách cũng là một phần quan trọng trong sinh hoạt ở tu viện của chúng tôi. Những buổi nói chuyện của sư phụ với khách đến thăm thường cũng là những bài học giá trị cho chúng tôi khi được nghe. Người không bao giờ tỏ vẻ nghiêm khắc, đạo mạo khi tṛ chuyện. Thay v́ vậy, người thoải mái, tự nhiên và vui vẻ. Đôi khi người c̣n pha tṛ khéo léo để làm cho câu chuyện thêm phần sôi nổi, hào hứng. Có lần, sư phụ dạy chúng tôi:

– Người tu hành không cần phải lúc nào cũng ra vẻ khắc khổ, nghiêm nghị. Sự giải thoát xét cho cùng chính là dứt trừ tất cả phiền năo, nghiệp chướng và đạt đến an vui, hạnh phúc. Không có lư ǵ một

người trên con đường đi đến giải thoát lại từ chối mọi niềm vui tự nhiên và biến cuộc sống thành một môi trường khô khan, lạnh lẽo. Nhiều vị học giả, các nhà trí thức, khoa học gia... đến thăm tu viện chúng tôi và ra về với sự ngạc nhiên sâu sắc. Họ vẫn tưởng sẽ gặp nơi đây một vị tu sĩ chỉ biết đến những ǵ xảy ra trong bốn bức tường tu viện. Nhưng rồi họ phải kinh ngạc trước những kiến thức rộng răi bao quát của sư phụ tôi về mọi lănh vực. Hơn thế nữa, v́ ngài soi rọi mỗi vấn đề bằng vào trí tuệ giác ngộ sáng suốt và khách quan nên đôi khi c̣n giúp họ phát hiện ra những khía cạnh độc đáo mà sự hạn chế thông thường đă làm cho họ không nhận thấy. Cũng không ít những kẻ kiêu ngạo, hách dịch hoặc ỷ vào quyền thếđă học được những bài học đích đáng từ nơi sư phụ. Một hôm, có một nhà khoa học nổi tiếng đến thăm chơi và tranh luận rất lâu về sự tồn tại của một thế giới tâm linh. Ông ta nói:

– Chúng tôi chỉ chấp nhận những ǵ có thể được phân tích và chứng minh trong thực tế hoặc qua thí nghiệm. Một thế giới tâm linh hoàn toàn không thể có v́ chẳng ai chứng minh được điều đó cả. Thầy tôi từ tốn đáp lại rằng:

– Ông không thể nh́n vào những công thức hóa học để nhận ra là có thế giới tâm linh. Nhưng tôi có một thí nghiệm đơn giản hơn có thể giúp ông chứng minh được điều đó. Hăy theo dơi và phân tích những tư tưởng, suy nghĩ của chính ông trong 24

giờ liên tục không dừng nghỉ. Ông sẽ nhận ra được những ǵ mà từ trước ông chưa từng nhận ra. Ít lâu sau, nhà khoa học ấy trở lại thăm tu viện với hàng loạt những thắc mắc về các kinh nghiệm tâm thức khác nhau, nhưng ông không c̣n tranh căi về sự tồn tại của một thế giới tâm linh nữa! Địa phương chúng tôi ở có một vị thẩm phán rất có thế lực. Ông này nổi tiếng khắc nghiệt, đă từng làm nhiều việc tàn bạo chỉ để chứng tỏ sức mạnh và quyền lực. Vào thời ấy, với thế lực của ḿnh, nếu muốn ông ta có thể dễ dàng trục xuất chúng tôi ra khỏi tu viện mà không cần có một lư do ǵ chính đáng. Một hôm ông cho người đến thông báo trước là ông muốn đến thăm tu viện. Sư phụ liền nói với người tùy phái của ông ta:

– Không cần báo trước ngày giờ. Hăy bảo ông ấy có thể đến đây bất cứ khi nào cũng được. Dụng ư của ông thẩm phán là muốn có một nghi lễ đón tiếp thật long trọng, và v́ thế ông ta nghĩ là cần có sự chuẩn bị. Chính tôi cũng cho rằng điều đó là cần thiết để bảo vệ sự an toàn cho tu viện. Nhưng sư phụ tôi không nghĩ như thế. Người thản nhiên trước mọi sựđe dọa bằng quyền lực. Người nói: “Ông ấy đến đây để thăm một tu viện, không phải văn pḥng một thuộc cấp của ḿnh. Đối với chúng ta, ông ấy là một vị khách và sẽ nhận được sự đón tiếp trân trọng giống như bao nhiêu vị khách khác.” Và ngày viếng thăm cũng đến. Sư phụ quả thật đă tiếp ông ta b́nh thường như bao nhiêu người khác. Thậm chí vẻ mặt kênh kiệu của ông đă khiến ông

phải ngồi trên một cái ghế gỗ, thay v́ sư phụ vẫn sai tôi đi lấy ghế bành mỗi khi có các vị tôn túc đến viếng. Ông thẩm phán có vẻ bất măn và hậm hực ra mặt. Nhưng ông vẫn không quên những điều mà ông dự định sẽ đến đây để tranh luận với thầy tôi. Hai người trao đổi một lúc lâu, và ông thẩm phán cố khoe khoang sự am hiểu của ḿnh về các bản kinh cổ xưa. Sư phụđiềm tĩnh lắng nghe và sau đó vạch rơ từng điểm sai trái trong cách giảng luận của ông. Cuối cùng, vị thẩm phán không nhịn được nữa, ông nói lớn:

– Này đại đức, có lẽ ông nên biết điều này: Trong kỳ thi tiến sĩ triết học, tôi đă đậu thủ khoa đấy. Sư phụ thản nhiên đáp lại:

– Này ông, dù sao th́ đây cũng là một tu viện, không phải một phiên ṭa, nên phán quyết của ông chưa hẳn là phán quyết sau cùng. Sự hiểu biết nông cạn của ông về các vấn đề triết lư khiến cho tôi buộc phải ngờ vực về sự học hành khoa cử. Dù sao th́ những điều ấy chắc hẳn cũng không liên quan đến ư nghĩa sâu xa trong các thánh kinh. Có lẽ ông cũng nên biết điều này: Người ta không đào tạo ra được các vị thánh nhân theo từng giai đoạn như các vị tiến sĩ khoa cử. Tính cách chặt chẽ trong lập luận của sư phụ cuối cùng đă khuất phục được vị thẩm phán kiêu ngạo, hung hăng. Lúc ra về, ông kính cẩn chào sư phụ và nói:

– Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi được tiếp xúc với một vị thẩm phán của tâm hồn.

Và một tháng sau, sư phụ nhận được một lá đơn chính thức của ông ta xin được đến học đạo tại tu viện với tư cách đệ tử tập sự. Tất nhiên là ông sử dụng ngôn ngữ đầy dẫy những danh từ pháp luật như một bệnh nghề nghiệp, nhưng thành ư của ông đă được sư phụ dễ dàng chấp nhận. Về sau, chúng tôi mới biết ông vốn là một người cứng rắn nhưng lại rất nhiệt t́nh trong việc học hỏi đạo lư, chỉ v́ từ trước chưa từng có ai khuất phục được tính kiêu ngạo của ông! Tính cách của sư phụ không phải lúc nào cũng cứng rắn như thế. Sống với người trong một thời gian lâu dài, chúng tôi mới hiểu rơ rằng người chỉ cứng rắn như thế vào những lúc thật sự cần thiết, và hoàn toàn không xuất phát từ sự hiếu thắng hay tự ái cá nhân. Trong quan hệ với đệ tử, tuy người rất thâm trầm và ít khi bộc lộ t́nh cảm, nhưng về sau chúng tôi đều cảm nhận được t́nh thương yêu bao la của người. Người chăm lo đến miếng ăn, giấc ngủ, thậm chí những chuyện buồn vui trong cuộc đời của mỗi chúng tôi một cách vô cùng chu đáo. Sư phụ chưa từng tỏ ra lệ thuộc vào tiền bạc, vật chất. Người chi tiêu gói ghém trong những khoản thu nhập vừa phải của ḿnh. Việc giảng dạy ở tu viện hoàn toàn miễn phí, không có bất cứ một sự đóng góp nào từ các đệ tử. Về sau tôi mới được biết người đă từ chối rất nhiều đề nghịđóng góp tài vật từ các đệ tử của ḿnh, mà trong sốđó có rất nhiều người giàu có hoặc giữ những cương vị quan trọng trong xă hội.

Cơ ngơi đồ sộ của thân phụ để lại được chuyển sang làm tu viện đă gây bất măn cho một số người trong gia tộc của sư phụ. Những kẻ xấu trong ḍng họ cho rằng như thế là một sự bất công và mất mát đối với họ. V́ thế, họ t́m mọi cách để tranh chấp quyền sở hữu với người. Sự việc đă nhiều lần phải đưa đến ṭa án. Sư phụ có đủ những chứng từ pháp lư về sự thừa kế từ thân phụ. Người tự ḿnh lo liệu các thủ tục tố tụng rắc rối, không lôi kéo bất cứ ai trong tu viện cùng tham gia. Người đă cương quyết không nhượng bộ trước sự tranh chấp này. Trong thời gian tranh chấp, một hôm có viên thừa phát lại từ ṭa án đến t́m người. Ông ta chuyển đạt lệnh triệu tập của ṭa và nói với một giọng xấc xược:

 

 

– Ông nên rời khỏi tu viện này mà đến hít thở bầu không khí lương thiện hơn của pháp đ́nh. Lúc ấy tôi đang đứng gần đó, không kiềm được cơn giận liền bước tới và quát vào mặt y:

 

– Lời hoăn láo của ông với bậc tôn sư rất đáng để tôi đập cho ông một trận. Một đệ tử trẻ khác là Kanai cũng nghe thấy và nóng nảy xông đến:

 

– Quân xấc xược! Chốn tu viện thiêng liêng này không có chỗ cho ngươi. Sư phụ từ tốn ngăn chúng tôi lại:

 

– Này các con, không được nóng giận. Ông ta chỉ làm theo bổn phận của ḿnh mà thôi. Viên thừa phát lại đang hốt hoảng trước phản ứng tức giận của hai tu sĩ thanh niên lực lưỡng, c̣n chưa

hoàn hồn th́ đă chuyển sang kinh ngạc trước cung cách ḥa nhă của thầy tôi. Ông ta xấu hổ cúi chào và rụt rè bước lui ra khỏi cửa. Tấm gương sáng và sự truyền dạy nhiệt t́nh của sư phụđă un đúc trong tôi long khát khao truyền bá chánh pháp. Tôi nỗ lực học tập và công phu không dừng nghỉ, mong sao một ngày kia có thểđáp lại công ơn to lớn và sự kỳ vọng của sư phụ. Người cũng biết được sự cố gắng của tôi, nên một hôm nhân lúc vui vẻ tṛ chuyện người cho tôi biết một dự báo về tương lai để nhằm khuyến khích tôi:

– Mukunda, trong phần đời c̣n lại của con sẽ có rất nhiều việc để làm. Để giáo hóa được cho rất nhiều người mê tối, con sẽ phải phát huy những ưu điểm mạnh mẽ của môn thiền định. Con sẽ lần lượt đi qua và xây dựng các trung tâm truyền bá Phật pháp ở nhiều nơi khác nhau. Trong đó có ba cơ sở chính: một trường dạy phép tọa thiền cho thanh thiếu niên ở vùng đồng bằng tỉnh Ranchi, một tu viện trên sườn đồi ởLos Angeles thuộc Hoa Kỳ, và một tu viện khác nữa cũng ở Hoa Kỳ, thuộc California trên bờ biển Thái B́nh Dương. Tôi không hiểu v́ sao sư phụ có thể tiên đoán trước một cách chính xác như vậy. Nhưng quả thật về sau tôi đă thực hiện hoàn toàn đúng như những ǵ người dựđoán. Và cuộc đời tu tập cũng như truyền đạo của tôi c̣n phải qua bao nhiêu gian nan vất vả, trôi giạt nhiều nơi, thậm chí c̣n chứng kiến biết bao điều kỳ bí, linh diệu khác nữa trước khi có thể thực hiện được tốt đẹp những lời dự báo đó. Những điều

 

ấy, tôi sẽ chỉ có thể thuật lại phần nào trong những phần tiếp theo sau nữa của tập hồi kư này.

 

CHƯƠNG XI S GIAO CM NHIM MU

Mặc dù đă trải qua cả một thời thơấu với những dự báo nhiệm mầu và nhiều gian nan, vất vả mới gặp được sư phụŚrī Yukteswar và được theo học tại đạo viện của người, nhưng tôi vẫn không tránh khỏi được một lỗi lầm mà hầu hết những kẻ sơ cơ học đạo đều mắc phải: Không bao giờ ư thức đầy đủ được về tầm quan trọng và giá trị của vị tôn sưđang kề cận dạy đạo cho ḿnh. Điều này cũng là một tâm lư thông thường mà người thế tục vẫn gọi là “Đứng núi này trông núi nọ.” Quả thật vậy. Sau sáu tháng tu tập với thầy Śrī Yukteswar tại tu viện ở đường Rai Ghat, tôi bắt đầu thấy chán nản với những phận sự được giao hằng ngày, và nhất là với bài vởở trường đại học mà sư phụđă buộc tôi phải trở lại theo học. Hơn thế nữa, tự trong tiềm thức xa xôi của ḿnh, tôi vẫn chưa quên được giấc mơ học đạo trên dăy Hy Mă Lạp Sơn đầy thánh tích. Một hôm, không kiềm chế được tâm trạng âm ỉ của ḿnh, tôi thưa với sư phụ:

 

– Bạch sư phụ, xin sư phụ cho phép con lên Hy Mă Lạp Sơn để tu tập một thời gian. Con hy vọng cảnh núi rừng hoang vu cô tịch trên ấy sẽ giúp con thuận tiện hơn trong việc điều phục tâm ư. Sư phụ nh́n tôi với ánh mắt cảm thông sâu xa mà phải rất lâu về sau tôi mới hiểu được. Người đă hiểu

thấu tâm trạng tôi lúc ấy và biết rằng những kinh nghiệm tâm linh của riêng người không giúp được ǵ cho tôi trong lúc ngọn lửa bốc đồng của tuổi trẻ vẫn c̣n đang rực cháy. Sư phụ nói với tôi bằng giọng điềm tĩnh pha chút nghiêm nghị:

– Này con, chốn rừng núi hoang vu ấy không phải chỉ toàn những người chứng đạo không đâu. C̣n có những mối hiểm nguy từ thú dữ, những thổ dân hoang dă và đường đi gian lao hiểm trở. Hơn thế nữa, sự rét buốt quanh năm trên đó không phải là dễ chịu cho bất cứ ai. Làm sao con có thể không học đạo với một con người mà mong rằng sẽ đạt được giải thoát trong những động đá hoang vu vô tri giác? Thật là một sự ngu mê mà suốt quăng đời về sau tôi không sao có thể tự tha thứ cho ḿnh được. Câu trả lời của sư phụ như ngọn đuốc sáng rỡ soi thấu sự vô lư trong ư muốn bốc đồng của tôi, nhưng tôi như người lóa mắt không sao thấy ra được những điều người muốn nói. V́ thế, không bao lâu sau, tôi lặp lại yêu cầu trên một lần nữa với người. Lần này, sư phụ chỉ im lặng nh́n tôi không nói ǵ. Trong sự u mê của ḿnh lúc ấy, tôi cho rằng đó là dấu hiệu đồng ư của người. Khi trở về nhà ở Calcutta, tôi dành trọn buổi tối để tức thời chuẩn bị cho việc lên đường. Nh́n gói hành lư được chuẩn bị xong, tôi bỗng dưng nhớ lại gói hành lư năm xưa trong chuyến đi không thành lên Hy Mă Lạp Sơn. Tôi tự hỏi không biết lần này có lại thất bại nữa hay chăng? Thật ra, trong chuyến đi lần trước, tôi chỉ lo sợ v́ gia đ́nh không cho phép sự ra đi của tôi; c̣n chuyến đi lần này tôi không có ǵ để

lo sợ, mà chỉ cảm thấy một sự buồn bực kỳ lạ khi nghĩ đến việc sẽ không c̣n được gặp gỡ sư phụŚrī Yukteswar hằng ngày nữa. Tôi tự vạch ra cho ḿnh một kế hoạch hành tŕnh để đi lên Hy Mă Lạp Sơn. Nhưng trước tiên, tôi c̣n có một việc khác phải làm. Tôi t́m đến vị giáo sư dạy Phạn ngữở trường đại học của tôi, ông Behari, để hỏi xin địa chỉ của một người mà tôi cho là ḿnh cần phải gặp trước khi lên đường. Tôi nói với giáo sư:

– Thưa ông, ông có nói với tôi về một vị cao đồ của đức Lahiri Mahāsaya. Ông có thể cho tôi địa chỉ của người ấy được chăng?

 

– Chắc anh muốn nói đến Ram Gopal Muzumdar? Tôi vẫn gọi ông ta là vị tu sĩ không ngủ, v́ từ khi quen biết ông ta tôi chưa từng thấy ông ta ngả lưng nằm ngủ bao giờ. Ông luôn luôn sống trong tâm trạng tỉnh thức của thiền định. Đây là địa chỉ của ông ta ở Ranbajpur, gần Tarakeswa. Tôi cảm ơn giáo sư và lập tức sắp xếp đi Tarakeswa bằng xe lửa. Những hiểu biết của tôi về vị tu sĩ không ngủ này c̣n rất sơ sài. Tôi chỉ nghe nói là người đă đạt đến một sự chứng ngộ sau nhiều năm tu tập thiền định trong một động đá hoang vu cô tịch. Tôi hy vọng người sẽ truyền đạt cho tôi được ít nhiều những kinh nghiệm thực tế mà tôi có thể áp dụng được trong những ngày tu tập sắp tới trên dăy Hy Mă Lạp Sơn hoang vu kỳ bí. Tại Tarakeswa có một ngôi đền rất lớn được hầu hết người Ấn Độ sùng kính và thường xuyên t́m đến lễ bái rất đông đúc. Một trong những điểm đặc biệt

 

nhất của ngôi đền thiêng này là việc cứu thoát nhiều căn bệnh hiểm nghèo cho những ai thành tâm đến đây cầu nguyện. Một bà cô của tôi đă may mắn được là một người trong sốđó. Hơn thế nữa, trường hợp của bà c̣n đặc biệt hơn những người khác ở điểm là không phải bản thân bà có bệnh. Bà đă đến đây cầu nguyện cho người chồng trong hơn một tuần lễ với sự chí thành. Vào đêm thứ bảy, bà ngủ thiếp đi một lát trước điện thờ v́ quá mệt mỏi. Khi giật ḿnh tỉnh lại, bà nh́n thấy một nhành lá tươi ngay trước mặt ḿnh. Vui mừng, bà mang nhành lá ấy về sắc nước cho chồng uống, và căn bệnh kinh niên của ông ta đă hoàn toàn biến mất ngay sau đó một cách thật khó tin. Tôi đă nghe quá nhiều về ngôi đền đến nỗi không thể không đến viếng khi tôi vừa đặt chân đếnTarakeswar. Nhưng khi đến nơi, cách bài trí của ngôi đền đă làm cho tôi không khỏi ngạc nhiên khi vừa bước vào. Điện thờ hoàn toàn hết sức đơn giản. Chỉ có một khoảng sân rộng mênh mông dành cho khách hành hương đến lễ bái. Và đối tượng lễ bái là một... tảng đá. Vâng, chỉ là một tảng đá tṛn đặt trên bệ thờ cao, tượng trưng cho mọi sức mạnh thiêng liêng trong vũ trụ với h́nh tượng không có điểm khởi đầu và điểm kết thúc. Trong ḷng tôi lúc ấy, tôi cho rằng người ta chỉ nên lễ bái những biểu tượng của giải thoát. Một tảng đá vô tri giác không phải là trí tuệ giải thoát mà tôi đang t́m kiếm. V́ thế, tôi chỉ đứng nh́n với vẻ ngạo

mạn mà không chịu quỳ xuống lễ bái như bao nhiêu người khác. Một vài người trong số khách hành hương nh́n tôi với ánh mắt ngạc nhiên ḍ hỏi, nhưng tôi chỉ phớt lờđi và lặng lẽ quay ra. Ra khỏi đền thờ, tôi ḍ hỏi vài người khách đi đường và biết được đường đến ngôi làng Ranbajpur, một làng nhỏ mà người ta bảo tôi là cách đó cũng không xa lắm. Không bao lâu tôi đến một ngă tư đường và dừng lại băn khoăn v́ không biết phải đi thẳng hay rẽ theo lối nào. Tôi liền hỏi thăm một người có vẻ là dân địa phương lúc đó cũng vừa đi đến. Ông ta nghe tôi nói tên vị tu sĩ và tỏ ra rất quen thuộc. Ông ngẫm nghĩ một chút như để t́m cách diễn đạt sao cho tôi dễ hiểu, rồi quay về phía ngă tư đường, ông đưa tay chỉ:

 

 

– Theo con đường rẽ sang tay phải, ông chỉ việc đi thẳng và sẽ đến nơi mà không cần hỏi thăm ai khác đâu. Tôi cảm ơn sự nhiệt t́nh của ông ta và rảo bước đi nhanh v́ nôn nóng muốn sớm gặp được người ḿnh t́m kiếm. Một lát sau, tôi gặp một con kênh đào và con đường bắt đầu chạy dọc theo bờ kênh. Thật đáng ngạc nhiên khi tôi vẫn đi măi, đi măi cho đến khi trời đă tối mà chưa đến được nơi nào cả. Không có vẻ ǵ là tôi đang đi đến làng Ranbajpur như lời chỉ dẫn của những người trong thành phố, bởi v́ họ đă nói với tôi là ngôi làng không xa lắm. Trời tối hẳn và cảnh vật trở nên hoang vu kỳ lạ. Chỉ khi ấy tôi mới nh́n thấy được ở xa tít về phía trước những đốm lửa nhỏ lờ mờ cho thấy có vẻ như là có

một ngôi làng ởđó. Tôi ước chừng cũng phải mất khoảng một giờ nữa mới đến được nơi ấy, v́ những đốm lửa trông không rơ lắm, chắc phải là rất xa. Tôi cảm thấy mỏi mệt và thất vọng ră rời, v́ đến lúc này th́ tôi biết chắc là ḿnh đă đi nhầm đường. Giáo sưBehari cũng đă nói với tôi rằng làng Ranbajpur nằm rất gần Tarakeswar. Như vậy, ngôi làng mà tôi nh́n thấy kia may ra cũng chỉ là một chỗ nghỉ chân, c̣n hy vọng gặp gỡ vị tu sĩ Ram Gopal Muzumdar trong hôm nay xem nhưđă hoàn toàn tan biến. Tôi lần bước trong đêm tối được thêm một quăng xa nữa th́ nghe có tiếng khua động. Một nông dân dắt ḅ từ dưới ruộng vừa bước lên đường. Chắc hẳn ông ta phải là người ở trong ngôi làng phía trước kia. Tôi hối hả đến gần và hỏi thăm ông ta về tu sĩ Ram Gopal. Ông này suy nghĩ một lát và nói:

– Không có ai mang tên đó ở làng chúng tôi cả. Ông ta có vẻ nghi ngờ v́ không hiểu được tôi là ai. Tôi liền giải thích cho ông hiểu mục đích chuyến đi của tôi... Ông ta nói:

 

– Đúng là ông đă đi nhầm đường. Làng Ranbajpur nằm cách đây rất xa. Khi ở chỗ ngă tư bên ngoàiTarakeswar, lẽ ra ông phải đi về bên trái thay v́ bên phải. May mắn thay, ông là một người rất tốt bụng. Ông đưa tôi về nhà và dọn chỗ cho tôi nghỉđêm lại sau khi đă chiêu đăi một bữa tối thịnh soạn với cà-ri, súp đậu, khoai tây và chuối. Tôi ăn rất ngon v́ quá đói.

 

Tuy nhiên, cho dù rất mệt mỏi tôi vẫn không sao chợp mắt ngủ được trong đêm đó. Thái độ của người chỉ đường cho tôi ban chiều làm tôi vô cùng khó hiểu, v́ ông ta có vẻ biết rơ về tu sĩ Ram Gopal và ngôi làng mà tôi muốn đến. Như vậy, v́ sao ông cố t́nh chỉ cho tôi đi sai đường? Hơn thế nữa, tôi vẫn chưa gặp được vị tu sĩ, người đă thôi thúc tôi vượt đường xa đến tận nơi này. Trong cơn mê tưởng chập chờn v́ quá mỏi mệt, tôi lại nhớ đến tảng đá tṛn trong ngôi đền và có cảm giác như ḿnh đă sai trái khi tỏ thái độ ngạo mạn trước một biểu tượng thiêng liêng mà rất nhiều người đang lễ bái... Tất cả những suy nghĩ và h́nh ảnh đó cứ chập chờn măi trong đầu tôi khiến cho tôi không sao thiếp ngủđi được... cho đến khi trời sáng rơ. Sáng hôm sau, tôi trở ngược lại theo con đường cũ để t́m đến làng Ranbajpur. Tôi đă gặp và hỏi thăm ít nhất là 5 người trên đường đi. Người nào cũng nói với tôi là c̣n chừng 2 dặm nữa sẽ đến làng Ranbajpur. Nhưng tôi đi đă 6 tiếng đồng hồ mà vẫn chỉ thấy toàn là đồng trống hai bên đường, không có dấu hiệu ǵ của làng mạc. Mặt trời nóng gắt và bầu trời trong xanh không một chút mây làm cho tôi thấy choáng nắng. Tôi tự nghĩ có lẽ không sao đủ sức để tiếp tục bước đi, nhưng cũng không nh́n thấy bóng mát nào gần đó khả dĩ có thể tạm dừng chân nghỉ ngơi trong chốc lát. Ngay lúc đó, tôi nh́n thấy một tu sĩ từ phía trước đi ngược về phía tôi. Mặc dù con đường trống trơn, nhưng trước đó mấy phút tôi không hề nh́n thấy

ông ta, nên tôi có cảm tưởng như ông ta đă đột ngột hiện ra không từđâu cả! Vị tu sĩ có vóc người nhỏ bé và thậm chí là hơi gầy ốm, nhưng đôi mắt sáng rỡ và linh hoạt. Trong đôi mắt ấy tôi nh́n thấy những tia sáng chiếu ra khi người nh́n vào tôi, c̣n sáng rực hơn cả ánh sáng mặt trời đang lúc giữa trưa này. Ông dừng lại trước mặt tôi, mỉm cười hiền ḥa và nói:

 

– Lẽ ra tôi đă rời Ranbajpur, nhưng v́ em t́m tôi với một ư tốt nên tôi c̣n ở lại để chờ em. Tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi vị tu sĩ lại tiếp tục nói mà không chờ tôi nói ra điều ǵ:

– Em thật ngây thơ khi nghĩ rằng có thể đến gặp tôi mà không được sự cho phép trước. Hơn nữa, lẽ ra giáo sư Behari không nên cho em địa chỉ của tôi. Tôi cảm thấy việc tự giới thiệu ḿnh là không cần thiết nữa, và càng không cần thiết phải hỏi xem tu sĩ này là ai, bởi những lời của ông đă nói lên quá rơ điều đó. Tuy hết sức ngạc nhiên nhưng tôi hơi khó chịu, có cảm giác như bị xúc phạm v́ những lời nói thẳng của người. Tu sĩ Ram Gopal – vâng, chính là ông ta – dường như không quan tâm mấy đến những cảm xúc của tôi lúc ấy. Ông tiếp tục nói những ǵ ông muốn nói, càng làm cho tôi thêm ngạc nhiên hơn nữa:

– Này em, hăy nói cho tôi biết em nghĩ là có thể t́m thấy Phật ở những nơi nào? Tôi đáp, hoàn toàn là theo lời dạy của thầy tôi:

– Trong tâm tôi, trong tâm ngài và cũng ở khắp mọi nơi. Tu sĩ cười vẻ mỉa mai:

– Thế tại sao hôm qua em đă từ chối không lễ bái tảng đá trong đền thiêng? Phải chăng v́ tảng đá ấy không có h́nh dáng đức Phật? Tôi lặng thinh và chợt nhận ra sự sai lầm của ḿnh. Vị tu sĩ nói tiếp:

– Đức tin chân thật không cần thiết phải được biểu lộ qua bất cứ h́nh thể nào, và v́ thế mà nó cũng có thể được biểu lộ qua mọi h́nh thể. Nếu em đă biết rằng đức Phật hiện hữu ở khắp mọi nơi, th́ không có lư do ǵ để em từ chối bỏ lỡđi một cơ hội lễ bái ngài thông qua h́nh thể tảng đá. Nên biết rằng, thậm chí em c̣n có thể lễ lạy hư không mà không cần có một h́nh thể nào biểu lộ. Sự kiêu mạn của em, coi thường đức tin của bao nhiêu người khác là một lỗi lầm không thể tha thứ nếu không có sự chân thành hối cải. Tôi thấy ḿnh không c̣n ǵ để biện bạch thêm nữa ngoài việc nhận lỗi. Tu sĩ Ram Gopal thân mật nắm lấy tay tôi dắt đi theo hướng ngược lại trên con đường. Một luồng hơi ấm từ cơ thể người như truyền qua cơ thể tôi. Mặc dù giữa trời trưa nóng bức, tôi chợt thấy vô cùng khoan khoái và mọi sự mệt nhọc bỗng chốc tiêu tan không c̣n nữa. Vừa bước đi theo người được vài bước, tôi bỗng thấy kinh ngạc đến sửng người lại không sao bước đi được nữa. Trước mắt tôi là một ngôi làng nhỏ nằm bên đường với những túp nhà tranh xinh xắn, người và súc vật đi lại đông đúc trên những con đường ṃn chạy ngang dọc qua lại trong làng. Chỉ mới lúc năy thôi, tôi đă đi ngang qua đây mà chỉ thấy toàn là đồng trống!

Tu sĩ Ram Gopal có vẻ như rất dễ dàng biết được những ư nghĩ của tôi. Ông nói:

– Từ sáng đến giờ em đă qua lại ngôi làng này đến 5 lần rồi, và tôi cho như thế là quá đủ để dẹp bỏ ḷng kiêu mạn của em. Rồi ông ta dắt tôi đi vào làng, vừa đi vừa nói tiếp:

– Trên con đường học đạo, có thể em phải t́m kiếm cho ra bậc minh sư đầy trí tuệ để nương theo cầu đạo giải thoát. Nhưng một khi đă được chứng ngộ, em sẽ nh́n thấy đạo giải thoát hiển hiện ở khắp cả mọi nơi. Dù em có t́m đến thánh tích Lam-tỳ­ni13 hay một tảng đá ở ngôi đền tại Tarakaswar, lẽ ra em cũng đều phải chiêm bái với ḷng thành kính như nhau. Giọng nói của vị tu sĩ không c̣n vẻ trách cứ nữa mà như một lời giải thích ôn tồn, thân mật. Đến đây, ông lại vỗ vai tôi và nói tiếp:

– Này người bạn nhỏ, em đă sai lầm khi muốn bỏ thầy ra đi t́m đến những động đá hoang vu. Thầy của em là một bậc minh sưđă giác ngộ. Em không thể t́m đâu ra một người như thế nếu em bỏđi lên Hy Mă Lạp Sơn. Hơn thế nữa, những động đá vô tri giác không phải là điều kiện bắt buộc phải có cho sự chứng ngộ của bản thân em. Và kỳ lạ thay, Ram Gopal lặp lại một cách chính xác điều mà thầy tôi đă từng nói với tôi trước đây:

– Các vị minh sư chứng ngộ không đ̣i hỏi phải cư trú cố định ởđâu cả, cho dù đó là dăy Hy Mă Lạp Sơn hay bất cứ một nơi nào khác. Rồi để giải thích rơ hơn, vị tu sĩ nói tiếp:

– Dù là Ấn Độ hay Tây Tạng, sự xuất hiện của các bậc thánh nhân giác ngộ qua nhiều thế hệ cũng không hề có nghĩa là chỉ những nơi ấy mới có được các bậc minh sư chứng ngộ. Con người ở khắp mọi nơi đều mang trong tâm ḿnh hạt giống giải thoát, chỉ cần biết tự t́m lại chính ḿnh th́ chúng ta sẽ nhận ra là không cần phải phí công đi đến bất cứ đâu. Trong lịch sửđă có không ít những trường hợp người cầu đạo đi đến cùng trời cuối đất để rồi một ngày kia chợt nhận ra vị minh sư là người luôn ở sát bên cạnh ḿnh. Lúc này, tôi lặng lẽ tán đồng những lời nói của Ram Gopal, và bất chợt nhớ lại sự gặp gỡ kỳ diệu giữa tôi với sư phụŚrī Yukteswar ngày trước. Quả thật có biết bao nhiêu điều người ta không sao có thể hiểu được hết với trí óc tầm thường của ḿnh. Ram Gopal bất chợt quay lại nh́n thẳng vào mắt tôi và hỏi một cách thật nghiêm nghị:

– Em có được một căn pḥng riêng chỉ ḿnh em sử dụng chứ?

– Vâng, tôi có. Ram Gopal nhoẻn miệng cười và nói chậm răi, dằn từng tiếng một:

– Đó chính là động đá của em, không cần phải t́m động đá nào khác trên Hy Mă Lạp Sơn. Rồi ông thong thả nói tiếp:

– Chỉ cần em tu tập đúng hướng, đó sẽ là nơi em chứng ngộ, đạt được giải thoát. C̣n nếu em măi nuôi ảo tưởng như hôm nay, cho dù em có ngồi giữa tuyết lạnh trên Hy Mă Lạp Sơn cho đến muôn đời cũng sẽ chẳng ích lợi ǵ.

Những lời giản dị mà dứt khoát của vị tu sĩ như chợt làm cho tôi bừng tỉnh. Giấc mộng lên núi tuyết mà tôi ôm ấp từ thuở bé đến nay tan nhanh đi cũng như băng tuyết dưới ánh mặt trời. Tu sĩ Ram Gopal chỉ tay vào một mái nhà tranh ở phía trước và ra hiệu cho tôi là đă đến nơi. Vừa nắm tay tôi dẫn vào nhà, người vừa nói tiếp:

– Này bạn nhỏ, tấm ḷng cầu đạo của em rất mạnh mẽ và có phần nào rất giống với chính ta ngày trước. Ta rất mến em. Chúng tôi cùng ngồi dưới một mái hiên thoáng mát để dùng nước. Ông mang cho tôi một ly nước chanh, c̣n ông dùng nước lọc. Sau một lúc chuyện tṛ, ông để tôi ngồi ở mái hiên, c̣n ông sang một góc nhỏ bên chái nhà để ngồi thiền. Trong đầu chất nặng những ư tưởng mới vừa tiếp nhận từ vị tu sĩ này, tôi cũng tự ḿnh ngồi yên nhập vào thiền quán để chiêm nghiệm. Trong suốt bốn giờ đồng hồ sau đó, chúng tôi không c̣n ai để ư đến ai nữa cả. Khi tôi ra khỏi cơn thiền định, ánh trăng chiếu sáng rơ v́ mặt trời đă lặn mất từ lâu. Khí lạnh ban đêm làm tôi dễ chịu, nhưng cảm giác mạnh mẽ hơn của tôi khi trở về với cuộc sống vật chất này là cơn đói cồn cào. Tôi đă không ăn uống ǵ suốt ngày hôm đó trừ một ly nước chanh ban chiều, với vị chua càng làm cho bao tử tôi thêm khó chịu hơn nữa. Dưới ánh trăng, tôi nh́n sang và thấy Ram Gopal vẫn c̣n ngồi bất động. Tuy nhiên, tôi không phải sốt ruột chờ lâu. Chỉ trong phút chốc ông đă vươn vai đứng dậy và đi về phía tôi.

– Ta biết em đang đói. Chúng ta sẽ cùng dùng cơm trong chốc lát nữa thôi. Ông loay hoay nhóm lửa lên trong một cái bếp ḷ bằng đất nung. Tôi tự nghĩ không biết phải chờ đợi bao lâu trong cơn đói sốt ruột này, khi mà giờ ông mới bắt đầu nhóm lửa thổi cơm. Nhưng thật kinh ngạc biết bao khi ngay cả ư nghĩ lo lắng đó của tôi c̣n chưa kết thúc th́ Ram Gopal đă từ phía bếp ḷ đi lại với một mâm cơm tươm tất. Tôi nh́n thấy có cơm và súp đậu nấu với một vài món ăn khác. Tôi tự hỏi không biết ông đă làm sao để nấu xong được chừng ấy thức ăn trong một khoảnh khắc mà tôi c̣n chưa kịp nghĩ đến. Đặt mâm cơm xuống trước mặt tôi, ông nói:

– Ta biết em có một đức tin khá vững vàng, nhưng có lẽ c̣n lâu lắm em mới chấp nhận được rằng thế giới vật chất này chẳng có một định luật nào có thể chi phối được những bậc giác ngộ. Tôi hiểu được hàm ư trong lời nói của tu sĩ, v́ người hẳn đă dễ dàng nhận ra vẻ mặt kinh ngạc của tôi. Chúng tôi cùng ăn cơm trong im lặng. Bữa ăn rất ngon và tràn đầy ân phước mà măi măi về sau tôi không sao quên được. Đêm hôm đó, tôi ngủ trên một tấm nệm cũ trải trên sàn nhà v́ căn nhà nhỏ không có giường. Chủ nhân của nó không hề có nhu cầu sử dụng đến thứ tiện nghi này. Tôi hiểu điều đó v́ suốt đêm Ram Gopal ngồi trên chiếc tọa cụ bằng rơm của ông, không hề ngả lưng nằm nghỉ một chút nào. Sáng hôm sau, tôi kính cẩn thưa với tu sĩ Ram Gopal những lời này:

– Bạch thầy, những kinh nghiệm tâm linh của thầy quả thật là vô giá đối với con. Xin thầy mở ḷng từ bi truyền dạy cho con phép thiền định mà thầy đă thực chứng. Ram Gopal nh́n tôi với ánh mắt hiền từ đầy cảm thông:

– Ta hiểu ḷng của con, và ta cũng sẽ rất lấy làm sung sướng thu nhận được một người đệ tử như con. Nhưng điều đó không cần thiết nữa, bởi v́ con đă có một vị tôn sư c̣n cao cả hơn ta rất nhiều. Dừng một chút như để tôi kịp hiểu hết những lời đă nói ra, rồi vị tu sĩ mới nói tiếp:

– Vấn đề là sự chuẩn bị tự thân của chính con để tiếp nhận những tri thức được truyền trao từ một bậc thầy đă chứng ngộ. Điều đó có thể thấy rơ qua sự thay đổi tâm trạng của con từ khi mới gặp ta cho đến lúc này. Nếu con không sẵn sàng tiếp nhận, không một bậc tôn sư nào có thể giúp con đạt đạo cả. Trầm ngâm trong giây lát, vị tu sĩ nói tiếp:

– Có một điều mà ta không thể không thú nhận với con là chính ta vẫn c̣n đang miệt mài trên đường cầu đạo. Những ǵ ta đạt được chưa phải là đă đủ, và chưa mang lại cho ta sự giải thoát hoàn toàn.

– Bạch thầy, nhưng con nghe nói thầy đă trải qua nhiều năm công phu tu tập.

– Đúng vậy, nhưng điều đó không có nghĩa là ta đă chứng ngộ hoàn toàn. Mặc dù những kết quả ta đă đạt được là không thể phủ nhận, nhưng con đường sắp tới cũng vẫn c̣n đầy gian nan vất vả.

Dừng một chút như để nhớ lại quá khứ, rồi người cất giọng đều đều kể lại:

– Ta đă trải qua 20 năm tu tập thiền định đầu tiên trong một hang đá cô tịch, mỗi ngày trung b́nh là 18 giờ đồng hồ. Sau đó, ta t́m đến một động đá xa xôi hẻo lánh hơn nữa để chuyên tâm tu tập trong 25 năm tiếp theo, mỗi ngày khoảng 20 giờ đồng hồ trong thiền định. Sau giai đoạn này, ta không cần phải ngủ như người thường, v́ ta t́m được sự nghỉ ngơi cho tinh thần và thể xác ngay trong khi thiền định tỉnh giác. Hơn thế nữa, ta đă khám phá ra rằng giấc ngủ hoàn toàn không c̣n có lợi cho những kinh nghiệm tâm linh của ta. Trong giấc ngủ, một số bộ phận cơ thể quả thật có được nghỉ ngơi, nhưng c̣n nhiều bộ phận khác vẫn phải hoạt động b́nh thường. Đôi khi, bộ óc c̣n phải làm việc căng thẳng hơn cả b́nh thường nếu c̣n ôm ấp một suy tư nào đó vào giấc ngủ. Ngược lại, trong trạng thái nhập định và đạt đến sự buông xả hoàn toàn, cơ thể ta thật sự được nghỉ ngơi trong sự tỉnh thức. Ta rơ biết mọi việc diễn ra trong nội tâm cũng như bên ngoài ngoại cảnh, nhưng lại hoàn toàn buông xả không vướng mắc bất cứ sự việc ǵ. Trong trạng thái đó, người ta không bao giờ mệt mỏi mà ngược lại c̣n có thể hồi sức rất nhanh nếu như trước đó đă phải làm điều ǵ mệt nhọc. Ta đă trải qua nhiều năm như vậy rồi, v́ thế những người quen biết ta đều gọi ta là “vị tu sĩ không ngủ”. Tôi rất ngạc nhiên khi nghe được những lời này. Không giấu được sự hoang mang, tôi buột miệng hỏi ngay:

– Bạch thầy, công phu tu tập của thầy như vậy, dù suốt đời cũng chưa chắc ai theo kịp. Như vậy mà thầy c̣n chưa đạt đến sự chứng ngộ hoàn toàn, vậy th́ những kẻ mới nhập đạo như con đây làm sao dám có chút hy vọng ǵ? Ram Gopal nh́n tôi, bật cười hồn nhiên như trẻ con:

– Con thật dại dột. Vậy ra con tưởng rằng có thể đạt đến sự chứng ngộ hoàn toàn sau bốn hoặc năm mươi năm công phu tu tập hay sao? Tuy nhiên, con cũng đừng vội thất vọng. Chính ngay khi con bắt đầu côngphu tu tập đúng hướng, là lúc con đă bắt đầu cảm nhận được sự giảm nhẹ những khổđau và tiến dần đến một đời sống thanh thoát không hệ lụy. Hiểu được điều đó, con mới có thể vững bước trên đường tu tập mà không chán nản, thất vọng, nhưng đồng thời cũng không c̣n nuôi ảo tưởng sẽ đạt được chánh đạo chỉ bằng vào sự cố công trong một thời gian hạn hẹp của cuộc đời này. Đến đây th́ tôi đă hiểu ra được những điều tu sĩ muốn truyền đạt. Tuy rất ngạc nhiên, nhưng tôi cũng nhận ra là những điều này đă xóa tan rất nhiều ư tưởng ngờ vực trong tôi từ lâu nay. Chúng tôi tiếp tục câu chuyện trao đổi mà bản thân tôi phải thừa nhận là càng lúc càng thấy lư thú hơn. Ram Gopal kể cho tôi nghe về dịp gặp gỡ của người với đức Babāji, sư phụ của thầy Lahiri Mahāsaya. Tôi vui mừng mà ghi nhận những mẩu chuyện kể của người như những kinh nghiệm tâm linh vô giá mà tôi rất cần đến trên đường học đạo. Tôi quyết định lưu lại Ranbajpur thêm một đêm nữa với vị tu sĩ không ngủ này. Và trong suốt đêm thứ

hai dưới mái nhà tranh kỳ lạ này, chính tôi cũng không hề ngả lưng nằm ngủ chút nào. Tôi tập trung tinh thần ngồi thiền quán suốt đêm như Ram Gopal. Điều kỳ lạ là đến khoảng nửa đêm th́ tôi có cảm giác nhưđêm tối không c̣n hoang vắng nữa. Tôi cảm nhận rất rơ ràng một mối quan hệ giữa tôi với vị tu sĩđang ngồi bên kia bức vách đất, như thể chúng tôi chỉ là một cơ thể thống nhất với nhau. Tôi thấy tâm hồn ḿnh vô cùng sảng khoái và cảm nhận những luồng ánh sáng diệu kỳ tỏa ra từ thân thể của vị tu sĩ như những hào quang của chính ḿnh. Hơn thế nữa, đến khoảng gần sáng th́ tôi cảm nhận được cả thầy tôi, đức tôn sưŚrī Yukteswar đang ngồi thiền ở cách tôi hàng trăm cây số tại tu viện của người. Tôi như đọc được ư tưởng của người trong im lặng: “Này con yêu dấu, ta không trách mắng con v́ sự dại dột của con khi đă căi lời ta. Đó là việc vẫn thường xảy ra cho những kẻ sơ cơ học đạo. Ta sẽ dắt dẫn con tiếp tục con đường mà chúng ta đă hứa hẹn với nhau từ muôn kiếp trước là sẽ cùng nhau dấn bước.” Sáng hôm sau, trước khi từ biệt tôi kể lại những điều đă cảm nhận trong đêm qua cho Ram Gopal nghe. Vị tu sĩ cười và nói:

– Ta hy vọng là con hài ḷng về món quà ấy của ta và sẽ không thấy hối tiếc v́ đă phải vất vả t́m đến đây. Con hăy vững tin đi, một ngày kia rồi con sẽ có thể tùy ư đạt đến những kinh nghiệm tâm linh như thế mà không cần đến sự giúp sức của ta nhưđêm qua.

Khi ấy tôi mới hiểu ra được chuyện ǵ đă xảy ra. Th́ ra chính nhờ sự trợ lực của vị tu sĩ không ngủ này mà tôi đă bất ngờ đạt đến một kinh nghiệm tâm linh mà lẽ ra phải nhiều năm sau tôi mới có thể tự ḿnh đạt đến. Tôi thầm cảm ơn người v́ điều đó làm củng cố rất nhiều niềm tin trong tôi. Tôi thành kính quỳ xuống hôn hai bàn chân của ngài để tỏ ḷng tôn kính và quyến luyến trước khi chia tay, và người cũng dùng tay xoa đầu tôi như một cử chỉ yêu thương, khuyến khích mà các vị tôn sư thường ban cho đệ tử khi hài ḷng với sự tu tập của họ. Sau khi chia tay với vị tu sĩ không ngủ, tôi đi bộ băng đường rừng để trở lại Tarakeswar chỉ trong chưa đầy hai giờ đồng hồ. Vừa vào đến thành phố, tôi quay trở lại ngôi đền thiêng và thành kính lễ bái như một lời sám hối. Tôi cảm thấy không phải ḿnh đang quỳ lạy một tảng đá nữa, mà như có cả mười phương chư Phật đang chứng giám cho tấm ḷng thành kính hối lỗi của tôi. Khoảng một giờ sau, tôi đă hân hoan ngồi trên xe lửa trở về Calcutta. Nhiệt t́nh cầu đạo của tôi giờ đây không hướng đến Hy Mă Lạp Sơn xa xôi hoang vắng nữa, mà lại hướng về dưới chân sư phụŚrī Yukteswar, bậc tôn sư mà giờđây tôi đă hiểu là có sự gắn bó với tôi bằng tiền duyên từ bao đời trước. Ghi chú 1Một thành phố thuộc Uttar Pradesh của Ấn Độ ngày nay, nằm ven sông Rpti, một phụ lưu của sông Ghghra. Đây là trạm trung chuyển chính yếu của ngành đường sắt, nằm trong một vùng đất màu mỡ phía đông Uttar Pradesh, và là trung tâm mua bán

ngũ cốc, gỗ súc trong vùng này. Thành phố được thành lập từ khoảng thế kỷ 15, bị sụp đổ nặng nề bởi trận động đất năm 1934, và sau đó được xây dựng lại. Từđó thành phố này đă phát triển mạnh mẽ thành một trung tâm sản xuất hàng dệt may và đường. 2Tức là Bồ Tát Quán Thế Âm, tên Phạn ngữ là Avalokiteśvara.

 11Trong sách Thiền Uyển Tập Anh có ghi chép lại một số trường hợp các thiền sư Việt Nam có khả năng phi hành trên không như Không Lộ, Từ Đạo Hạnh... (Người dịch) 12Vị thầy này trùng tên với sư phụ của tác giả là Lahiri Mahasaya, nhưng sư phụ của tác giả là đệ tử của đức Tổ sư Babaji. 13Lumbinī (vườn Lam-tỳ-ni): thánh tích nơi đức Phật Thích-ca đản sanh, về sau vua A-dục có dựng trụđá để ghi nhớ nơi đó, đến nay trụđá này đă được t́m thấy. 14Người Ấn dùng chăn quấn quanh ngang hông như một cách trang phục, giống như ta mặc quần. 15Giống cọp cực kỳ hung dữở vùng rừng già thuộc tỉnh Bengal. 16Một số tu viện ởẤn Độ không ăn chay. Người tu được phép dùng các món thịt được xếp vào loại “tam tịnh nhục”, bao gồm thịt của những con vật ḿnh không giết, không nh́n thấy người khác giết, và không phải bị giết để nhằm mục đích thết đăi ḿnh.

COPYRIGHT (C) 2008 MINHTRIETMOI.ORG. ALL RIGHTS RESERVED. DESIGN BY FREE CSS TEMPLATES.

“Vn vt thái b́nh”, “Phước lành cho tt c chúng sinh”

 

BA MC ĐÍCH CA HI THÔNG THIÊN HC: ***

1- Tạo một trung tâm t́nh huynh đệ đại đồng trong nhân loại, không phân biệt chủng tộc, tín ngưởng, phái tính, giai cấp, hay màu da.

2- Khuyến khích việc học hỏi, đối chiếu giữa tôn giáo, triết lư và khoa học

3- Nghiên cứu những định luật thiên nhiên chưa giải thích được và những năng lực tiềm ẩn trong con người.

***

Muốn gia nhập Hội, bạn chỉ cần thừa nhận mục đích 1 và liên lạc với hội nơi quốc gia bạn cư ngụ; hay với một bạn hội viên nào bạn biết

Trụ sở hội Thông Thiên Học Quốc Tế: Adya, Chennai (Madras) 600 020 India

 

THEOSOPHICAL SOCIETY IN AMERICA

P.O. Box 270, Wheaton, IL 60189

Chi Bộ PHỤNG SỰ CHÂN LƯ Garden Grove, CA ***

Để t́m hiu và nhn min phí nhng sách Minh Triết Thiêng Liêng bng Vit ng ca Hi Thông Thiên Hc, hoc mun tham d nhng bui hc hi, tho lun MTTL, xin liên lc:

Garden Grove, California:

Hiệp Tô, đt: 714-638-8758, email: hiep6647@yahoo.com Nhựt Nguyễn, đt: 714-530-3853, email: nhutnguyen12@gmail.com Vân Hoàng, đt: 714-546-1229

Houston, Texas:

Văn Lư, đt: 832-372-7802 Email: vanlienly2004@yahoo.com