Họp Thông Thiên Học ngày 7  tháng 9 năm 2019

 

http://www.thongthienhoc.com/bai%20vo%20toihocduoichonthay.htm

  SỰ ÍCH LỢI KHI Ở GẦN VỊ ĐẠO SƯ



Ở Ấn-Độ có nhiều vị Đạo Sư gọi là Gu-Ru (Gourou). Có vị ở một chỗ trong rừng núi, các vị đệ tử cất lều ở chung quanh đó. Có vị thường đi ta bà, đi tới đâu th́ học tṛ theo tới đó.

Học tṛ được ở gần Thầy th́ mau phát-triển về đường Tinh Thần v́ lư do sau đây:

Ta ở một ḿnh th́ phải ra sức luyện tập để mở mang vài tánh tốt và diệt trừ vài tánh xấu. Công việc nầy rất khó khăn và cực nhọc. Phải bền chí và cố gắng ngày nầy qua ngày kia, tuy nhiên chưa ắt cái hiệu quả được như ư muốn. Nhưng khi được ở gần Đạo Sư đă rửa sạch phàm tâm th́ trong lúc ngủ cũng như trong lúc thức, các vị đệ tử ở trong ṿng hào quang của Ngài. Những sự rung động cao siêu của hào quang bắt buộc mấy thể của đệ tử lần lần rung động đồng nhịp với chúng nó. Nhờ vậy các đệ tử trừ được các tật xấu và mở mang những tánh tốt một cách dễ dàng, mau lẹ. Trong vật lư học ta thấy rơ hiện tượng nầy: khi hai cái đồng hồ treo gần nhau mà sự chuyển động của hai quả lắc không đồng đều với nhau th́ quả lắc nào mạnh bắt buộc quả lắc yếu hơn phải lần lần ḥa nhịp với nó, bằng không th́ phải đứng lại.

Hiểu mấy lẽ trên đây rồi th́ thấy một khi ta được Chơn-Sư thâu nhận làm đệ tử chánh thức th́ hào quang của Ngài bao bọc ta ngày đêm không ngớt. Ta sẽ thay đổi về tâm tánh và mở mang trí hóa một cách nhanh chóng, bất ngờ. Tục gọi rằng “nhờ Đức của Thầy ḿnh”.THIÊN THỨ NHẤT

-----------

PHÂN BIỆN ( Le discernement )



Tánh PHÂN BIỆN chia ra làm 5 khoản như sau đây:

Một là: NHỮNG MỤC ĐÍCH THẬT (Les buts véritables).

Hai là: CÁCH SINH HOẠT CỦA BA THỂ : XÁC, VÍA, TRÍ (La vie des corps).

Ba là: ĐIỀU LÀNH VÀ ĐIỀU DỮ (Le bien et le mal).

Bốn là : PHẢI HẾT SỨC NGAY THẬT (Sois absolument vrai).

Năm là: T̀NH BÁC ÁI VÀ SỰ SỐNG THIÊNG LIÊNG

( L’altruisme et la vie divine )



1- NHỮNG MỤC ĐÍCH THẬT ( Les buts véritables )



Đứng đầu trong bốn đức tánh là tánh PHÂN BIỆN. Thường thường người ta hiểu nghĩa phân biện đây là phân biện sự chân và sự giả, nó dắt con người vào đường Đạo. Hiểu như thế thật trúng vậy, nhưng mà c̣n nhiều hơn nữa và phải phân biện không những khi mới vào đường Đạo mà phải phân biện trong mỗi bước, mỗi ngày, cho tới khi đi mút đường Đạo.

Đức Phật để Chánh-Kiến đứng đầu Bát-Chánh-Đạo. Chánh kiến đây tức là Tánh Phân Biện lẽ tà chánh.

Nhưng không phải dễ mà phân biện đâu. Phải mở trí khôn, phải nhiều kinh nghiệm mới có thể nói rằng biết phân biện được. Tuy vậy có nhiều điều xảy đến mà ta phân vân, cũng như đứng trước ngă ba đường cái, không biết phải theo lối nào cho đúng, bởi v́ ta chưa thông thạo về những điều đó.

Duy có một điều không thể sai lầm được là khi đă mở Trực Giác.

Nói cho đúng Trực Giác vốn thuộc về Kim-Thân hay là Thể Bồ-Đề, nhưng Trực-Giác cũng có thể từ Thượng-Trí hiện xuống vậy, nếu ta sống một đời trong sạch và chân thật.

Ở đây, Chơn Sư dạy Alcyone phải phân biện cái nào là chân và cái nào là giả. Biết được rồi mới theo cái chân để bước vào cửa Đạo. Mà vào đường Đạo rồi cũng phải phân biện mỗi ngày, mỗi bước cho tới khi đi mút đường Đạo, tức là Đắc Đạo thành Chánh Quả làm một vị Siêu Phàm.

Tại sao phải luôn luôn giữ ḿnh và đề pḥng? Ấy tại kẻ nghịch là mấy anh trong bóng tối gọi là Bàn Môn Tả Đạo chực hờ để xô ngă chúng ta. Họ dựng lên nhiều cạm bẫy, nếu ơ hờ sẽ mắc vào đó rồi phải đau khổ suốt đời. Họ rất khôn quỉ, họ thấy ta, biết ta mà ta không thấy họ, không biết họ. Cái nguy cơ ở nơi đó. Những sự cám dỗ, những sự quyến rủ thật là tế nhị. Ta thấy được hưởng hoàn toàn hạnh phúc. Nhưng than ôi ! Chúng nó là những cục than đỏ, nắm tới th́ cháy tay buông ra không kịp. Những sự thử thách không phải chỉ có một loại hay là một thứ đâu. Chúng nó có muôn mặt khác nhau, chúng hiện đến bất ngờ; nhưng mà cái nào tới cho ta mà ta biết đó là sự thử thách th́ không c̣n là sự thử thách đối với ta nữa.

Nhưng, ta phải coi những sự thử thách là những điều cần thiết rất hữu ích, v́ nhờ chúng nó mà ta biết được những nhược điểm của ta ở chỗ nào để bồi bổ. Không vậy, không biết tới chừng nào ta mới trở nên khôn ngoan, sáng suốt. Có lửa đỏ mới biết tuổi vàng.

Vậy chớ nên cười những người vấp té, hăy thương họ. Hăy nhớ rằng: Cười người tháng trước, tháng sau người cười. Chạy đi đâu cho khỏi Luật Nhân-Quả báo ứng.

Những người ngày nay vững bước là nhờ trước kia, không biết bao nhiêu kiếp rồi, đă có nhiều kinh nghiệm đau khổ, cho nên học được những bài học hay, thấy lửa th́ tránh xa, không như anh Tất Đạt trong quyển “Câu chuyện của ḍng sông” biết lửa đốt cháy mà thử lửa coi nó có thật nóng hay không? [[7]]

Người hành Đạo không dám chê bai ai cả, v́ cái quá khứ của ḿnh không tốt đẹp hơn ai.

Điều hay hơn hết là lo nâng đỡ, khuyến khích, d́u dắt mà thôi.

Phải hiểu rằng: Dầu tới bực La-Hán cũng c̣n phải sợ bị lầm lạc, nói chi chúng ta đây là những kẻ chưa được sáng mắt, làm sao tránh khỏi việc té lên, té xuống cả trăm bận. Nhưng mà đừng ngă ḷng, cứ đi tới, ta sẽ thành công.

Trong quyển “Dưới Chơn Thầy” câu “. . . mới bước vào đường Đạo” là mới vào hàng Tu-Đà-Huờn, mới được Điểm Đạo lần thứ nhất. Vị Tu-Đà-Huờn phải phân biện mỗi việc từng li, từng tí, phải suy nghĩ chín chắn, phải cẩn thận, kỹ lưỡng từ chút; bởi v́ trước khi làm một vị Siêu Phàm được 5 lần Điểm Đạo th́ sự vấp ngă có thể xảy ra bất cứ lúc nào mà đáng sợ nhất là sau hai lần Điểm Đạo, phép tắc cao cường.

Con bước vào đường Đạo bởi v́ con biết rằng duy trong đó mới t́m được những việc đáng thâu lănh mà thôi.

Những người chưa hiểu biết làm lụng để trở nên giàu sang và có quyền thế nhưng hai cái tước lộc nầy dùng được lâu lắm bất quá là một đời mà thôi, bởi thế chúng nó là mộng ảo. Có nhiều việc lớn lao đáng t́m lấy hơn là sự giàu sang và quyền thế. Mấy việc ấy chơn thật và trường cửu. Một khi người ta thấy chúng nó rồi th́ không c̣n ham muốn điều ǵ khác nữa.

Tại sao chỉ trong Đường Đạo mới t́m được những điều đáng thâu lănh mà thôi?

Bởi v́ trong Đường Đạo mới dạy đúng sự thật cách sinh hóa Thái Dương Hệ nầy và lư do sinh sản các loài vật và con người.

Có học Đạo con người mới biết được bản tánh thiêng-liêng của ḿnh, những Luật Luân-Hồi, Nhân-Quả và phương pháp luyện tập để trở nên hoàn toàn sáng suốt trong một thời gian ngắn ngủi, thay v́ phải trải qua mấy muôn kiếp luân hồi mà chưa ắt thoát khỏi ṿng sanh tử dưới Phàm gian.

Có bạn sẽ hỏi: Làm sao con người biết được sự sinh hóa một Thái Dương Hệ? Giải ra th́ nhiều lắm, tôi xin tóm tắt lại vài đoạn thôi. Tôi xin nói rằng đây là tôi tŕnh bày theo Huyền-Bí-Học, khác hẳn khoa Thiên-Văn-Học hiện đại xin quí bạn miễn nghị.



NHỮNG THÁI DƯƠNG HỆ TRÊN KHÔNG GIAN



Thái Dương Hệ gồm một ngôi Mặt Trời ở chính giữa và những hành tinh xây chung quanh.

Mỗi Thái Dương Hệ đều do một Đấng Chí Tôn sinh ra xin gọi là Đức Thái Dương Thượng Đế (Logos d’un système solaire).

Không biết có bao nhiêu Thái Dương Hệ trên không gian, tuy nhiên người học Đạo nên biết rằng: tất cả những Thái Dương Hệ đều sắp theo hệ thống Cung và Chi. Có 7 Cung. Mỗi Cung chia ra 7 Chi. V́ vậy có thể nói rằng sự tiến hóa của các Thái Dương Hệ đều không giống nhau.

Mỗi Cung và mỗi Chi gồm không biết bao nhiêu Thái Dương Hệ, lớn có, nhỏ có.

Những Thái Dương Hệ lớn lại điều khiển những Thái Dương Hệ nhỏ đồng chung một Cung, một Chi.



NHỮNG THÁI DƯƠNG HỆ LỚN HƠN THÁI DƯƠNG HỆ CỦA CHÚNG TA



Ngày nay, người ta biết rằng: có những ngôi mặt trời lớn hơn ngôi mặt trời của chúng ta từ 400 – 500 lần cho tới cả triệu lần, như Canopus chẳng hạn.



ĐỨC THÁI DƯƠNG THƯỢNG ĐẾ CỦA CHÚNG TA.



Ngài vốn ở một Thái Dương Hệ khác đến. Thái Dương Hệ đó ra sao? Chúng ta không biết. Nhưng có một điều chắc chắn là nó lớn hơn và sanh trước Thái Dương Hệ của chúng ta không chừng 50, 60 tỷ năm.

Trước khi sanh hóa, Đức Thái Dương Thượng Đế của chúng ta chọn một chỗ trên không gian làm vị-trí Tiểu Vũ Trụ của Ngài. Hào quang của Ngài chiếu tới đâu dứt th́ chỗ đó là giới hạn giang sơn của Ngài.

Ngài có nhiều vị phụ tá, như các vị Hành Tinh Thượng Đế (Logos planétaire), các vị Bàn Cổ Mầm Giống (Manou semence), các vị Bàn Cổ Cội Rễ (Manou Racine), những vị Ngọc Đế, những vị Phật, những vị Đại Thánh, những vị Đế Quân, những Tiên Thánh, những Đại Thiên Thần, những Thiên Thần vân vân . . .

Các Đấng Cao cả nầy lập Thiên Đ́nh hay là Quần Tiên Hội trên mỗi bầu Hành Tinh để coi sóc sự sanh hóa và sự tiến hóa của các loài vật tại đây.

Các Ngài đào tạo những Đệ tử sau đắc Đạo thành Tiên, thành Phật, mỗi vị lănh một nhiệm vụ trên Thiên Đ́nh. Mối Đạo cứ tiếp tục truyền bá như thế từ thế kỷ nầy qua thế kỷ kia, cho tới ngày nay và mai sau nữa, không bao giờ dứt.

Hiện nay, tại quả Địa Cầu chúng ta, Cung thứ nh́ là Cung Đạo Đức và Giáo Dục do một Đấng Chí Tôn gọi là Đức Bồ Tát (Bodhisatva) đại diện cho Đức Phật chưởng quản.

Thuở xưa, Ấn Giáo, Ai Cập Giáo, Ba Tư Giáo (hay Hỏa Bái Giáo), Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Lăo Giáo, vân vân . . . đều có hai khoa giáo dục: một khoa gọi là Công Truyền hay là Hiển và một khoa gọi là Bí-Truyền hay là Mật để đào tạo các tín đồ.



KHOA CÔNG TRUYỀN HAY LÀ HIỂN

(Enseignement exotérique ou Exotérisme)



Khoa Công truyền để dạy quần chúng cho biết bổn phận làm người. Nó nhấn mạnh về khoa Luân Lư, tức là cách xử thế; nó chỉ bảo sự thờ phụng và cúng tế Thần Linh, cách cầu nguyện, dâng hương, tụng kinh, đọc kệ, niệm Phật, lần chuỗi, nhưng phải thật hiểu cho đúng ư nghĩa của những việc làm nầy mới khỏi mắc cái họa mê tín và tin dị đoan.

Quả thật mỗi việc trên đây đều có sự hữu ích riêng của nó, nhưng đừng quá chú trọng về những phụ thuộc là h́nh thức bên ngoài mà bỏ cái chánh cực kỳ quan trọng ở bên trong là phần Hồn, phần Tinh Thần. V́ vậy Chơn Sư mới bảo: “Chúng nó giống như những hàng đôi giúp con hồi c̣n nhỏ để viết cho đều đặn và ngay thẳng cho tới chừng nào con viết tốt và đều đặn rồi th́ con không c̣n nhờ cậy chúng nó nữa.”

Khoa Công Truyền giải một cách sơ lược sự hành động của Luật Luân Hồi, Nhân Quả, tức là có ư dạy con người phải tu đức trau ḿnh. Tất cả những kinh sách của tín đồ các Tôn giáo đang dùng bây giờ đều thuộc về khoa Công Truyền.

Những sự bí mật của Tạo Công đều nói một cách bóng dáng hay tượng trưng, không có bí quyết hay không có người chỉ bảo th́ không bao giờ hiểu nổi.
KHOA BÍ TRUYỀN HAY LÀ MẬT [[8]]

( Enseignement ésotérique ou ésotérisme )



Khoa Bí Truyền cũng gọi là Mật dạy sự sanh hóa một Thái Dương Hệ. Nó để đào tạo những vị Tiên, Thánh. Nó biến đổi con người thành một vị Siêu Phàm. Phương pháp của các Đấng Cao Cả dùng không hề tiết lộ ra.

Người ta chỉ biết khoa Mật vốn khẩu khẩu tương truyền và không bao giờ viết ra thành sách.

Muốn học được khoa nầy, kẻ chí nguyện phải quyết tâm và bền chí, chịu muôn vàn khổ hạnh và thử thách, tŕ trai, giữ giới, tự tĩnh, khắc kỷ, tức là lo Lập Hạnh. Ngày nào anh hội đủ những điều kiện do Luật Trời qui định th́ anh được phép bước vào cửa Đạo, v́ anh rất xứng đáng thọ lănh Chân Truyền.

Thiết tưởng cũng nên biết tại sao Tiên, Thánh rất nghiêm khắc trong việc chọn lựa và thâu nhận đệ tử. Ấy bởi các Ngài biết rằng: nếu kẻ chí nguyện chưa rửa sạch phàm tâm th́ thế nào cũng dùng những phép thần thông để thỏa thích những sự ham muốn nhỏ nhen, đê tiện của y. Y sẽ hại đời rất nhiều mà y cũng tự hại y nữa, v́ Luật Báo Ứng Tuần Hoàn sẽ trả lại cho y những ǵ mà y đă làm cho kẻ khác.

Tiên Thánh là những vị Phụ Tá Thiên Cơ, cho nên biết hết những việc quá khứ, vị lai và trường sanh bất tử.

Những điều các Ngài chỉ dạy vẫn không bao giờ sai. Chúng ta c̣n mắc trong ṿng luân hồi, nghiệp chướng, cứ đầu thai đi, đầu thai lại để học cho thật kỹ những bài mà chúng ta chưa thuộc làu, hoặc v́ bê trễ, hoặc v́ tối dạ nên không hiểu.

Hơn nữa, con người chưa mở trọn vẹn Hạ Trí, cho nên từ thế hệ nầy qua thế hệ kia cứ đưa ra những giả thuyết mới thay thế những giả thuyết cũ. Như vậy, không biết tới mấy muôn hay mấy triệu năm nữa ta mới nghe được Tiếng Chót của khoa học.[[9]]

Hiểu được sự thật rồi, ta mới thấy lời của Chơn Sư nói: “Duy trong cửa Đạo mới có những điều đáng nhận lănh mà thôi” thật là hết sức đúng.



VỀ SỰ GIÀU SANG VÀ DANH VỌNG



Về phương diện giàu sang và danh vọng: không phải cái đó là quấy. Chơn Sư đă nói: “Chúng nó dùng được lâu lắm là có một đời mà thôi”. Thật vậy, có khi Con Người chưa từ trần th́ gia tài, sản nghiệp, chức tước, quyền thế đă về tay người khác v́ Luật Nhân Quả. Trong Đạo Đức gọi chúng nó là mộng ảo. Chúng có thật, song không được vĩnh viễn trường tồn.

Một lẽ khác nữa: Uy quyền, thế lực, giàu sang là những quyền năng rộng lớn và mạnh mẽ. Nắm chúng trong tay th́ có thể làm mưa làm gió giờ nào cũng được. Làm lợi rất dễ dàng, mà làm hại cũng không khó.

Vậy th́ hăy dùng uy-quyền để làm những việc ích nước, lợi dân, tạo hạnh phúc cho quần chúng. Luôn luôn phải nhớ rằng: Luật Nhân Quả không dung tha những ai làm nghịch với Thiên Ư. Hễ gieo Nhân th́ gặt Quả. V́ vậy, giúp đỡ người, cứu độ người, tức là tự ḿnh giúp đỡ ḿnh, tự ḿnh cứu độ ḿnh. Trái lại, hăm hại người, hà hiếp người, tức là tự ḿnh hăm hại ḿnh, tự ḿnh hà hiếp ḿnh.

V́ vậy, lời xưa đă dạy:

Hữu thế bất khả ỷ tận.

Hữu phước bất khả hưởng tận.

Ỷ tận và hưỡng tận th́ tai họa sẽ đến cho ḿnh chẳng sai. Ta đă thấy nhiều gương trước mắt rồi.

Đừng quên rằng: lạm dụng uy quyền và sự giàu sang mà làm những chuyện bất nhân, thất đức, tạo ra những sự khổ năo cho đời th́ sẽ sanh ra những sự xáo trộn, những sự hỗn loạn chẳng nhỏ, e cho phải mất mấy chục năm sửa đổi mới mong lập lại được sự quân b́nh. Cũng nên hiểu nghĩa câu: Làm việc để trở nên giàu sang và có quyền thế.

Ở thế gian cái nghèo là một tai hại lớn lao. Nếu chúng ta không làm lụng để có tiền của để nuôi ḿnh và gia quyến cùng là gây dựng tương lai cho con cái th́ sẽ bị đói khó, không khác nào hai tay ta bị trói buộc không làm ǵ được cả.

Nhưng mà thường thường v́ người ta thấy giàu sang và quyền thế đem lại nhiều sự lợi ích, cho nên con người đi quá mức trung b́nh v́ ḷng tham vọng. Chỉ t́m đủ cách làm ra cho nhiều tiền đặng tiêu pha và sung sướng tấm thân, chớ không c̣n biết nhân nghĩa, bà con, họ hàng, bất chấp luân lư, cang thường; chỉ biết có ḿnh mà không biết có người, ai chết, ai đói, ai rách, ai khổ mặc ai; quên rằng tới một ngày kia, ai ai cũng phải nắm hai tay trắng mà xuống mồ.

Các vị Thánh Nhân, Hiền Triết đă có nhiều kinh nghiệm mới khuyên chúng ta giữ mực trung b́nh và t́m cái chi được vĩnh viễn chẳng bị thời gian tàn phá. Cái đó là Bản Tánh Thiêng Liêng của Con Người. Sự hiểu biết Luật Luân Hồi, Nhân Quả, Luật Hy Sinh, Luật Tiến Hóa và phương pháp phát triển Tâm Thức để làm một vị Siêu Phàm.

Thật vậy, khi người ta biết được sự mầu nhiệm của Đạo rồi th́ không c̣n muốn cái chi khác nữa.

http://anhduong.net/LinhTinh/Dec06/NhungNhaNgoaiCam/HoangVan-LoiNoiDau.htm

https://www.google.com/search?q=trung+t%C3%A2m+ti%E1%BB%81m+n%C4%83ng+con+ng%C6%B0%E1%BB%9Di+h%C3%A0+n%E1%BB%99i&rlz=1C1AWFA_enUS816US817&oq=trung+tam+tiem+nang+con&aqs=chrome.4.69i57j0l5.11550j0j4&sourceid=chrome&ie=UTF-8

https://translate.google.com/translate?sl=en&tl=vi&u=https%3A%2F%2Fwww.rickcollingwood.com%2Fblogs%2Fdifference-between-mesmerism-and-hypnosis

http://thongthienhoc.com/NHUNG%20BUC%20THU%20CHON%20SU%20GUI%20CHO%20SINNETT%20TIET%20II.pdf

Ta có thể trả lời con về điều mà ta đă nói cho G. Th. Fechner vào một ngày nào đó, khi y muốn biết quan điểm của người Ấn độ về điều mà y đă viết ra: “Con có lư . . . „mọi viên kim cương, mọi tinh thể, mọi cây cối và mọi ngôi sao đều có hồn riêng của ḿnh, chứ đừng nói chi tới con người và con thú . . .‟ „có một huyền giai các loại hồn từ dạng vật chất thấp nhất lên măi tới Hồn Thế giới‟, nhưng con sẽ sai lầm khi thêm vào điều nói trên sự quả quyết rằng „vong linh của người quá cố có liên lạc thông linh trực tiếp với các Linh hồn vẫn c̣n liên kết với một xác người‟ v́ điều này không hề xảy ra”. Chỉ có vị trí tương đối của các thế giới có người ở trong Thái dương hệ mới ngăn ngừa một khả năng như thế xảy ra. Đó là v́ ta tin rằng con đă từ bỏ cái ư tưởng kỳ quặc – là kết quả tự nhiên của việc được huấn luyện theo Ki Tô Giáo trước kia – theo đó không thể có những trí thông minh của con người ở nơi những vùng thuần túy tâm linh. Bấy giờ con sẽ dễ dàng hiểu được sự sai trái của các Ki Tô hữu – họ đốt cháy những linh hồn phi vật chất trong một địa ngục vật chất theo kiểu cơi trần – cũng như lỗi lầm của những nhà thần linh học có giáo dục hơn, họ tự ru ngủ ḿnh bằng cách suy nghĩ là bất cứ một công dân nào trong hai thế giới tương quan tương duyên trực tiếp với thế giới ta, đều có thể liên lạc được với họ.

Cho dù các Tinh thần thuần túy có thể là tinh anh và đă tẩy trược khỏi vật chất thô, th́ họ vẫn c̣n phải chịu các luật vật chất trên cơi trần và trong vũ trụ. Cho dù họ có thể bắc cầu vượt qua vực thẳm ngăn cách thế giới của họ với thế giới của ta th́ họ cũng không được phép. Họ có thể đến viếng thăm cơi của Chơn linh, nhưng Chơn linh không thể giáng xuống với ta. Các ngài có thể thu hút, nhưng các ngài không thể bị thu hút, cực tính Tâm linh của các ngài là một khó khăn trên đường đi mà ta không vượt qua được. (Nhân tiện xin nói, con không được tin tưởng quyển Nữ thần Isis lộ diện theo sát từng chữ một. Quyển sách này chẳng qua chỉ là một nỗ lực toan tính làm cho các nhà Thần linh học khỏi chú tâm tới những quan niệm tiên kiến của ḿnh về thực trạng của sự vật. Tác giả của nó được lệnh ám chỉ và nêu rơ theo chiều hướng đúng đắn bảo rằng sự vật không phải là ǵ, chứ không bảo sự vật là ǵ. Mặc dù có sửa bản in thử, nhưng vẫn có một vài lỗi lầm thực sự đă lẻn vào được ở các trang in chẳng hạn như trang 1, chương I, quyển I, trong  đó người ta để cho Bản thể thiêng liêng là phân thân của Adam thay v́ ngược lại mới đúng).

Một khi đă khởi đầu thuận lợi về đề tài này, th́ ta cố gắng giải thích cho con rơ đâu là chỗ không thể được. Lúc đó ta sẽ trả lời cho con về cả Chơn linh Hành tinh lẫn các “Vong linh” trong pḥng lên đồng.

Chu kỳ tồn tại thông minh bắt đầu nơi các thế giới hoặc hành tinh cao nhất – thuật ngữ “cao nhất” ở đây có nghĩa là hoàn toàn nhất về mặt tâm linh. Khi tiến hóa ra từ vật chất vũ trụ - vốn có akasa, môi trường nguyên sơ chứ không phải là môi trường mềm dẽo thứ cấp, tức là chất Ether mà Khoa học đă phỏng đoán theo bản năng, mặc dù chưa chứng minh được phần c̣n lại – con người trước hết tiến hóa từ loại vật chất này ở trạng thái tinh vi nhất, xuất hiện trước ngưỡng cửa của Vĩnh hằng với vai tṛ là một Thực thể hoàn toàn Tinh anh chứ không phải là một Thực thể Tâm linh, nghĩa là một Chơn linh Hành tinh. Y chỉ mới thoát thai từ Bản thể Thế giới Tâm linh và đại đồng vũ trụ - tức Anima Mundi của người Hi lạp, tức là điều mà nhân loại trong khi suy thoái về mặt tâm linh, đă làm bại hoại thành ra một Thượng đế nhân h́nh thần thoại. Từ đó trở đi, vào giai đoạn này, con người Tinh thần cùng lắm cũng chỉ là một Quyền năng tác động, một Nguyên khí bất di bất dịch v́ thế cho nên không biết suy tư (thuật ngữ “bất di bất dịch” lại được dùng ở đây để biểu thị cái trạng thái nhất thời, tính bất di bất dịch ở đây chỉ được áp dụng cho các nguyên khí bên trong vốn sẽ bị triệt tiêu và biến mất ngay khi tia lửa của vật chất nơi y bắt đầu công tác Tiến hóa và chuyển hóa theo chu kỳ).

Sau đó khi giáng xuống tỉ lệ với việc vật chất càng ngày càng tăng th́ y sẽ càng ngày càng khẳng định tính hoạt động của ḿnh. Thế mà tập đoàn các thế giới tinh tú (bao gồm cả bầu hành tinh trái đất) có những thực thể thông minh sống trên đó, có thể được so sánh với một tinh cầu hoặc đúng hơn là một ṿng ngoại luân tạo ra bởi những ṿng giống như một sợi dây xích bao gồm các thế giới tương quan tương duyên với nhau mà toàn thể biểu diễn một chuỗi vô tận tưởng tượng. Sự tiến hóa của con người qua suốt tổng thể này – từ điểm khởi đầu cho tới điểm kết thúc, hội tụ ở điểm cao nhất của chu vi – chính là điều mà ta gọi là Maha Yuga tức Chu kỳ Lớn, tức là Kuklos, cái đầu của nó bị khuất trong cái vương miện Tinh thần tuyệt đối, c̣n điểm thấp nhất của nó trên chu vi là vật chất tuyệt đối nghĩa là cái điểm nơi mà nguyên khí hoạt động không c̣n tác động nữa.

 Nếu dùng một thuật ngữ quen thuộc hơn, th́ ta sẽ gọi Đại Chu kỳ là Đại Vũ trụ, c̣n các thành phần của nó tức các thế giới tương quan tương duyên là Tiểu Vũ trụ, lúc bấy giờ ta sẽ thấy rơ ngụ ư của các nhà huyền bí học khi biểu diễn mỗi tiểu vũ trụ là một bản sao hoàn hảo của đại vũ trụ. Chu kỳ Lớn là Nguyên h́nh của chu kỳ nhỏ và v́ thế, đến lượt mỗi thế giới tinh tú đều có chu kỳ Tiến hóa của riêng ḿnh bắt đầu bằng một bản chất tinh anh hơn và kết thúc bằng một bản chất có tính cách vật chất hơn hoặc thô trược hơn. Khi giáng xuống, mỗi thế giới tự nhiên là biểu hiện ra một cách mờ nhạt hơn để rồi ở điểm đối chân trở thành vật chất tuyệt đối. V́ bị thôi thúc bởi xung lực tuần hoàn không cưỡng nỗi, cho nên Chơn linh Hành tinh phải giáng xuống trước khi ngài có thể thăng lên trở lại. Trong lộ tŕnh này ngài phải băng qua toàn thể cái thang Tiến hóa, không để bỏ sót một bậc thang nào, khi tạm dừng lại ở mỗi thế giới tinh tú th́ ngài coi đó là một trạm nghỉ chân, ngoài ra cái chu kỳ không thể tránh khỏi phải lần lượt ghé vào mỗi thế giới tinh tú đặc thù đó để hoàn thành ở đó “chu kỳ sống” của chính ḿnh, nghĩa là ngài phải trở lại luân hồi nhiều lần khi chưa hoàn tất chu kỳ sống của ḿnh ở đó, giống như khi 

 

https://www.theosociety.org/pasadena/mahatma/ml-9.htm

I may answer you, what I said to G. {T}. Fechner one day, when he wanted to know the Hindu view on what he had written — "You are right; . . . 'every diamond, every crystal, every plant and star has its own individual soul, besides man and animal . . .' and, 'there is a hierarchy of souls from the lowest forms of matter up to the World-Soul' . . .; but, you are mistaken when adding to the above the assurance that 'the spirits of the departed hold direct psychic communication with Souls that are still connected with a human body' — for, they do not." The relative position of the inhabited worlds in our Solar System would alone preclude such a possibility. For I trust you have given up the queer idea — a natural result of early Xtian training — that there can possibly be human intelligences inhabiting pure Spiritual regions? You will then as readily understand the fallacy of the christians — who would burn immaterial Souls in a material physical hell — as the mistake of the more educated Spiritualists, who lullaby themselves with the thought that any other but the denizens of the two worlds immediately interlinked with our own can possibly communicate with them? However etherial and purified of gross matter they may be, the pure Spirits are still subject to the physical and universal laws of matter. They cannot if even they would span the abyss that separates their worlds from ours. They can be visited in Spirit, their Spirit cannot descend and reach us. They attract, they cannot be attracted, their Spiritual polarity being an insuperable difficulty in the way. (By-the-bye you must not trust Isis literally. The book is but a tentative effort to divert the attention of the Spiritualists from their preconceptions to the true state of things. The author was made to hint and point out in the true direction, to say what things are not, not what they are. Proof reader helping, a few real mistakes have crept in as on page 1, chapter 1, volume 1, where divine Essence is made emanating from Adam instead of the reverse.)

Once fairly started upon that subject, I will endeavour to explain to you still clearer where lies the impossibility. You will thus be answered in regard to both Planetary Spirits and — seance room "Spirits."

The cycle of intelligent existences commences at the highest worlds or planets — the term "highest" meaning here the most spiritually perfect. Evoluting from cosmic matter — which is akasa, the primeval not the secondary plastic medium, or Ether of Science instinctively suspected, unproven as the rest — man first evolutes from this matter in its most sublimated state, appearing at the threshold of Eternity as a perfectly Etherial — not Spiritual Entity, say — a Planetary Spirit. He is but one remove from the universal and Spiritual World Essence — the Anima Mundi of the Greeks, or that which humanity in its spiritual decadence has degraded into a mythical personal God. Hence, at that stage, the Spirit — man is at best an active Power, an immutable, therefore an unthinking Principle (the term "immutable" being again used here but to denote that state for the time being, the immutability applying here but to the inner principle which will vanish and disappear as soon as the speck of the material in him will start on its cyclic work of Evolution and transformation). In his subsequent descent, and in proportion of the increase of matter he will assert more and more his activity. Now, the congeries of the star-worlds (including our own planet) inhabited by intelligent beings may be likened to an orb or rather an epicycloid formed of rings like a chain — worlds interlinked together, the totality representing an imaginary endless ring, or circle. The progress of man throughout the whole — from its starting to its closing points meeting on the highest point of its circumference — is what we call the Maha Yug or Great Cycle, the Kuklos, whose head is lost in a crown of absolute Spirit, and its lowest point of circumference in absolute matter — to viz.: the point of cessation of action of the active principle. If using a more familiar term we call the great cycle the Macrokosm and its component parts or the interlinked star worlds Microkosms, the occultists' meaning in representing each of the latter as perfect copies of the former will become evident. The great is the Prototype of the smaller cycles: and as such, each star world has in its turn its own cycle of Evolution which starts with a purer and ends with a grosser or more material nature. As they descend, each world presents itself naturally more and more shadowy, becoming at the "antipodes" absolute matter. Propelled by the irresistible cyclic impulse the Planetary Spirit has to descend before he can reascend. On his way he has to pass through the whole ladder of Evolution, missing no rung, to halt at every star world as he would at a station; and, besides the unavoidable cycle of that particular and every respective star world to perform in it his own "life-cycle" to, viz.: returning and reincarnating as many times as he fails to complete his round of life in it, as he dies on it before reaching the age of reason as correctly stated in Isis. Thus far Mrs. Kingsford's idea that the human Ego is being reincarnated in several successive human bodies is the true one. As to its being reborn in animal forms after human incarnation it is the result of her loose way of expressing things and ideas. Another, woman — all over again.

người ta chết đi mà chưa tới tuổi có lư trí (quyển Nữ thần Isis lộ diện đă nêu rơ một cách chính xác như vậy). Cho đến nay, ư tưởng của bà Kingsford theo đó Bản ngă con người phải luân hồi liên tiếp qua nhiều h́nh hài con người là đúng sự thật. C̣n về việc nó phải tái sinh trong h́nh hài của con thú sau khi đă nhập thể xác người, th́ đó là kết quả của việc bà diễn tả các sự vật và các ư tưởng một cách lơ mơ, chỉ là một NGƯỜI ĐÀN BÀ KHÁC THÔI, cứ như vậy măi. Tại sao bà lại lẫn lộn “Linh hồn với Tinh thần”, lại không chịu phân biệt hồn thú với hồn linh, không phân biệt được Jivatma (tức Linga Sarira) với Kama rupa (tức Atma Rupa) hai thứ này là hai thứ khác nhau, giống như thể xác khác với tâm trí, và tâm trí lại khác với tư tưởng. Điều xảy ra là như sau. Có thể nói là sau khi ṿng ṿng dọc theo ṿng cung của chu kỳ bên trong chu kỳ đó (sự quay ṿng trong một ngày và trong một năm của Trái đất là một ví dụ minh họa điển h́nh của việc này), khi con người Tinh thần đạt tới hành tinh ta (vốn là một hành tinh thấp nhất) th́ ở mỗi một trạm nghỉ chân nó đă mất đi một phần tinh anh để thu thêm được một phần vật chất, cả tinh thần lẫn vật chất đều trở nên hoàn toàn quân b́nh nơi con người. Nhưng rồi y phải hoàn thành chu kỳ trên Trái đất, và trong tiến tŕnh giáng hạ tiến hóa, tức tiến hóa theo chiều đi xuống, vật chất bao giờ cũng phấn đấu để trấn áp tinh thần, khi đạt tới điểm thấp nhất của cuộc hành tŕnh, Chơn linh Hành tinh đă từng có thời là tinh anh thấy ḿnh rốt cuộc chỉ thu gọn lại thành ra cái mà Khoa học đồng ư gọi là con người Nguyên sơ hay nguyên thủy, sống giữa một thiên nhiên cũng nguyên thủy xét về mặt địa chất học, v́ thiên nhiên vật thể vẫn theo bén gót con người sinh lư cũng như con người tâm linh trong đời sinh hoạt theo chu kỳ của y. Ở mức đó, THIÊN LUẬT vĩ đại bắt đầu công việc tuyển chọn của ḿnh.

Vật chất hoàn toàn tách rời khỏi tinh thần bèn bị đùn sang một thế giới c̣n thấp hơn nữa trở thành “GATI” thứ sáu, tức là “đường luân hồi” bao gồm các thế giới khoáng vật, thực vật và các h́nh thái động vật nguyên sơ. Từ đó trở đi, vật chất đặt căn bản nơi ḷ luyện thiên nhiên bèn diễn biến theo kiểu không có linh hồn, trở về với Suối nguồn Đất Mẹ; c̣n các Chơn ngă đă được tẩy trược khỏi mọi cặn bă lại có thể tiến bộ thêm một lần nữa. Lúc bấy giờ chính các Bản ngă lạc hậu sẽ bị tiêu diệt hàng triệu người. Đó là giờ phút long trọng của “sự sống c̣n của kẻ nào thích hợp nhất” và những kẻ không thích hợp sẽ bị hủy diệt. Như vậy, chỉ có vật chất (tức con người vật chất) mới bị bắt buộc (do sức nặng của chính ḿnh) giáng xuống tận đáy của “ṿng tṛn thiết yếu” để rồi khoác lấy các h́nh thái động vật nơi đó, c̣n kẻ chiến thắng trong cuộc chạy đua qua khắp các thế giới (tức là Chơn ngă Tâm linh) sẽ lại thăng lên từ ngôi sao này sang ngôi sao khác, từ thế giới này sang thế giới khác, cứ ṿng ṿng tiến lên để lại trở thành Chơn linh Hành tinh đă từng có lần tinh anh rồi c̣n tiến cao hơn nữa để cuối cùng đạt tới khởi điểm ban đầu và từ đó ḥa nhập vào điều BÍ NHIỆM. Chưa một bậc cao đồ nào đă từng thâm nhập vượt khỏi bức màn vật chất Vũ trụ nguyên thủy. Linh ảnh cao nhất, hoàn hảo nhất chỉ giới hạn vào thế giới H́nh thể và Vật chất thôi.

Nhưng lời giải thích của ta không chấm dứt ở đây. Con muốn biết tại sao dường như vô cùng khó khăn (nếu không phải là hoàn toàn không thể được) khi các Chơn linh thanh tịnh đă thoát xác muốn giao tiếp với con người thông qua các đồng tử tức là qua Thuật Giáng Ma. Ta xin nói đó là –

(a) V́ có những bầu không khí đối lập lần lượt bao quanh các thế giới này.

(b) V́ các t́nh huống về sinh lư và tâm linh hoàn toàn không giống nhau.

(c) V́ cái chuỗi thế giới mà ta vừa nói với con chẳng những là một ṿng ngoại luân mà c̣n là quỉ đạo của các kiếp sinh tồn theo h́nh ellipse; giống như mọi h́nh ellipse, nó chẳng những có một mà c̣n có tới hai tiêu điểm, hai điểm này không bao giờ tiến lại gần nhau được: Con người là một tiêu điểm của ellipse đó và Chơn linh thuần túy là một tiêu điểm kia.

Về điều này con có thể phản đối. Ta không thể giúp ǵ được con, cũng chẳng thay đổi được sự kiện, vả lại c̣n có một trở ngại khác mạnh mẽ hơn nhiều. Giống như một chuỗi tràng hạt bao gồm các hạt đen và trắng luân phiên nhau, cũng vậy, chuỗi mắt xích các thế giới được bao gồm bởi các thế giới NGUYÊN NHÂN và các thế giới HẬU QUẢ, thế giới hậu quả là kết quả trực tiếp của thế giới nguyên nhân. Như vậy hiển nhiên là mỗi bầu hành tinh Nguyên nhân (Trái đất của ta là một cái bầu đó) chẳng những có tương quan tương duyên với và bị bao bọc bởi, mà c̣n thực sự bị ngăn cách với bầu hành tinh kế cận nó nhất – là bầu Nhân quả cao hơn – do có một bầu khí quyển không thể xuyên thấu được (xét theo nghĩa tâm linh) bao gồm các hiệu quả giáp ranh với, thậm chí dính mắc với, nhưng không bao giờ ḥa lẫn với bầu hành tinh kế tiếp của ḿnh: đó là v́ một bầu hoạt động, c̣n bầu kia th́ thụ động, thế giới nguyên nhân là dương, c̣n thế giới hậu quả là âm. Sự chống đối thụ động này chỉ có thể khắc phục được với những điều kiện mà các nhà Thần linh học uyên bác nhất không hề có một ư niệm nào. Có thể nói rằng mọi chuyển động đều mang cực tính, thật khó mà diễn tả được ngụ ư của ta về vấn đề này, nhưng ta sẽ đi tới cùng. Ta biết ḿnh không thể chứng minh cho con thấy những điều đối với chúng ta là những sự thật có tính chất công lư dưới một dạng nào đó ngoại trừ việc đưa ra một định đề luận lư đơn giản; muốn làm như vậy chỉ có các bậc Thấu thị cao siêu nhất mới có thể chứng tỏ được chúng một cách tuyệt đối và dứt khoát. Nhưng dù sao đi nữa, ta cũng cung cấp cho con tư liệu để suy gẫm.

Các bầu hành tinh trung gian, v́ chỉ là h́nh bóng được phóng chiếu ra của các Thế giới Nguyên nhân, cho nên bị các thế giới nguyên nhân làm cho âm hóa [1]

. Chúng là những trạm nghỉ chân lớn, những trạm nơi mà các Bản ngă có Ngă thức mới mẻ - tức là con cháu tự sinh hóa của các Bản ngă đă thoát xác và già nua trên hành tinh ta – được thai nghén ở đó. Trước khi con phượng hoàng mới (tái sinh ra từ đống tro tàn của tổ phụ) có thể bay lên cao hơn tới một thế giới tốt đẹp hơn, hoàn hảo hơn, và có tính chất tâm linh hơn – vẫn c̣n là một thế giới vật chất – th́ nó phải trải qua (có thể nói) là tiến tŕnh của sự sinh ra mới mẻ. Và cũng giống như trên trái đất, nơi mà hai phần ba trẻ con hoặc là chết ngay khi mới sinh ra hoặc là chết yểu, th́ các “thế giới hậu quả” cũng vậy. Trên trái đất, chính những khiếm khuyết về mặt sinh lư và tâm trí là những tội lỗi mà con cháu phải chịu thay cho tổ phụ của ḿnh, th́ chính nơi miền đất u minh đó, những chiếc bào thai Bản ngă mới mẻ song c̣n chưa có ư thức cũng trở thành chính nạn nhân của sự vi phạm thiên luật của Bản ngă xưa cũ, nghiệp báo – phước và tội – sẽ dệt ra số phận tương lai của nó. Bạn thân mến, trong thế giới đó chúng ta chỉ thấy có những guồng máy xưa kia đă là con người giờ đây đang vô ư thức tự tung tự tác, là những hồn người đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp với những năng khiếu và cá tính đang yên ngủ giống như một con bướm nằm trong một cái vỏ kén và các nhà Thần linh học lại muốn chúng phải ăn nói một cách biết điều. Đôi khi bị cuốn hút vào trong cái ṿng xoáy của ḍng sinh hoạt đồng cốt bất b́nh thường, chúng bèn trở thành [1] Chẳng biết có phải là trở thành âm so với các thế giới nguyên nhân hay chăng?những tiếng vọng vô ư thức của những tư tưởng và ư niệm đă kết tinh xung quanh những người hiện diện ở đó. Mọi đầu óc thực tế có chủ đích rơ ràng đều có thể hóa giải được những hiệu quả thứ cấp như vậy trong một pḥng lên đồng. Thế giới bên dưới chúng ta c̣n tồi tệ hơn ta tưởng. Ít ra th́ thế giới của chúng ta cũng c̣n vô hại, nó bị gây ra tội lỗi do xáo trộn hơn là chủ động gây tội, thế giới bên dưới chúng ta v́ được phép giữ lại trọn vẹn ư thức cả trăm lần mang tính vật chất hơn, cho nên nguy hiểm một cách tích cực. Các khái niệm về địa ngục và luyện ngục, về thiên đường và sự phục sinh đều là những tiếng vọng bị xuyên tạc, bị biếm họa của một Sự Thật duy nhất nguyên sơ, đă được đem ra giảng dạy cho nhân loại vào buổi ấu thời do bậc Sứ giả Nguyên thủy – tức là Chơn linh Hành tinh mà ta có đề cập tới ở mặt sau của trang thứ 3 – việc c̣n hoài niệm tới nó được con người thể hiện là một đấng đă được Tuyển chọn của dân Chaldea, là Osiris của người Ai cập, là thần Vishnu, là các vị Phật đầu tiên và v. v. . .