ÂN-SỦNG

 

Trong đời sống Tâm-linh của mỗi người, có một yếu tố vô cùng quan trọng, đó là ÂN-SỦNG hay ƠN-PHƯỚC, tức ÂN-HUỆ Thiêng-liêng.

Người hành giả công phu tu luyện, dũng mănh tu tấn, ví như chiếc thuyền do sức người chèo chống, dùng nhân-lực, sức bắp thịt mà đẩy cho thuyền tiến tới. Bởi gặp cơn gió ngược, dù có ra sức chống trả, thuyền cũng không tiến tới được bao nhiêu. Nhưng nếu gặp ngọn gió thuận chiều, đẩy con thuyền nhẹ nhàng lướt tới, khỏi phải vất vả khó nhọc mà thuyền đi rất xa. ÂN-SỦNG ví như ngọn gió thuận chiều ấy : đó tức là thiên-lực, có tác dụng h trợ vô cùng quí báu.

Ân-sủng hay ân-huệ Thiêng-liêng đến với người hành giả, thường là dưới h́nh thức một sự trợ giúp bất ngờ. Mầu nhiệm như một phép lạ, để cứu gỡ y một t́nh thế cấp-bách, khó khăn. Ân-sủng cũng đem lại cho y những phương tiện cần thiết trong việc thi hành sử dụng độ đời, cứu khổ pḥ nguy cho thiên hạ, hoặc trong việc tu tiến bản thân.

Mục sư Stanley Jones, một nhà truyền giáo Tin-Lành nổi danh, thuật lại câu chuyện ông được ân-sủng Thiêng-liêng như sau :

Tôi đă dành 40 mươi năm của cuộc đời tôi cho sứ mạng truyền giáo ở ẤN-ĐỘ. Trước hết, tôi khó mà chịu đựng được khí hậu nồng nực của xứ này và sự căng thẳng thần kinh tột độ do công việc bề bộn mà tôi phải đảm đương. Sau 8 năm làm việc không ngừng, tôi bị chứng suy-liệt của bộ óc và khủng hoảng thần-kinh đến ni tôi ngất xỉu trên diễn đàn, không phải một lần. Tôi được trở về xứ nghỉ phép một năm để tịnh dưỡng. Trên đường về xứ, tôi bị ngất xỉu một lần nữa khi tôi giảng vào một buổi lễ sáng chủ nhật cho hành khách trên tàu, và vị bác-sĩ của tàu bắt buộc tôi phải nằm yên trên giường trong suốt chuyến đi trở về.

Sau một năm tịnh dưỡng ở xứ nhà, tôi lại trở sang Ấn-Độ. Dọc đường, tôi dừng chân tại Phi-Luật-Tân để chủ tọa các cuộc họp hội tôn-giáo của giới sinh viên tại đại học Manila. Giữa những buổi hội thảo, tôi lại ngất xỉu nhiều lần. Các Bác-sĩ cho biết rằng nếu tôi đi qua Ấn-Độ, tôi sẽ bỏ mạng tại đó. Mặc dầu những lời cảnh báo của các lương-y, tôi vẫn tiếp tục lộ tŕnh sang Ấn-Độ, nhưng ḷng không phấn khởi và lại c̣n bị một cơn ám ảnh nặng nề.

Đến Bombay, sức khỏe tôi giảm sút đến nỗi tôi phải đi thẳng lên miền núi để tịnh dưỡng thêm vài tháng. Kế đó tôi trở xuống vùng đồng bằng để tiếp tục công việc truyền giáo. Nhưng chuyến đi này đă trở nên vô ích. Tôi lại ngất xỉu lần nữa và bắt buộc tôi phải trở lên miền núi để nghỉ ngơi tịnh dưỡng. Khi tôi trở xuống đồng bằng lần nữa, Tôi mới biết rằng tôi không thể chịu nổi sự vất vả khó nhọc của công việc truyền giáo dưới một khí hậu nóng như thiêu của vùng nhiệt đới. Tôi đă bị chứng suy nhược thần kinh, mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần. Sinh lực của tôi đă hoàn toàn khô cạn. Tôi nghĩ rằng đời tôi đă tàn, và tôi sẽ trở thành một phế nhân cho đến măn đời.

Nếu tôi không được một sự trợ giúp nào, bất luận từ đâu đến, chắc tôi sẽ phải từ bỏ công việc truyền giáo, trở về xứ nhà sống với nghề nông trại để mong được phục hồi sức khỏe. Đó là những giờ phút đen tối nhất của đời tôi.

Một đêm nọ tôi đang cầu nguyện, th́ một việc xảy đến đă làm cho tôi hoàn toàn thay đổi cuộc đời. Trong giờ phút tịnh tâm đó, khi tôi không c̣n nghĩ ǵ đến tôi nữa, th́ th́nh ĺnh một giọng nói vô thinh dường như nói với tôi rằng : “Con có sẵn sàng tiếp tục công việc mà ta giao phó cho con chăng? Tôi đáp : “Không ! laỵ Chúa, con chịu hết nổi rồi! Con đă hoàn toàn kiệt quệ cả thể chất lẫn tinh thần. Chắc là con phải bỏ cuộc!”

Giọng nói kia lại tiếp tục :”Nếu con để cho ta lo liệu và đừng lo nghĩ ǵ nữa, ta sẽ giải quyết cho con việc ấy”.

Tôi đáp không do dự : “Lạy Chúa, được như vậy con không c̣n thắc mắc ǵ nữa. Con xin giao vận mạng của con cho Ngài”.

Ngay khi đó, một niềm an-tịnh vô biên tràn ngập cơi ḷng tôi và thấm nhuần khắp trong cơ thể của tôi. Tôi biết rằng Ân-Sủng Thiêng-liêng đă đến với tôi. Một nguồn sinh-lực dồi dào đă xâm chiếm ḷng tôi. Tinh thần của tôi vọt lên cao, sức khỏe của tôi tràn đầy nhựa sống.

Tôi bước chân về nhà trong đêm ấy với những bước đi nhẹ nhàng, dường như chân không chấm đất! Những ngày sau đó, tôi không c̣n nhớ rằng tôi có một cái thể xác nữa. Tôi làm việc suốt ngày, thức đến khuya, và khi lên giường nằm, tôi càng thấy rằng đi ng cũng là thừa v́ tôi không hề mệt mỏi.

Kể từ đó trở đi, tôi vn làm việc ráo riết không ngừng suốt trên 20 năm nữa, chứng suy nhược thần kinh của tôi đă không c̣n trở lại. Sức khỏe thể chất, tinh thần và tâm-linh của tôi dường như được gội nhuần bởi một luồng sinh khí mới. Nay tuy đă 63 tuổi, tôi vẫn tràn đầy nhựa sống, vẫn không hề giảm sút ḷng hăng hái, nhiệt thành phụng sự nhân loại và niềm sống cho kẻ khác.

Bà Marcelle Auclair, tác giả quyển Le Livre Du Bonheur (Bí quyết của hạnh phúc), có viết như sau : Có những định luật huyền bí cai quản sự sống trên thế gian mà chúng ta không biết ǵ cả.

Khi tôi có ư định viết quyển sách “Đời sống của Thánh-Nữ Therese d’Avila, v́ cảm thấy rằng đó là một việc cần thiết và khẩn cấp, Tôi liền quỵết định ngay không hề do dự. Xét trên khía cạnh thực tế, đó là một việc điên rồ v́ tôi sẽ phải để mất ba năm công phu cố gắng vào công việc đó, và không thể làm công việc ǵ khác để mưu sinh.

Tôi bèn rút lui về quê để giảm thiểu tất cả mọi việc phí tổn đến mức tối đa và bắt tay vào việc. Nhưng th́nh ĺnh tôi nhận được giấy báo của sở thuế vụ đ̣i tôi 99.000 quan tiền thuế xuất bản sách, và đ̣i phải trả gấp, nếu không trả đúng kỳ hạn, nhà tôi sẽ bị phát măi.

Tôi không rối loạn, tôi bèn làm như thường lệ, mỗi khi có một biến cố ǵ quan trọng xảy đến trong đời, là tôi bỏ hết mọi việc nhà và…đi dạo chơi! Tôi vừa đến Paris th́ tôi được bức thư của nhà xuất bản gửi từ Luân-Đôn, trong đó có kèm theo một chi phiếu 99.000 quan, không hơn không kém một đồng. Tôi nhầm nghĩ đây là một sự tính lầm, v́ mọi sự thiếu đủ giữa tôi và nhà xuất bản kia đă được thanh toán từ lâu. Tôi bèn viết thư cho ông Giám Đốc nhà xuất bản ấy và nói cho ông biết sự thật như thế.

Ông ta trả lời : “Chúng tôi tính sổ lại th́ quả đúng là chúng tôi c̣n thiếu bà 99.000 quan. Vậy bà hăy cứ nhận số tiền đó!

Tôi c̣n đang do dự không biết tính sao, th́ một bà bạn tôi nói : “Sao chị chậm hiểu vậy? Như thế chẳng phải là bà Thánh Theresa trả thuế giùm cho chị đó sao?”

Tôi bèn nghĩ ra, và coi số tiền đó như một số tiền mượn tạm . Khi có phương tiện, tôi sẽ riêng ra một số tương đương để trả lại khi nào họ đ̣i.

Với số tiền đó, tôi trả thuế ṣng phẳng. Ba năm sau, quyển sách của tôi đem xuất bản và bán chạy. Tôi bèn để riêng ra 99.000 quan một cách trịnh trọng để chờ trả lại cho nhà xuất bản.

Sáu năm sau đó, tôi mới nhận được thư mời đ̣i lại số tiền ấy của nhà xuất bản ở Luân-Đôn, với sự gải thích rằng sự tính lầm đó là do bởi người kế toán trưởng mắc đi nghỉ phép, người khác lên thay, v́ chưa quen việc nên tính lộn đầu lộn đuôi, xem gà hóa cuốc!...

Đó là nói về trường hợp ÂN-SỦNG của những người có sứ mạng lớn, c̣n những người thường như chúng ta th́ sao? Chúng ta có ÂN-SỦNG chăng và làm thế nào để có được ÂN-SỦNG?

Trước khi áp dụng những nguyên tắc và định luật tâm linh để kêu gôi ÂN-SỦNG thiêng-liêng đến với ta, ta hăy biết loại trừ những chướng ngại làm cho ta không tiếp nhận được ÂN-SỦNG, và giao cảm với Thiêng-liêng.

 

NHỮNG CHƯỚNG NGẠI CỦA ÂN-SỦNG

 

Muốn vun trồng cây ÂN-SỦNG cho nó được tốt tươi, đơm bông trổ trái, chúng ta phải diệt trừ những con sâu phá hoại. Đó là những con sâu sợ sệt, nghi ngờ, ích kỷ, chỉ trích, gièm pha, thù ghét, căm hờn…

1/- Sự sợ sệt : Người sợ sệt không bao giờ làm được việc ǵ có tánh cách xây dựng qui mô và bền bỉ. Sự sợ sệt là đầu mối của mọi tai họa, buồn thảm, thất bại và bịnh tật. Chúng ta sợ đủ thứ : Sợ nghèo, sợ đau ốm, sợ thất nghiệp, sợ tai họa bất ngờ, sợ mất người ḿnh thương yêu v.v…V́ sợ mất người yêu, nên mới sinh ra ghen tương, v́ sợ bị tấn công nên đâm ra hiếu chiến. ÂN-SỦNG không thể đến được với những người lúc nào cũng sợ sệt, ḷng không an ổn.

2/- Sự nghi ngờ : Sự sợ sệt gây nên sự nghi ngờ, là điều trái ngược với đức-tin. Nghi ngờ là một thái độ tiêu cực, chủ bại, nó phá hoại niềm tin nơi Thiêng-liêng và bởi đó ÂN-SỦNG không thể đến với những người ấy.

3/- L̉NG ÍCH KỶ : Người ích kỷ không thể có ÂN-SỦNG v́ y hành động trái ngược với Thiên-Cơ.

4/- SỰ CHỈ TRÍCH : Đầu độc bầu không khí tâm linh và ngăn cản tác động ban Ân-Huệ của Thiêng-liêng.

5/- SỰ THÙ GHÉT, CĂM HỜN : Ngăn trở tác động của Ơn Trên, v́ ÂN-SỦNG không thể xuất hiện ở nơi nào không có T̀NH THƯƠNG. Hăy có một tinh thần lạc quan, nh́n thấy mọi khía cạnh tốt của mọi người để tập thương yêu tất cả, không chừa một ai, không gạt bỏ ai ra ngoài t́nh thương của ḿnh.

Hăy quả quyết rằng mọi người đều tốt, những kẻ ruột thịt, những người chung quanh, bạn bè thân thuộc, những vị chủ nhân, công nhân nơi sở làm, dù ở cấp trên hay thuộc hạ của ḿnh, tất cả đều tốt. Kẻ thù, đối nghịch với ta cũng tốt, chí đến người la mặt đi ngoài đường.

Đó là bởi v́ tất cả những người ấy chẳng qua chỉ là cái phản ảnh của chính ḿnh, như cái bóng soi trong gương, Nếu ta thấy rằng họ tốt th́ chính là ta đă tốt rồi. C̣n nếu ta nh́n đời với cặp mắt bi quan, chỉ thấy chung quanh toàn là những người xấu xa bỉ ổi, lưu manh, côn đồ, th́ coi chừng… đó là cái phản ảnh của chính tâm-hồn ta đó!

Nói tóm lại, hăy có một thái độ cởi mở, hồn nhiên, lạc quan đối với mọi người, mọi vật, ban rải t́nh thương và cố gắng làm việc giúp đời. Đó là cái thái độ tinh thần cần thiết để có thể tiếp nhận ÂN-SỦNG Thiêng-liêng.

 

NGUYÊN TẮC

“ỐNG DẪN NƯỚC”(LOI DU CANAL)

ÂN-SỦNG Thiêng-liêng gồm cả khía cạnh tinh thần và vật chất, chỉ được lâu bền dưới một điều kiện căn bản, là người thụ hưởng phải hoàn toàn vô kỷ, vị tha.

Điều đó không có nghĩa là cấm ngăn ta không được tưởng nghĩ đến ḿnh và những người thân yêu của ḿnh, mà chỉ có nghĩa là ta chỉ nên coi mọi sự thỏa thích cá nhân như điều phụ thuộc chứ không phải là điều chính yếu. Nói cách khác, Ta đừng cầu xin ân-huệ Thiêng-liêng cho riêng ḿnh, mà trước hết phải v́ lợi ích chung cho thiên hạ. Những ǵ c̣n lại cũng sẽ quá đủ và thừa thăi cho ta sử dụng không bao giờ hết.

Ân-sủng chỉ đến với ta khi ta tác động thường xuyên như một ống dẫn nước, mở cả hai đầu. Chúng ta hăy lấy thí dụ một ống dẫn nước. Ong dẫn nước từ hồ chứa lớn dẫn vào nhà. Nếu ta khóa lại, nước sẽ bị rỉ sét, ứ động. Nếu ta chỉ mở có một nữa ṿi, chất dơ, chất đục được tống khứ ra ngoài, nhưng ta chỉ dùng được một số nước giới hạn. Nếu ta mở lớn ṿi nước, th́ trong toàn thể ống dẫn nước được lưu thông tự do, không chướng ngại, và đổi mới luôn luôn. Càng dử dụng hết bao nhiêu, nước mới càng tuôn ra thêm bấy nhiêu.

Bởi vậy, nếu muốn được Ân-sủng Thiêng-liêng, chúng ta hăy hành động giống như ống dẫn nước, nghĩa là như những người trung gian, chỉ có bổn phận duy nhất là tiếp nhận và chuyển đi nguồn sống Thiêng-liêng của Thượng-Đế cho muôn loài vạn vật, không cầu mong thụ hưởng điều ǵ khác hơn là được diễm phúc làm giai tṛ trung gian, hay Kinh Vận Hà chuyển đi thần lực của Thượng Đé để ban ri cho toàn thể nhân loại.

Nguồn sống Thiêng-liêng vẫn lưu thông vận chuyển không ngừng, và Ân-sủng Thiêng-liêng luôn luôn tuôn tràn xuống thế gian như những gịng suối không bao giờ cạn. Nếu chúng ta không biết sử dụng nguồn Ân-sủng đó, nó sẽ mất đi đối với chúng ta, nhưng vẫn không mất đối với nhân loại. Nếu chúng ta biết sử dụng nguồn Ân-sủng đó, ta sẽ được lợi lộc rất nhiều, mà nhân loại vẫn không v́ đó mà bị thiệt tḥi chút nào, v́ chúng ta chỉ là những đường vận hà, hay những ngướ trung gian.

Trong tinh thần phụng sự, hiến dâng, nguyện vọng của chúng ta càng thiết tha, chí hướng của chúng ta càng mănh liệt, th́ Ân-sủng đến với chúng ta càng dồi dào. Tự nhiên là với điều kiện rằng sau khi đă tiếp nhận được Ân-sủng, chúng ta sẽ ban phát cho hết để hoàn trả lại cho thế gian chứ không giữ lại một phần nào để dành riêng cho ḿnh.

ÂN-SỦNG KHÔNG THỂ ĐỂ DÀNH.

Trên địa hạt tâm-linh, Ân-sủng là một cái ǵ rất huyền diệu. Nó không thể tiết kiệm, để dành, mà đem ban phát rộng răi, phung phí đến mức tối đa. Ta càng cho ra, nó đến với chúng ta càng nhiều.

Dành dụm, tích trữ Ân-sủng để thụ hưởng lấy một ḿnh là tṛ chơi bịp bợm, rốt cuộc chỉ c̣n tay không.

Tất cả mọi sinh hoạt trong Trời Đất đều theo định luật tuần hoàn, và nguyên tắc đường vận hà, hay ống dẫn nước.

Sự hô hấp là sự trao dồi trường kỳ. Hăy thử tiết kiệm một ít không khí hít vào, buồng phổi không bài tiết đúng mức chất thán khí ra ngoài, sẽ mắc bệnh. Hăy thử giữ lại hết không khí trong buồng phổi, ta sẽ bị chết ngạt.

Cái cây tiếp nhận nguồn sống ở một đầu và ban phát ra sự sống ở một đầu. Mưa đem nước cho các nguồn suối và sông rạch, nước sông chảy ra biển, nước biển lại bốc lên thành mây và rơi xuống thành mưa.

Tất cả đều sinh hoạt theo định luật Tuần-hoàn. Những ǵ làm ngăn trở định luật ấy là một chướng ngại, rốt cuộc sẽ bị đào thải bởi cơ tiến hóa.

V́ con người có thói quen dành dụm, tích trữ, tiết kiệm, đầu cơ, nên họ mới bị thiếu thốn, khan hiếm và nạn đói kém, mất mùa. Trên địa hạt Tâm-linh, vốn không có sự để dành hay tích trữ để thụ hưởng riêng một ḿnh : dành dụm, tích trữ là một hành động thiếu đức-tin nơi Thiêng-liêng. Ta phải làm trái ngược lại : Hăy ban rải, bố thí, ban phát, cho ra đến mức tối đa, v́ cho…..tức là được cho ra, tức là để dành vốn liếng vào trong “Ngân hàng của Thượng-Đế”.

Trong những thử thách đến với người hành Đạo, không có ǵ tế nhị và rối rắm cho bằng vấn đề sinh kế để tự túc nuôi thân và đồng thời vẫn đeo đuổi cái lư tưởng v́ đó mà họ đă hiến dâng trọn vẹn cuộc đời ḿnh. Họ mong muốn có thể dành tất cả thời giờ vào công việc phụng sự, nhưng lại tự thấy ḿnh bận rộn về đủ mọi bổn phận đối với gia đ́nh và đối với người khác, và họ cảm thấy rằng họ không có quyền xao lăng và bỏ rơi những người ấy.

Về điểm này họ có lư, nhưng sở dĩ họ phải thắc mắc và không an tâm bởi v́ đức-tin của họ nơi Thiêng-liêng chưa được trọn vẹn, và chưa đạt cái mức độ mà nó phải đạt tới. Trong quyển Le Serviteur (Người phụng sự), ông Lazenby viết :

Có một định luật tuyệt đối và bất di bất dịch trên địa hạt tâm-linh, theo đó mọi nhu cầu vật chất, tinh thần của bạn và người mà bạn phải bo dưỡng, sẽ được thỏa măn mà bạn không cần phải quan tâm đến. Bạn cũng không cần lo nghĩ đến vấn đề ấy, nếu đời sống của bạn đă thật sự hiến dâng cho công việc phụng sự nhân loại.

Bạn đừng nghi ngờ chút nào về điều này, v́ tất cả những ǵ mà bạn cần dùng sẽ được Ơn Trên ban phát đầy đủ cho sự nhu cầu của bạn. Bạn sẽ được hưởng thụ sự phát triển đầy đủ, sung măn về thể chất, xúc cảm, trí thức và tinh thần, là những điều cần thiết cho hiệu năng phụng sự đắc lực của bạn sau này. Nếu sự hiến dâng của bạn thành thật và tiếp tục, th́ mấy việc đó sẽ được ban phát thêm cho bạn nữa. Đây không phải là vấn đề đổi chác, mua bán. Bạn không thể cho ra để nhận một vật ǵ như sự đền bù, mà bạn phải hiến dâng trọn vẹn, không nghĩ đến lợi lộc về sau, mặc dầu những Ân-huệ Thiêng-liêng chắc chắn sẽ đến với bạn.

 

TRƯỜNG HỢP CỦA ÔNG GEORGES BARBARIN :

Đây là trường hợp của ông Georges Barbarin, một văn-sĩ kiêm kư giả Pháp của thời kỳ cận đại. Ong chuyên viết phóng sự, kịch ngắn và truyện phim cho đài truyền thanh Pháp, về sau, do một mối duyên lành ông được tiếp xúc với những vấn đề đạo lư thâm sâu, ông bèn chuyển ng̣i bút sang việc viết sách Đạo.

Từ khi ông chuyển nghề, ông được Ân-sủng Thiêng-liêng tuôn tràn xuống cho ông. Trước kia, ông t́m đề tài rất khó khăn và viết sách một cách rất vất vả, tốn rất nhiều công phu và kết quả không có bao nhiêu, may lắm cũng chỉ vừa đủ ăn và đủ nuôi sống gia đ́nh. Nhưng khi ông bắt đầu viết sách đạo, th́ những đề tài tự nhiên xuất hiện dễ dàng, bao nhiêu ư tứ sâu xa thâm trầm từ đâu vọt tới cho ông chọn lựa, gạt bỏ đi không hết, thậm chí cả cách bố cục, kết cấu các đề mục đều xuất hiện sẵn sàng trong trí ông, ông chỉ cầm bút viết ra một cách dễ dàng, không cần phải nhọc công suy nghĩ.

 Vấn đề sinh kế và bảo bọc gia đ́nh của ông dường như được đảm bảo an toàn, ông không cần phải lo nghĩ đến. Ong nói trước kia ông thường phải lo lắng và thiếu thốn về vật chất, v́ ông làm việc riêng cho ông, với mục đích  cầu danh và mưu lấy lợi lộc ích kỷ. V́ thế, ông không hề được ân-sủng Thiêng-liêng. Nay ông được Ơn Trên chiếu cố và biệt đăi, đời sống vật chất được thoải mái, dễ chịu và đời sống tinh thần vô cùng dồi dào, phong phú, bởi v́ ông không làm việc riêng cho ḿnh, mà làm việc để phổ biến ánh sáng đạo lư cho thiên hạ.

Hồi đệ nhị thế chiến, đường giao thông bị bế tắc, các thứ nguyên liệu vật chất, giấy mực đều khan hiếm, các nhà văn ưu tú lỗi lạc gặp bao nhiêu nỗi chướng ngại, khó khăn, đều phải gác bút chuyển ngành. Riêng phần ông, sách viết ra đem xuất bản dễ dàng, không gặp chướng ngại ǵ cả, Cần bao nhiêu giấy, mực, nguyên liệu, nhân công ấn loát, đều có sẵn sàng, không hề thiếu thốn. Công việc trôi chảy đều đặn, dường như được che chở, giúp đ bởi một bàn tay vô h́nh, như một phép mầu mở toang các cửa bí mật diệu huyền để cho ông thành công được như ư muốn.

Ong đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, trước sự biệt đăi, trợ giúp vô cùng mầu nhiệm của Thiêng-liêng. Ong nói ông với Thiêng-liêng chẳng khác nào như hai người chuyền banh cho nhau, rồi giao qua chuyền lại không ngừng, từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây ! Ong cầu xin điều ǵ được ngay điều đó, muốn cái ǵ có cái đó, sự đáp ứng của Thiêng-liêng vô cùng bén nhạy và mau mắn. Có khi Ơn Trên đáp ứng những như cầu của ông trước khi ông cần dùng có khi cả hằng bao nhiêu tháng, có khi hằng năm !

Ong nói sở dĩ ông được ưu đăi như vậy bởi v́ Thiêng-liêng muốn dùng ông làm cái khí cụ trung gian, làm cái ng̣i bút để phổ biến đạo lư cho đời, v́ ông có cái khả năng viết một cách giản dị, b́nh dân, rơ ràng dễ hiểu.

Trong quyển Thiêng-liêng và Tôi (L’Invisible Et moi), ông Barbarin viết :

Sau khi nhận thức được đường lối hoạt động để hợp tác với Thiên-Cơ, tôi bèn từ bỏ trong vài tháng những công việc làm từ trước đến nay vẫn bảo đảm vấn đe sinh kế của tôi, và tôi phó thác cho Thiêng-liêng vấn đề bảo dưỡng sự sống của tôi và gia đ́nh tôi. Ban đầu, việc ấy không phải là không gây ít nhiều hoang mang, lo ngại, v́ bản tính con người là không sẵn sàng từ bỏ những thói quen và nếp sống cũ để tập tự ḿnh điều khiển lấy cuộc đời như ư ḿnh muốn.

Quyết định đó là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, nó làm cho tôi sợ hăi một ngày mai bấp bênh, vô định. Bạn bè tôi và mọi người chung quanh đều khuyên tôi nên dè dặt. Nhưng tôi nghĩ rằng Đức-Tin chỉ thật sự hữu hiệu nếu tôi dựa vào nó một cách hoàn toàn và tuyệt đối không một chút do dự. Chúng ta cảm thấy sợ hăi đối với cuộc đời, cũng như người mới tập lội đứng trước ḍng nước. Sự nghi ngờ đối với khả năng của chính ḿnh làm cho người ấy không thể sử dụng trọn vẹn những tài nguyên và sức lực của y.

Hăy Phó-Thác Vận Mạng cho Thiêng-liêng giống như khi ta nằm trên mặt nước :

Khi tôi mới tập lội, tôi biết trên lư thuyết tất cả những động tác bơi lội phải làm như thế nào. Tôi chỉ c̣n thiếu sự thực tập dưới nước mà thôi. Tôi không dám nằm nga trên mặt nước, theo động tác ‘thả tàu’, v́ tôi sợ ch́m. Bởi đó, tôi không tiến bộ được bao nhiêu, cho đến một ngày nọ tôi quyết định biểu lộ một niềm tin tưởng trọn vẹn đối với nước.

Tôi tự nhủ rằng nếu quả thật trọng lượng của thân thể con người cũng xấp xỉ tương đương với trọng lượng của nước biển (densite), th́ đương nhiên tôi phải nổi trên mặt nước, miễn là tôi hợp tác với sức ép của nước, và nhất là đừng làm động tác ǵ ngăn trở nó.

Kết quả của quyết định ấy là tôi nằm ngữa trên mặt nước với một niềm tin vững chắc, và mặt nước chở tôi cũng như một tấm nệm rất êm ái.

Sự phó thác vận mạng của ḿnh cho Thiêng-liêng cũng y như vậy, không có cách nào khác hơn là sử dụng Đức-tin tuyệt đối.

Trong đoạn khác, tác giả viết :

Sự trợ giúp của Thiêng-liêng đến một cách đương nhiên và tự động, khi ta vừa bắt tay vào việc và làm một động tác đầu tiên, nhưng không nhất thiết đúng như ta tiên liệu hay mong ước. Và chúng ta không thể làm ǵ được bằng sự cầu nguyện hay van vái Ơn Trên.

Thật vậy, sự trợ giúp đó chúng ta không thể cầu xin, hay nài ép, mà ta phải quan sát, và hiểu biết…Và khi ta hiến dâng đời ḿnh để phụng sự Thiên-Cơ, th́ Thiên-Cơ sẽ làm công việc của chúng ta, mà thậm chí sẽ giải quyết những sự khó khăn về vật chất của chúng ta, mà ta không cần phải tự ḿnh lo lắng hay quan tâm đến.

Anh hăy làm công việc của Thiêng-liêng, Rồi Thiêng-liêng sẽ giải quyết những công việc của anh.

Lẽ tự nhiên, môi trường tác động của Thiêng-liêng phần chính yếu là thuộc về địa hạt tâm-linh. Nhưng ta đừng lầm tưởng rằng Thiêng-liêng không chú ư đến khía cạnh vật chất, và cho rằng đời sống vật chất không đóng một vai tṛ quan trọng.

Chính thái độ của chúng ta trong đời sống phàm trần quyết định đời sống của chúng ta ở các cơi khác.

Mối tương quan, liên hệ của chúng ta với Thiêng-liêng vốn căn cứ trên những cách xử-kỷ, tiếp vật của ta trong đời sống hằng ngày, trên những phản ứng của ta đối với ngoại vật và đối với những biến cố thăng trầm của thế sự, thậm chí nó cũng căn cứ trên cả những tư tưởng, cảm nghĩ của ta hằng giây, hằng phút.

Bởi vậy, chính trong cai quản, sắp đặt hằng ngày của ḿnh mà chúng ta tạo sự giao cảm tâm linh với Thiêng-liêng, và chúng ta có sự thông công với Thượng-Đế.

Trước đây tôi có nói rằng khi tôi có được sự giác ngộ tâm linh và xoay chuyển ng̣i bút để phụng sự đạo lư, tôi gác bỏ mọi sự suy tính, lo âu về những cầu vật chất của tôi.

Về vấn đề này, tôi cũng thực hành cái bí quyết của người mới tập bơi lội, và tôi nằm ngữa trên mặt biển Tâm-linh vô h́nh vô ảnh, với Đức-tin trọn vẹn chắc chắn rằng Thiêng-liêng sẽ cung ứng đầy đủ mọi nhu cầu vật chất của tôi.

Coi chừng đừng ai hiểu lầm lời nói của tôi : Phương pháp này không thể đem áp dụng cho những kẻ lười biếng, hay những người nhát gan, sợ hăi đối với những sáng kiến mới lạ. Tôi đă làm việc không ngừng, theo những đường lối mà tôi thấy là tốt đẹp, và tôi phó mặc cho Thiêng-liêng sắp xếp hậu quả của những ǵ mà tôi đă gieo.

Thỉnh thoảng, tôi thường lâm vào những t́nh trạng thiếu hụt tài chính bi đát đến nổi, nếu tôi nh́n bằng cái nhăn quan và tâm trạng cũ của tôi khi xưa, th́ cái viễn ảnh đen tối của tương lai có lẽ đă làm tôi phát sợ.

Nhưng bây giờ, tôi không c̣n biết sợ sệt, lo âu ǵ nữa khi mà tôi sống trong sự hợp tác với thiêng-liêng. Tôi biết rằng Thiêng-liêng sẽ giải quyết những sự khó khăn, thiếu thốn của tôi khi tôi làm công việc của Ngài, Tôi xin viện dẫn một bằng chứng cụ thể :

Ngày 18/6/1937, chúng tôi c̣n thiếu thợ hồ 3.700 quan, thợ mộc 4.000 quan, và thợ sửa xe 500 quan, (Tổng cộng trên 8.000  quan). Ngoài ra, c̣n phải trả lương cho người làm khoán công nhật và trắc-địa-viên, trong khi đó chúng tôi chỉ c̣n có 370 quan trong ngân quỹ, mà c̣n phải trả tiền đổ xăng để về Paris.

Ngày 12, tôi đă giao phó việc đó cho Thiêng-liêng định đoạt. Tôi khẳng định trong nội tâm sự b́nh an, sức khỏe, sự phong phú, sung măn, và tôi ngũ yên với trọn niềm tin trong ḷng.

Ngày 17, tôi chỉ nhận được một bức thư không quan trọng.

Ngày 18, không có ǵ (Đó là một việc bất thường).

Ngày 19, người đem thư đem đến cho tôi :

Một ngân phiếu của nhà xuất bản, mà đúng lẽ ra đến tháng 12 mới tới kỳ thanh toán tiền bạc sổ sách (tức là trả tiền sáu tháng trước kỳ hạn).

Một bức thư của nhà xuất bản khác, cho biết y thỏa thuận kư kết một hợp đồng về việc in sách của tôi và bằng ḷng đưa trước một số tiền khá lớn khi hợp đồng đă kư xong.

Một bưu phiếu.

Một bức thư hành chánh, hoàn toàn bất ngờ và không thể tiên liệu trước, nó đem cho tôi một sự bảo đảm vật chất trong cả hiện tại và tương lai.

Sự trùng hợp của bốn việc trên đây xảy tới cho tôi cùng một lượt, thật là vượt quá mức độ Đức-Tin của tôi. Tôi không hề dám tiên liệu trước, và thậm chí cũng không nghĩ rằng những việc đó có thể xảy ra.

Tôi đă đặt trọn niềm tin nơi Thiêng-liêng, và thay v́ giảm bớt những nhu cầu vật chất, chúng tôi vẫn ăn tiêu rộng răi thoải mái, bởi v́ nếu muốn cho Ân-sủng tuôn tràn xuống như nước, th́ chúng ta cũng không nên khóa ṿi nước, mà phải mở lớn cho nước chảy x̣a ra không bị chướng ngại.

Những diễn biến xảy ra cho tôi đă xác nhận điều đó, và chúng tôi hề bị thiếu thốn vật ǵ, mặc dầu cuộc sống có vẻ bấp bênh, bởi v́ những tác động của Thiêng-liêng không phải diễn ra đúng y như chúng ta suy tính.

 

NGUỒN SỐNG DUY NHẤT

I/- VẠN VẬT ĐỒNG THỂ.

            Quan niệm về nguồn sống duy nhất là chánh yếu căn bản của Tôn-Giáo và là nền tảng Vững-Chắc của Đạo-lư. Từ ngữ triết học gọi là “VẠN VẬT ĐỒNG THỂ” tức là Vũ-Trụ duy nhất về Bản Thể.

Theo quan niệm này, th́ trong Trời-Đất có một sức mạnh, một sự sống Thiêng-liêng, Duy-Nhất và Đại-Đồng, tiềm tàng khắp mọi nơi, thấm nhuần tất cả vạn vật.

Sự sống Duy-nhất đó cũng là sức sáng-tạo nhiệm-mầu, nó dựng nên Trời-Đất và bảo tồn cả vũ-trụ càn-khôn. Ay là cái động lực điều khiển sự sinh hoạt của muôn loài, Nó ẩn-tàng trong mọi vật tư hột nguyên tử nhỏ bé cho đến quả tinh cầu trong không gian, Tất cả các loài, các giống từ kim thạch, thảo mộc, thú cầm cho đến loài người, tất cả đều đang chung sống với cái sức sống Thiêng-liêng ấy.

Sự sống duy nhất vĩ đại, mănh lực phi thường, quyền năng vô song ấy, vốn là một nguyên lư trừu tượng, siêu h́nh, được quan niệm dưới h́nh thức một Đấng Tối-cao, làm Chúa-Tể cả muôn loài vạn vật, người ẤN-ĐỘ gọi là Phạm-Thiên (Brahma), người phương Tây gọi là Chúa Trời, Lăo-Giáo gọi là Đạo, Phật-Giáo gọi là Chân-Như Phật-Tánh hay Chân-Như Đại-Thể, .v.v… Tuy có nhiều danh từ khác nhau, nhưng tập trung điều có nghĩa là cái Bản Thể Duy Nhất của Vũ-Trụ, triết học ẤN-ĐỘ gọi là Paramatma, Parabrahma, tức Đại-Thể, Đại-Hồn của Vũ-Trụ, và Tôn-Giáo công truyền gọi là Thượng-Đế.

Đức Thượng-Đế từ trạng thái vô cực tịch-tĩnh hư vô, hư không vắng lặng, tự biểu lộ ra thế gian. Ngài vốn bất sinh bất diệt, vô biên và trường cửu. Ngài là nguồn sống duy nhất, nguồn gốc của mọi sự sống và của mọi sinh vật trong Trời-Đất.

Nói về sự lớn lao vĩ đại, th́ không ǵ lớn bằng Ngài. Ngài lớn hơn cả không gian và bao gồm tất cả muôn vàn tinh tú, mỗi tinh tú là một trung tâm của một Thái-Dương-Hệ. Nói về sự nhỏ bé không v́ tế vi bằng Ngài, v́ Ngài cũng là sự sống trong nguyên tử, và không vật ǵ là quá nhỏ bé đến mức không chứa đựng một phần của sự sống Duy-Nhất Thiêng-liêng.

Ngài vốn không có h́nh thể sắc tướng, nhưng nhờ Ngài mà các sắc tướng mới đẹp đẽ, nhờ ánh sáng của Ngài mà các màu sắc mới rực rỡ, và nhờ tư tưởng của Ngài mà các đường nét, mọi h́nh thể mới được cân đối tinh vi.

Sự sống Duy nhất của Thượng-Đế luôn luôn biểu lộ trong khắp thế gian. Những dăy núi non trùng điệp nói lên cái sức mạnh hùng vĩ của Ngài. Biển cả muôn trùng với những lượn sóng ba đào gầm thét diễn tả sự hoạt động của Ngài. Cụm rừng già thâu âm vắng vẻ giữa một buổi trưa mùa hạ phản chiếu sự trầm lặng của Ngài. Tiếng thông reo trên đỉnh đồi, gịng suối chảy róc rách trong khe núi, tiếng chim hót líu lo trên cành, đó là giọng nói của Ngài. Đồng cỏ thơm bát ngát điểm các đóa hoa rừng màu sắc xinh tươi, ánh nắng vàng trên băi cát, ánh trăng non mới mọc trên truông núi, đó là những trạng thái biểu lộ sự mỹ lệ của Ngài. Âm thanh của Ngài cũng biểu lộ trong những bài thơ tuyệt tác, những câu văn hào hùng, cũng như trong những khúc nhạc du dương, những âm điệu êm ái.

Ngài cũng là nguồn cảm hứng và lư tưởng của người sùng đạo chân-thành, của người tuẩn-giáo oanh liệt. Ngài biểu lộ sự dịu dàng xuyên qua t́nh người mẹ ru con, sự nồng nhiệt hứng khởi xuyên qua ḍng máu hăng say của tuổi trẻ, sự khiết bạch trong đôi mắt cô thiếu nữ thẹn thùa, và ḷng từ ái trong mọi nghĩa cử của những người giàu ḷng từ thiện, ra tay xoa dịu các vết thương đau khổ của người thế gian.

Ngài biểu lộ nơi Đấng Tiên-Tri, bậc Thánh-nhân, cũng như nơi nhà bác-học. Ngài cũng là sức mạnh, uy quyền của những Đấng Minh-quân, những nhà lănh đạo, sự hối hận của những nhà lầm lỗi, và ḷng xót thương của những bậc công-minh, Ngài hiện diện với các cơi, nhưng Ngài cũng ngự nơi ḷng người. Các cơi Trời phản chiếu sự vinh-quang của Ngài, nhưng cũng như người mẹ hiền, Ngài luôn luôn an ủi những ai đang đau khổ. Ngài là Đấng vinh-quang nhất, minh-triết nhất, vẹn toàn và thánh-thiện nhất. Ngài ban cho không ngừng, chính Ngài sáng tạo ra chúng ta, chuẩn bị chúng ta, nâng đỡ chúng ta tiến đến sự an-lạc.

Nếu ta nhận thức được sự duy nhất Thiêng-liêng là căn bản của Đạo lư và Tôn-Giáo, đời sống con người sẽ trở nên sáng sủa, tốt đẹp và an toàn. Là v́ con người vốn đồng một bản thể, trường cửu như Thượng-Đế, nên y không thể ngưng tồn tại mà vẫn có măi đời đời. Sự sống Duy nhất xuyên qua thiên h́nh vạn trạng trên thế gian, và mọi sự sinh hoạt riêng rẽ trong các h́nh thể sắc tướng này đều ḥa hợp với sự sống ấy. Chúng ta là những đứa con quây quần trong đại gia đ́nh của đức đại Từ-Phụ, và tất cả đều có liên hệ mật thiết với nhau. Đó tức là cái lư VẠN VẬT TƯƠNG QUAN vậy.

Khi chúng ta thấy được Đấng Thiêng-liêng trong muôn loài vạn vật, chúng ta sẽ ư thức được rằng ở cơi trần-gian chúng ta đang tiến đến một mục đích tràn đầy hạnh-phúc. V́ chúng ta chỉ là những phần tử bé nhỏ của một toàn-thể Thiêng-liêng, nên đương nhiên là chúng ta bất toàn, thiếu sót, và chính những sự bất-toàn thiếu-sót này tạo ra mọi sự mâu thuẫn, bất ḥa giữa con người. Nhưng các phần tử nhỏ bé này đang tiến đến sự toàn-thiện, toàn hảo, như lời khuyên của các Đấng Thiêng-liêng : “Các ngươi hăy trở nên toàn hảo, như các Đấng Ơn Trên đă được toàn hảo vậy”.

Tất cả các tiểu-ngă (Atma), tức linh hồn con người, dù siêu nhân hay phàm phu, hoặc thấp kém hơn nữa, đều là phần tử của cái Đại-Ngă Duy Nhất, nên tất cả đều tiến đến sự toàn hảo. Sự toàn thiện là sứ mạng của chúng ta, là mục đích Thiêng-liêng, duy nhất và xa xôi của mọi sinh vật.

Dầu ta ở bầu thế giới này hay ở bầu thế giới khác, trong sự phúc-lạc của cơi Thiên-Đàng hay là sự đau khổ của cơi địa-ngục, chúng ta cũng không thể thoát ra ngoài sự sống Duy nhất Thiêng-liêng v́ cái phạm vi của sự duy nhất ấy bao trùm tất cả vạn vật, tất cả càn-khôn thế giới. Một thi-nhân người Do-Thái đă nói : “Làm sao tôi có thể đi đâu mà cách xa với Ngài được ? Nếu tôi lên trời, th́ Ngài cũng Ngự sẵn nơi đây. Nếu tôi xuống địa-ngục, Ngài cũng ở đó. Nếu tôi lướt theo cảnh b́nh minh để đến tận nơi góc biển chân trời, th́ có bàn tay d́u dắt của Ngài”. Như vậy chắc chắn chúng ta sẽ được Ngài che chở và ban ân-huệ, và cứu cánh sẽ được Ngài cứu rỗi suốt đời.

V́ con người là những phần tử của sự sống Duy Nhất Thiêng-liêng, nên có thể t́m thấy Thượng-Đế nếu y chịu khó đi sâu vào nội tâm của ḿnh bằng phương pháp thiền-định. Pháp môn này đưa ta xuyên qua các bức màn cảm xúc, tư tưởng và dục vọng vô thường, nó che lấp điểm linh quang phát sinh từ nơi Ngài và tồn tại măi nơi Ngài. Ở trong nội tâm ta, chỉ có Chân-Ngă trường tồn mới là thiêng-liêng, bất-diệt. Bởi đó, thánh kinh ẤN-ĐỘ có dạy : “Khi ta biết một cục đất sét, ta sẽ biết được tất cả chất đất trong Trời-Đất; Khi ta biết một thoi vàng, ta sẽ biết tất cả chất vàng trong thiên-nhiên; Khi ta biết một thanh sắt, ta sẽ biết được tất cả chất sắt, mặc dầu các vật bằng đất sét, bằng vàng, bằng sắt ấy mang tên khác nhau. Đối với bản-ngă con người cũng thế, nếu ta biết một Tiểu-Ngă, ta sẽ biết được Đại-Ngă, tức là Thượng-Đế”.

II/- VẠN VẬT TƯƠNG QUAN.

Nguyên lư này cũng có liên hệ đến nguyên lư thứ nhất, tức là vạn vật đồng thể. Xét v́ vạn vật đều cùng một căn nguyên, cùng một thể chất, cùng một sự sống chung, một tâm thức chung cho toàn thể, nên trong vạn vật, từ giống rất nhỏ cho đến giống rất lớn, hết thảy đều có quan hệ với nhau rất mật thiết.

Xét riêng về loài người th́ nhân loại là một cái thể lớn mà mỗi cá nhân là một phần tử. Mỗi phần tử tiến hóa thế nào th́ có liên hệ đến các phần tử khác, v́ sự tiến hóa của mỗi cá nhân không phải là riêng rẽ biệt lập, mà là có liên hệ mật thiết với cuộc tiến hóa chung của toàn thể nhân-loại.

V́ thế, mỗi phần tử làm việc cho toàn thể, và bất cứ một việc Thiện hay Ac do một người làm tất có ảnh hưởng chung cho toàn thể nhân-loại. Trong vũ-Trụ, Mỗi tinh cầu có biến động ǵ thời có ảnh hưởng đến tinh cầu khác. Trên thế-gian, không có người nào là không cần đến người khác và không có nước nào  sống biệt lập mà không cần đến các nước khác.

Một người làm nên công ơn ǵ th́ ích-lợi cho cả toàn thể. Một người làm nên tội lỗi ǵ thời di-hại cho cả toàn thể. Cũng ví như trong thân thể con người một phủ tạng nào đó làm việc không đều tất có ảnh hưởng đến cơ thể, v́ sự rối rắm trong một bộ phận làm mất sự thăng-bằng và làm giảm mất sự điều ḥa của toàn thể châu thân. V́ thế trong vũ-trụ có cái định luật này là : “Hại người tức là hại ḿnh, giúp người tức là giúp ḿnh vậy”.

T́nh huynh-đệ đại đồng vốn căn cứ trên hai nguyên lư căn bản nói trên, Là vạn vật đồng thể và vạn vật tương quan.

Mỗi người tuy khác nhau về phương diện quốc-gia, chủng tộc, hoặc tâm t́nh tính chất, nhưng thật ra đều cùng một bản thể, và có liên lạc với nhau như anh em một nhà. Sở dĩ có sự chênh lệch, dị đồng về mọi phương diện tinh thần, vật chất, là do nơi tŕnh độ tiến hóa có kẻ mau người chậm, kẻ trước người sau, và cũng do nơi duyên nghiệp của mỗi người không ai giống ai.

Bởi đó, người học đạo tôn-trọng những sự dị đồng về tư tưởng và bao giờ cũng có thái độ khoan dung đối với mọi người. Sự khoan dung là đức tính căn bản đưa chúng ta đến sự thực hiện t́nh huynh-đệ đại-đồng trong tương lai, và mở ḷng bác-ái đối với muôn loài vạn vật.

Tất cả nhân loại đều bao gồm hỗn hợp trong một sự sống duy nhất, một t́nh bác ái thiêng-liêng. Nhưng nếu chúng ta luôn luôn nghĩ rằng ta là một phần tử riêng biệt ,và nổ lực chống lại mọi phần tử khác : Đó là một quan niệm sai lầm, đem lại khổ đau bất tận. Bao giờ ta c̣n nh́n đời theo quan niệm này, th́ sự an-tĩnh hăy c̣n xa. Trái lại, nó sẽ đến với ta một cách chắc chắn và vĩnh cửu khi chúng ta ư thức được TẤT CẢ LÀ MỘT.

V́ quan niệm ta là một phần tử riêng rẽ, chúng ta chỉ nghĩ đến quyền lợi cá nhân, mục đích cá nhân, vui buồn cá nhân : Đó là nguồn phiền năo. Do quan niệm đó, biết bao nhiêu người vơ vét không ngừng trong kho tài sản chung của nhân loại, và nếu ta lưu ư quan sát họ, ta sẽ thấy chính họ là những người bất măn nhất.

Một số khác không màng của cải vật chất, nhưng ham thu thập tài sản tinh thần để tiến hóa cho riêng ḿnh. Tuy đời sống của họ có phần thanh cao hơn, nhưng họ cũng chưa đạt tới hạnh-phúc.

Khi một người c̣n đang bị lôi cuốn bởi những dục vọng thấp hèn, th́ những ham muốn tinh thần nói trên tất nhiên là rất hữu ích v́ chúng sẽ giúp y giải thoát khỏi các dục vọng vật chất. Tuy nhiên, chúng không thể mang lại cho y sự yên-tĩnh, trừ khi nào bản ngă y được loại trừ để nhường chổ cho đại-ngă, để cho y sống với đại-ngă. Ngay trong đời sống hằng ngày, người quên ḿnh để mưu cầu  hạnh phúc cho kẻ khác là những người sung sướng nhất, c̣n kẻ chạy theo hạnh-phúc cá nhân thường là những người bất măn nhất.

Như vậy, sự yên-tĩnh không bao giờ đến với chúng ta khăng khăng đi t́m lợi lộc cá nhân, dù là những lợi lộc thanh cao. Nó chỉ đến với ta khi nào ta vứt bỏ cái cá nhân riêng rẽ, để ḥa ḿnh trong Đại-Ngă Duy Nhất tiềm tàng trong mọi người, ở mọi tŕnh độ tiến hóa.

Chúng ta đều là một phần tử của một khối nhân loại : Cái nghiệp quả của mỗi người đều có liên đới chằng chịt với nghiệp quả của Trần-Gian. Cho nên tất cả những đau khổ của thế-gian cũng là sự đau khổ của ta, Sự đọa lạc tủi nhục của thế-gian cũng là sự đọa lạc tủi nhục của ta. Ta đừng tưởng rằng ta có thể sống riêng biệt trong một tháp ngà không cần biết đến sự tối tăm đau khổ bên ngoài, mà ta có thẻ sống một cuộc đời êm đềm hạnh-phúc.

Ta không thể t́m thấy sự yên-tĩnh trong ḷng, ngày nào mà trên thế-gian c̣n có sự nheo nhóc lầm than, bần cùng khốn khổ. Chỉ có sự cố gắng hoạt động giúp đời bớt khổ; nâng đỡ che chở những kẻ yếu đuối khốn cùng; kề vai gánh bớt nghiệp quả của trần-gian là mới có thể đưa ta đến chỗ hạnh phúc trường cửu.

Hiểu biết Cơ-Trời mầu nhiệm, quyết giúp một tay thúc đẩy bánh xe tiến hóa để hợp tác với thiên-Cơ, đó là bí quyết của hạnh phúc đối với những người nào hiểu biết và cố gắng thực hiện Sự-Sống Duy Nhất trong cuộc đời hằng ngày của ḿnh.

HIỆN THỜI CHÚNG TA ĐĂ BƯỚC VÀO MỘT THỜI KỲ CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI MÀ SỰ PHÁT TRIỂN Ở TẤT CẢ MỌI TR̀NH ĐỘ TIẾN HÓA ĐỀU CÓ THỂ RẤT MAU CHÓNG,  BỞI V̀  ĐỨC CHƯỞNG-GIÁO SẮP LÂM PHÀM TẠO NÊN MỘT TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG MẠNH MẼ VÔ CÙNG, VỀ CÁC VẤN ĐỀ TÂM-LINH.

“Đức Di-Lạc Bồ Tát (Maitreya), vị Chưởng-giáo của thế-gian, hiện mang xác phàm thuộc chủng tộc Thanh-Te (Celta) Những khi Ngài lâm phàm để dạy dỗ nhân-loại trong tương lai gần đây như Ngài đă định, th́ Ngài sẽ dùng xác thân đă chuẩn bị sẵn của một vị đệ-tư.

Ngài có cái cốt cách phi phàm, toàn thân Ngài toát ra một ḷng bác-ái bao la đem nguồn an ủi cho hàng triệu chúng sinh. Giọng nói của Ngài thốt ra đem lại sự b́nh an cho cả thiên-thần và nhân-loại. Trong tương lai gần đây, tiếng nói của Ngài sẽ xuất hiện trên thế-gian, và t́nh thương của Ngài sẽ được ban răi cùng khắp tất cả những nơi tối tăm đau khổ…

Mong rằng chúng ta hăy chuẩn bị để đón rước Ngài khi Ngài lâm phàm và để phụng sự Ngài với tấm ḷng trung-kiên và thành kính.

                                   

 

(TRÍCH CHÂN SƯ VÀ THÁNH-ĐẠO của Charles V. Leadbeater)

DO PHẬT TỬ : LÊ NGỌC NAM (PHÁP DANH HOẰNG-LƯỢC) Sao chép lại tháng 7 năm (Canh Dần) 2010