Họp Thông Thiên Học qua Skype ngày 7 tháng 5 năm 2016

 [6:25:33 PM] Thuan Thi Do: https://www.google.com/search?q=hoa+sung+xanh&newwindow=1&rlz=1C1CHFX_enUS597US597&espv=2&tbm=isch&tbo=u&source=univ&sa=X&ved=0ahUKEwia7Yn9qMnMAhWFTSYKHe3IB_AQsAQIHA&biw=823&bih=425
[6:34:09 PM] Thuan Thi Do:
Thể Trí của con ưa thói kiêu căng chia rẽ, ưa vị kỷ chớ không vị tha.

C.W.L.- Một lần nữa, đừng lầm lộn ư muốn của Thể Trí với ư muốn của chúng ta và nên biết rằng chúng ta không phải là Thể Trí. Chúng ta có thói quen hay nói: “Tôi nghĩ thế này hay thế khác,” nhưng trong 10 lần hết 9 lần không phải là chúng ta nghĩ mà chính là Thể Trí vậy. Nhiều người trong chúng ta cố gắng chủ trị và uốn nắn tư tưởng của họ theo kỷ luật, nhưng nếu kiểm điểm lại, chúng ta nhận thấy những tư tưởng đáng gọi thuộc về của ta nghĩa là của Chơn Nhơn thật hiếm hoi biết bao và những tư tưởng thuộc về Hạ Trí th́ không biết bao nhiêu.

Hạ Trí bay từ vật này sang vật kia, ghé phớt qua nhiều vấn đề khác nhau, nhưng thường thường nó không chăm lo chu đáo cái nào cả. Thói quen của nó không phải là không xem xét tường tận điều ǵ, mà nó chỉ lướt qua việc này đến việc khác để có những rung động mới mẻ luôn luôn. Thoáng nh́n lại phía sau, chắc chắn trong khoảng thời gian rất ngắn ta sẽ thấy rằng Trí ta nhớ đến từ chuyện này tới chuyện kia, toàn là vô vị. Chẳng hạn khi đi đường bạn sẽ nhận thấy nếu chính bạn đặc biệt không suy nghĩ chi cả, cái ǵ mà tư tưởng không chịu dừng lại: Đó chính là Thể Trí của bạn. Nếu bạn không khép nó vào kỷ luật, nó sẽ duyệt lại hàng loạt ư niệm vô ích đối với bạn, những ư niệm này chưa chắc đă xấu xa, trừ khi chúng nó vốn riêng tư thuộc về cá nhân và ích kỷ. Sự liên tưởng là thói quen của Thể Trí; đôi khi nó chiếm lấy một trong những tư tưởng đẹp nhất của bạn rồi dẫn đến một việc khác xa và rất không đẹp. Chúng ta phải can thiệp và đổi lại tất cả. Tôi biết rất khó mỗi lúc đều mỗi kiểm soát những sự hoạt động của Thể Trí, nhưng chúng ta phải thực hiện điều đó, v́ Thể Trí là một sức mạnh vô cùng và hơn nữa nó là Thần Lực cao nhất ở gần chúng ta. Nếu ư chí có thể bắt Thể Trí làm một vận hà th́ ít có việc ǵ Thể Trí chúng ta không hoàn thành nổi. Chúng ta có thể hoạch đắc cái sức mạnh phi thường này, dù chúng ta giàu hay nghèo, già hay trẻ, và chúng ta có thể làm cho nó thành ra một dụng cụ quí báu để phụng sự Đức Thầy, với điều kiện là chúng ta luôn luôn canh chừng nghiêm nhặt cho tới chừng nào Thể Trí tập được những thói quen mới khác. Tư tưởng có thể hoàn thành được nhiều việc, mà những phương tiện khác không thể thành công. Một tư tưởng thương yêu gởi đến cho một người – mà chúng ta biết y cần được giúp đỡ – có thể hữu ích cho y hơn là cho y một số tiền; trọn đời y có thể nhờ ảnh hưởng tốt đẹp đó. Tại Cơi Trần này, cái kết quả có thể không nh́n thấy được, nhưng công việc làm cho Đức Thầy không phải v́ thế mà không thành sự thật.

Tư tưởng hướng về Chơn Sư phải thường trực ở phía sau Thể Trí; Thể Trí có thể quay về tư tưởng này mỗi khi Chơn Nhơn không thực sự suy nghĩ về điều ǵ bắt buộc nó phải chú ư; tư tưởng đó phải hết sức rơ rệt. Đối với nhiều người, tư tưởng về Đức Thầy chỉ là một thứ phúc lạc mơ hồ, một sự xuất thần nửa vời, một trạng thái hôn mê về đạo giáo; trong mấy lúc đó họ không thể suy nghĩ thực sự về điều ǵ cả. Thay v́ đắm ḿnh một cách mơ hồ trong một tư tưởng mập mờ, chúng ta nên làm cho việc sùng mộ Đức Thầy của ḿnh thành một h́nh tư tưởng rơ rệt, chẳng hạn như: “Tôi có thể làm ǵ để phụng sự Ngài? Tôi dùng mănh lực tư tưởng của tôi vào mục đích ǵ?” Trong quyển sách này luôn luôn bạn sẽ thấy Tác Giả nhấn mạnh rằng: Thật ra chúng ta chỉ có một tư tưởng duy nhất, một ư chí duy nhất, một phận sự duy nhất mà thôi. Tư tưởng duy nhất đó là Phụng Sự Đức Thầy; ư chí duy nhất đó là Làm Việc Cho Ngài; phận sự duy nhất đó là Tận Tụy Với Ngài và v́ thương Ngài mà tận tâm với Nhân Loại. Mặc dù những công việc có tính cách hết sức phức tạp đương chờ đợi chúng ta đi nữa, chúng ta cũng phải đảm đương chúng nó để phụng sự Ngài và Nhân Loại. Trong trí Đức Thầy chỉ có một tư tưởng duy nhất là: Phụng Sự; nếu chúng ta muốn hợp nhất với Ngài, tư tưởng duy nhất đó cũng phải là tư tưởng của chúng ta. Tư tưởng duy nhất ấy bắt buộc chúng ta phải đạt cho được khả năng Phụng Sự, rồi do đó mới có thể tiến hóa; chẳng phải chúng ta khao khát thành những bậc vĩ nhân, mà v́ chúng ta muốn thành những Khí Cụ Tốt.

Nhiều người đang mở trí. Nhiều nhà Bác Học luyện trí chỉ để mở rộng sự hiểu biết của họ mà thôi. Đôi khi họ cũng có thể có một ư tưởng phụ thuộc là muốn được danh tiếng lẫy lừng, nó là kết quả của một sự phát minh vĩ đại; nhưng tôi không tin rằng đó là trường hợp của đa số những Nhà Khoa Học. Thường thường trong thâm tâm họ đều có ư muốn đem những quan niệm đă hoạch đắc giúp ích cho đời, nhưng trong tinh thần Khoa Học, ḷng nhiệt thành muốn hiểu biết đă chiếm hàng đầu. Đó là một môi trường hoạt động tốt đẹp; nhiều tâm hồn cao quí làm việc trong phạm vi này đă giúp cho Nhân Loại những công việc lớn lao.

Chúng ta cũng vậy, chúng ta phải tinh luyện Thể Trí của ḿnh để nó trở nên nhanh nhẹn, linh hoạt và hữu ích. Tại sao thế ? Tại sao người thợ mộc mài cái bào của y? Chẳng phải để y có một cái bào sắc bén hơn cái bào của một anh thợ mộc khác, nhưng để bào cây cho láng, để làm một việc tốt. Đây mới thật đúng v́ lư do nào chúng ta phải tinh luyện Thể Trí. Nhưng luôn luôn hăy nhớ tư tưởng này: “Tôi đang tạo một Khí Cụ cho công nghiệp của Đức Thầy.” Lư tưởng này sẽ ngừa được sự kiêu căng của trí thức, nó giúp cho chúng ta tránh khỏi nhiều cạm bẫy, v́ chắc chắn chúng ta phải sa vào đó, nếu Thể Trí mở mang quá độ.

Dù khi con đă xoay Thể Trí con ra khỏi sự vật Trần Gian nó vẫn cố giữ tính ích kỷ, làm sao cho con nghĩ đến sự tiến hóa riêng của con thay v́ phải nghĩ đến công việc của Thầy và giúp đỡ kẻ khác.

A.B.- Trong những bài dạy của Đức Thầy, có lẽ điều làm cho tôi chú ư hơn hết, chính là ư niệm chính, không thay đổi và luôn luôn được lặp đi lặp lại về cái ư tưởng duy nhất, ư chí duy nhất và công việc duy nhất. Dường như cái ư niệm chính này chiếu ra sự thuần nhất một cách mạnh mẽ cho đến đỗi người ta cảm thấy rằng Đức Thầy không thể có tư tưởng nào khác nữa và Ngài nhập vào Đấng Duy Nhất đến độ tư tưởng của Ngài không thể tách ra khỏi Đấng Duy Nhất hay có ...
[6:34:22 PM] Thuan Thi Do: CHƯƠNG 10
ĐIỀU LÀNH VÀ ĐIỀU DỮ
(Right and Wrong)

Giữa điều phải và điều quấy, Huyền Bí Học không chấp nhận sự lưng chừng. Với bất cứ giá nào, điều phải là điều con phải làm, và không được làm điều quấy, dù cho những người không hiểu biết có nghĩ ǵ hoặc nói ǵ cũng mặc. Con phải nghiên cứu sâu xa những Định Luật bí ẩn của Tạo Hóa, và khi con đă rơ, con hăy xếp đặt cuộc sống của con cho phù hợp với những Định Luật này, nhớ luôn luôn sử dụng lư trí và lương tri.

A.B.- Nếu bạn quan sát một cách chân thành, bạn sẽ thấy đời sống do những sự thỏa hiệp làm ra. Con người luôn luôn tránh né điều mà họ biết là việc lành, họ rất sợ câu hỏi gay gắt là: “Người ta nói thế nào về việc ấy?” Trong một trường hợp nào đó, họ biết rơ cách giải quyết hay hơn hết, nhưng họ lại đổi nó ra khác hơn một chút, họ làm cho nó mất ư nghĩa rồi họ lùi lại hầu tránh cho ḿnh những sự khó khăn, phiền phức. Sợ dư luận một phần do tính yếu đuối, nhưng thật ra tính này cũng dễ mến, v́ họ muốn làm vui ḷng kẻ khác. Ở Ấn Độ người ta thường có tính này, nhưng nếu bạn nhất quyết đi trên Đường Đạo, bạn đừng bao giờ để những thỏa hiệp liên quan đến những nguyên tắc hay những vấn đề quan trọng như những đại vấn đề Tôn Giáo và xă hội. Ta hăy lấy một thí dụ về sự cưới gả trẻ con. Lắm khi những việc hôn nhân này được thực hiện quá sớm. Biết bao lần tôi phản đối trước công chúng về sự độc ác bắt một cô gái mới phát triển có phân nửa làm mẹ, tôi chống lại hành động này bởi nó nguy hại đến năng lực sống lâu của ṇi giống. Nhiều người biết điều tai hại này và công khai nói trắng ra, tuy nhiên họ vẫn phạm vào lỗi đó, v́ nếu họ không làm như vậy, họ sẽ bị thiên hạ phê b́nh, chỉ trích. Người ta không thể làm một Nhà Huyền Bí Học với một thái độ như thế.

Bây giờ đây chúng ta hăy dẹp qua một bên những vấn đề căn bản hầu hết liên quan đến tương lai của một Dân Tộc, chúng ta hăy xét đến những vấn đề nhỏ nhặt xảy ra trong đời sống hằng ngày. Ở đây cũng không nên có sự thỏa hiệp, hăy nhất quyết làm điều nào mà bạn tưởng là việc lành và giữ vững ư kiến đó. Tôi biết chắc rằng bạn không thể đạt được lư tưởng ngay tức khắc cũng như người ta không thể nào bước một bước từ chân núi lên tới đỉnh núi được. Nhưng nếu bạn nhất định leo lên núi phải đi từ bước, mỗi bước sẽ đưa bạn đến gần chót núi. Đừng bao giờ hạ lư tưởng của bạn xuống thấp; không có chi tai hại bằng điều này. Theo Kinh Upanishad: “Điều thiện là một việc; thú vui là một việc khác nữa; Người Hiền Triết chọn điều thiện, bỏ thú vui.”

Bạn hăy làm thử những việc nhỏ mọn mà lương tâm của bạn cho là việc phải, việc lành. Bạn không chịu trách nhiệm về điều ǵ mà lương tâm nói với kẻ khác, hoặc là cách họ tuân theo nó, nhưng bạn phải chịu trách nhiệm về cách của bạn tuân theo lương tâm với bất cứ giá nào. Cái giá đó bạn nên hiểu rơ, nó chỉ là bề ngoài. Bạn không thể mất mát điều ǵ cả khi bạn thực hiện những điều mà bạn xét ra là điều lành, điều phải. Lẽ tất nhiên, bạn phải cẩn thận để tránh việc đồng hóa những tính bất thường, những thành kiến, những thị hiếu, những sở thích của bạn với điều thiện. Về phương diện này, Đức Thầy đưa ra ở đây những lời cảnh cáo như sau: “Con phải nghiên cứu sâu xa những Định Luật bí ẩn của Tạo Hóa, và khi con đă rơ, con hăy xếp đặt cuộc sống của con cho phù hợp với những Định Luật này.”

Cuối đoạn đó, Đức Thầy c̣n thêm lời khuyên quan trọng này: “Nhớ luôn luôn sử dụng lư trí và lương tri.” Luôn luôn bạn nên quan tâm đến t́nh cảm của kẻ khác, nhưng đừng bao giờ để cho nó xen vào giữa bạn và những ǵ mà bạn biết là tốt lành. Nếu bạn phải lựa chọn giữa sự làm mếch ḷng kẻ khác và việc lừa dối lương tâm của ḿnh, bạn hăy chọn việc thứ nhứt. Trong sự giao thiệp với người đời, Nhà Huyền Bí Học luôn luôn phân biệt Con Người thật (Chơn Nhơn) với thành kiến của các Thể khác của nó. Y không làm hại một người nào, nhưng y thích đụng chạm với những thành kiến của họ hơn là làm ác. Tuy nhiên y sẽ không đụng chạm đến những thành kiến đó, nếu không cần thiết. Nhưng nếu bị bắt buộc, y cũng biết rằng thật ra người đó được giúp đỡ, chớ chẳng bị thiệt hại ǵ và chính y là khí cụ được dùng để phá vỡ một sự hạn chế; sự hạn chế này là một chướng ngại cho người đó. Dù trong trường hợp ấy, y vẫn hành động một cách êm ái, dịu dàng và vị nể. Thường thường người ta cho điều đó là gay go, bất tiện. Nhưng rất khó mà hoàn thành một việc trong sự yên tịnh và ánh sáng của lẽ phải; sự cảm xúc mạnh mẽ giúp cho sự hành động được dễ dàng. Sự cảm xúc dù tốt hay xấu cũng truyền đạt một sự kích thích lôi cuốn con người hoạt động mà không cần phải cố gắng nữa. Nếu bạn muốn trở nên một Nhà Huyền Bí Học đừng để bị kích động như người thường. Bạn phải mở mang lư trí lẫn sự phân biện và trong sự cố gắng đó, bạn bắt đầu biểu hiện Bồ Đề Tâm một cách vô ư thức.

C.W.L.- Con người thường có lắm thành kiến và họ lại đồng hóa chúng với điều thiện. Mỗi người đều được đào luyện một cách riêng biệt, họ không ngờ vực những điều họ đă học hỏi, nên họ tưởng rằng những người không theo phương pháp riêng của họ đều lầm lẫn, nhất là khi phương pháp đó được đa số người noi theo. Thường thường những thành kiến của quần chúng rất phi lư. Vậy chúng ta không nên để chúng nó ảnh hưởng đến ḿnh trong vấn đề thiện, ác. Tôi không nói rằng trong thành kiến của quần chúng thường không có vài yếu tố hữu lư, nếu ta xét kỹ, nhưng chắc chắn yếu tố đó không phải lư lẽ của quần chúng trưng ra mà là một lư lẽ khác. Mảnh Chân Lư đó thường bị biến dạng, bị áp dụng sai v́ bởi lớp màn dày đặc của sự lầm lạc bao bọc nó.

Nhà Huyền Bí Học không bao giờ để bị bắt buộc làm việc sai quấy v́ sợ đụng chạm với những thành kiến của kẻ khác; trái lại, y cũng không hề công kích chúng nó một cách vô ích. Lư trí và lẽ phải phải luôn luôn được sử dụng để xét đoán. Một công việc yêu cầu bạn cố gắng, v́ bạn biết rằng nó hữu ích và quan trọng. Tốt lắm, nhưng đừng vào thẳng vấn đề như con ḅ lao ḿnh vào hàng rào. Có thể con ḅ ch...
[6:40:50 PM] Thuan Thi Do: Đừng để dễ bị kích thích như nhiều người. Họ không chịu nổi điều này hay điều khác; họ không hiểu và cũng không muốn nhọc công t́m hiểu; họ xông tới và cũng không nghĩ rằng họ có thể lầm đường. Nhưng chúng ta phải nghĩ đến kẻ khác, phải quan tâm đến t́nh cảm của họ và sau cùng chúng ta có thể chấp nhận rằng trong một trường hợp đặc biệt, họ có lư, c̣n chúng ta sái quấy, lỗi lầm.

Con phải phân biệt giữa điều quan trọng và điều không quan trọng. Phải cứng rắn như đá khi phải áp dụng cho điều lành và điều quấy, hăy luôn luôn nhường cho kẻ khác những sự việc không quan hệ. Bởi v́ con phải luôn luôn dịu dàng, tử tế, biết điều và thuận thảo; hăy để cho kẻ khác có trọn quyền tự do, như quyền tự do con đă cần cho chính con vậy.

A.B.- Đây là đoạn văn rất dịu dàng và thật đẹp. Nó làm quân b́nh đoạn văn trước, v́ nếu tách biệt ra, đoạn ấy có hơi cứng rắn. Vậy những điều mà người ta thường tha thiết nhất, chính là những điều không quan trọng ǵ, Nhà Huyền Bí Học thường không làm nghịch với họ, không cản trở họ. Đối với y, điều quan trọng là một công việc nào đó phải hoàn thành. Y chú định ư chí của ḿnh vào mục đích chính mà chỉ có nó mới được xem là quan trọng, ngoài ra cái ǵ c̣n lại, y để cho mọi người đều được tự do. V́ y ḥa nhă, dễ dăi với mấy điều đó, nên người ta cho rằng y là người cộng sự khả ái. Dần dần y dắt họ đến chỗ trọng hệ dễ dàng mà họ không mấy ngờ vực điều đó. Người đời cho đức tính ấy là sự khéo léo, lịch thiệp, c̣n Nhà Huyền Bí Học gọi nó là Đức Phân Biện.

Người cuồng tín không biết đức tính này nên y thất bại măi, trong khi Nhà Huyền Bí Học lại luôn luôn thành công. V́ không phân biệt được việc nào trọng hệ với việc nào không trọng hệ nên người cuồng tín không chịu nhân nhượng ngay cả những việc không ra ǵ. Y làm cho những kẻ đối thoại với y bực tức nên họ không chịu theo y dù y có lư và mặc dù mục tiêu chính của y thực sự là quan trọng. Nếu bạn khéo léo, họ có thể ngoan ngoăn theo bạn cũng như con mèo. Bữa kia tôi có quan sát một gương nhỏ này, một người đàn ông cố gắng kéo con ḅ đi tới, tự nhiên con vật quị bốn chân xuống, dơng đuôi lên và hết sức tŕ lại. Nếu người này khôn ngoan, y thôi kéo; con vật cũng không c̣n tŕ lại, rồi y vuốt ve nó và nói vài câu khích lệ nó, y sẽ làm cho nó ngoan ngoăn theo y. Đây là một bài học quí báu cần phải lĩnh hội. Nếu những kẻ khác không chịu làm theo như ư bạn, bạn hăy t́m nguyên nhân ở nơi bạn. Thường thường bạn sẽ nhận thấy rằng chính thái độ của bạn làm cho kẻ khác nghịch với bạn. Cách tôi hành động như vầy. Trong chỗ kia, những sự hành động của tôi đưa đến những sự đụng chạm, những sự xích mích và những sự khó khăn, tôi thong thả suy nghĩ về điều đó để khám phá ra v́ đâu tôi đă gây ra lư sự, rồi tôi cố gắng t́m một phương pháp khác. Phương pháp này có hiệu quả hơn là bắt kẻ khác đi theo con đường của bạn. Chắc chắn là bạn có thể ép buộc họ đến một mức độ nào đó, nhưng theo nguyên tắc, làm như thế không tốt và trên thực tế sự chống đối và khó khăn sẽ v́ đó mà sinh ra. Điều này chứng tỏ thiếu hẳn đức tính của Nhà Lănh Đạo, một năng lực mà Đức Thầy muốn chúng ta phải có trong tương lai. Các Ngài mong mỏi chúng ta biết cách d́u dắt kẻ khác, chớ không phải dùng sức mạnh lôi kéo họ.
[7:08:22 PM] Thuan Thi Do: GLDCT audio 4 phút thứ 22



[7:24:44 PM] *** Thuan Thi Do added Hai van Le ***
[7:42:21 PM] Thuan Thi Do: Ở đây, “nguồn gốc Thiêng liêng” (“Divine origin) không
có nghĩa là một điều thiên khải phát xuất từ một Thượng Đế
nhân h́nh ngự trên một ngọn núi giữa sấm sét; nhưng theo
như ta hiểu, đó là một ngôn ngữ và một hệ thống khoa học
được truyền thụ cho nhân loại sơ khai bởi một giống người
tiến hóa hơn, họ tiên tiến đến đỗi mà họ được nhân loại ấu trĩ
coi như là thiêng liêng; nói tóm lại là một nhân loại xuất phát
từ các lănh vực tiến hóa khác. Một ư tưởng chẳng có ǵ là siêu
nhiên, nhưng nó sẽ được chấp nhận hay bác bỏ tùy theo
đương sự kiêu căng ngạo mạn đến mức nào. V́ chỉ cần các
giáo sư hiện đại thú nhận rằng, mặc dù họ chẳng biết ǵ về
tương lai của kẻ đă bỏ xác - hoặc đúng hơn là sẽ chẳng chấp
nhận điều ǵ - song đối với họ, tương lai này sẽ đầy dẫy
những điều kỳ lạ và những điều thiên khải bất ngờ, một khi
mà Chơn Ngă của họ đă thoát khỏi các thể xác thô trực - th́
bấy giờ thuyết duy vật vô thần cũng ít có cơ may thành tựu
hơn. Trong số các giáo sư đó, ai biết hay dám bảo rằng điều
ǵ sẽ xảy ra một khi chu kỳ sống của Địa Cầu chấm dứt và
chính bà mẹ Địa Cầu của chúng ta cũng ch́m vào giấc hôn
1 Trích từ một bản thảo, từ trang 1 đến trang 6. Xem chú thích ở
cuối trang, Quyển 1, trang 72

thụy tối hậu (our mother Earth herself falls into her last
sleep)? Ai dám bảo rằng các Chơn Ngă (the divine Egos) của
nhân loại chúng ta - ít nhất là các phần tử ưu tú được tuyển
lựa ra từ đám đông đang chuyển sang các lănh vực tiến hóa
khác - đến lượt họ sẽ chẳng trở thành các đạo sư ”thánh
linh”(“divine”) của một nhân loại mới do họ sản sinh ra trên
một Bầu hành tinh mới, được các nguyên khí đă thoát xác của
Địa Cầu chúng ta cấp cho nguồn sống và sự hoạt động? Tất
cả mọi điều này có thể là kinh nghiệm của QUÁ KHỨ (the
PAST), và các tài liệu lưu trữ kỳ diệu này đều ẩn tàng trong
“Ngôn Ngữ Bí Nhiệm” (“Mystery Language”) của các thời
đại tiền sử, ngôn ngữ này được gọi là BIỂU TƯỢNG KƯ.
T
[7:45:29 PM] Thuan Thi Do: TIẾT 2
NGÔN NGỮ BÍ NHIỆM
VÀ CÁC CH̀A KHÓA GIẢI NÓ
(THE MYSTERY LANGUAGE AND ITS KEYS)
MỚI đây, các nhà toán học và các tín đồ Do Thái Bí giáo
xuất sắc đă khám phá ra và như thế chứng tỏ một cách không
c̣n nghi ngờ ǵ nữa là mọi thuyết thần học, từ xưa đến nay
đều không những là xuất phát từ một nguồn tín ngưỡng trừu
tượng chung, mà c̣n từ một Ngôn ngữ Nội môn đại đồng vũ
trụ, tức Ngôn ngữ “Bí nhiệm” (“Mystery”). Các học giả này
giữ chiếc ch́a khóa giải được ngôn ngữ đại đồng thế giới của
cổ nhân và giải được nó một cách thành công, mặc dù là chỉ
được có một lần, bên trong cánh cửa đóng kín dẫn vào Pḥng
Bí Pháp. Hệ thống tối cổ vĩ đại mà từ thời tiền sử đă được biết
tới như là Khoa Minh Triết thiêng liêng - một hệ thống đă
được hàm tích và có thể được truy nguyên trong mọi tôn giáo
xưa cũng như nay - đă có và vẫn c̣n có ngôn ngữ đại đồng
thế giới của nó - mà Hội viên Tam Điểm Ragon vẫn ngờ vực -
ngôn ngữ của các Đạo Trưởng, có thể nói là ngôn ngữ này có
bảy “thổ ngữ” (“dialects”), mỗi thổ ngữ đề cập tới và đặc biệt
thích hợp với một trong bảy Bí nhiệm của Thiên nhiên. Mỗi
thổ ngữ có biểu tượng kư riêng của nó. Như thế, người ta có
thể hoặc là nghiên cứu trọn vẹn được Thiên nhiên, hoặc là
xem xét thiên nhiên theo một trong các khía cạnh của nó.
Đến nay, điều này có bằng chứng là các Đông phương học
giả nói chung, cũng như là các nhà nghiên cứu về Ấn Độ và
Ai Cập nói riêng, đều cảm thấy cực kỳ khó khăn khi thuyết
minh các tác phẩm viết theo lối ẩn dụ của dân Aryan và các
tài liệu lưu trữ viết bằng chữ tượng h́nh của cổ Ai Cập. Lư do
là v́ họ cứ quên mất rằng mọi tài liệu lưu trữ cổ truyền đều
được viết bằng một ngôn ngữ đại đồng thế giới mà tất cả mọi
quốc gia thời xưa đều biết, nhưng nay chỉ có một nhóm người
hiểu được nó. Cũng như là thiên hạ thuộc mọi quốc gia đều
hiểu được các con số Á Rập, hoặc cũng như là từ ngữ and (và)
trong tiếng Anh, trở thành et (và) đối với người Pháp, und đối
với người Đức v.v…. có thể được diễn đạt cho mọi quốc gia
văn minh bằng kư hiệu đơn giản & – mọi từ ngữ của Ngôn
ngữ Bí nhiệm này (that Mystery Language) đều cùng có
nghĩa là một vật, đối với mọi người thuộc bất cứ quốc tịch
nào. Nhiều nhân vật trứ danh đă cố gắng tái tạo một ngôn
ngữ đại đồng thế giới và triết lư như thế - Delgarme, Wilkins,
Leibnitz; nhưng Demaimieux trong tác phẩm Vạn Quốc Tư
Pháp (Pasigraphie) là người duy nhất chứng minh rằng nó có
thể hiện hữu được. Giản đồ Valentinius được mệnh danh là
“Thánh kinh Kabalah của Hy Lạp,” và được dựa vào sự phối
hợp các chữ Hy Lạp, có thể được dùng làm mô thức (model).
Các phương diện đa diện của Ngôn ngữ Bí nhiệm đă đưa đến
việc chấp nhận các giáo điều và các nghi lễ khác nhau trong
hiển giáo của các nghi thức của Giáo hội. Những tín điều này
lại là nguồn gốc của hầu hết các giáo điều của các Giáo hội
Thiên Chúa; chẳng hạn như bảy Bí Tích, Ba Ngôi, Sự Phục
Sinh, Bảy Tội Lỗi chính yếu và Bảy Đức Hạnh. Tuy nhiên các
Đạo Trưởng cao cấp nhất thời xưa đă luôn luôn nắm giữ Bảy
Ch́a khóa (Seven Keys) để giải Ngôn ngữ Bí nhiệm; do sự
phản bội của vài Đức Cha của Giáo hội - các cựu Điểm đạo
đồ của Thánh Điện nên - một ít trong bảy ch́a khóa mới được
chuyển vào trong tay của các tôn giáo phái Nazarenes và
được sử dụng một phần. Một vài Giáo Hoàng thuở đầu là các
Điểm đạo đồ, nhưng những kiến thức manh mún cuối cùng
của các Ngài nay đă lọt vào tay của những tín đồ Chúa Jesus,
họ đă biến chúng thành một hệ thống phù thủy.
[7:55:55 PM] Thuan Thi Do: Người ta xác nhận rằng Ấn Độ - không phải là xét theo
các biên giới hiện nay mà bao gồm cả biên giới thời xưa - là
quốc gia duy nhất trên thế giới vẫn c̣n có các Cao đồ quán
triệt tất cả bảy hệ thống phụ và có được ch́a khóa để giải
toàn bộ hệ thống. Từ khi thành phố Memphis suy tàn, Ai Cập
bắt đầu mất dần các ch́a khóa này, c̣n Chaldea chỉ c̣n giữ
được ba ch́a khóa vào thời Berosus. Về phần người Hebrew,
trong tất cả mọi tác phẩm của ḿnh, họ chẳng chứng tỏ một
điều ǵ khác hơn là việc quán triệt các hệ thống thiên văn,
h́nh học và số học để biểu tượng hóa các chức năng của con
người, đặc biệt là các chức năng sinh lư. Họ đă chẳng bao giờ
có được các ch́a khóa cao cấp.
Ông Gaston Maspero, nhà nghiên cứu về Ai Cập lỗi lạc
người Pháp và là người kế vị Mariette Bey, viết:
Mỗi lần nghe người ta nói về tôn giáo của Ai Cập, tôi không
thể không hỏi là họ đang nói về tôn giáo nào của Ai Cập? Phải
chăng là tôn giáo Ai Cập của triều đại thứ tư, hoặc là tôn giáo Ai
Cập của lớp người trí thức? Đó là tôn giáo như được giảng dạy
trong các trường của thành phố Heliopolis, hoặc là tôn giáo vốn ở
trong tâm niệm của giai cấp giáo sĩ của thành phố Theban. V́ có
một thời gian ít nhất là 5 000 năm từ thời ngôi mộ thứ nhất của
thành phố Memphis - nó có chiếc khung treo huy hiệu của một vị
vua thuộc triều đại thứ ba - cho tới thời các viên đá cuối cùng được
chạm trổ tại Esneh dưới thời Caesar Philippus, người Á Rập. Bỏ
qua một bên sự xâm lược của những Người chăn chiên (the Shepherds),
sự đô hộ của người Ethiopia và Assyria, sự chinh phục
của người Ba Tư và sự chiếm làm thuộc địa của người Hy Lạp và
hàng ngàn cuộc cách mạng trong đời sống chính trị, trong 5 000
năm đó, Ai Cập đă trải qua nhiều thăng trầm trong đời sống đạo
đức và trí thức. Ta biết được một ít bản sao - vào thời các triều đại
thứ mười một và mười hai - của Chương XVII Tử Vong Kinh (Boof of
Dead), nó h́nh như có bao hàm việc tŕnh bày hệ thống thế giới
theo như người dân tại Heliopolis hiểu trong thời kỳ các triều đại
thứ nhất. Mỗi câu thơ cấu thành nó đă được thuyết minh theo ba
và bốn lối khác nhau; thật vậy, chúng khác nhau đến đỗi mà tùy
theo trường phái này hay trường phái khác, Đấng Tạo Hóa đă trở
thành hoặc là lửa mặt trời tức là Ra-shoo, hoặc là nước nguyên
thủy (Ra-shoo), or the primordial water). Mười lăm thế kỷ qua, số
cách giải thích đă tăng lên một cách lớn lao. Khi thời gian trôi qua,
quan niệm của người ta về vũ trụ và các thần lực cai quản nó đă
thay đổi. Trong mười tám thế kỷ ngắn ngủi, nó đă phát triển và
biến đổi hầu hết các giáo điều của ḿnh, thế th́ biết bao nhiêu lần
giới tu sĩ của Ai Cập đă chẳng có thể thay đổi các giáo điều của
ḿnh trong ṿng mười lăm thế kỷ từ thời Theodosius tới các vị
Vua Kiến tạo Kim tự tháp. (1)
[8:18:35 PM] Thuan Thi Do: http://www.egyptartsite.com/book.html
[8:28:22 PM] Thuan Thi Do: http://www.amazon.com/gp/offer-listing/1452144389/ref=tmm_pap_new_olp_sr?ie=UTF8&condition=new&qid=&sr=
[8:30:11 PM] Thuan Thi Do: Trang 33 GLBN 2



[8:49:25 PM] Thuan Thi Do: Phật giáo Bắc Tông đối với Nam Tông cũng như Công giáo đối với Tin Lành trong Thiên Chúa Giáo. Phật Giáo Bắc Tông giống như Công giáo. Nó hoằng diễn giáo lư của Đức Phật. Chẳng hạn nó chấp nhận một phần tốt lành của việc thờ cúng cổ xưa ở trong xứ, như sự cúng kiến để tỏ ḷng sùng kính những tinh linh trong thiên nhiên hoặc những sức mạnh trong thiên nhiên được thần thánh hóa. Khi những nhà truyền giáo đạo Thiên Chúa đến những xứ theo Phật Giáo Bắc Tông, họ thấy những cuộc tế lễ thật giống như sự cúng tế của họ th́ họ cho rằng đó là một sự bắt chước do ma quỷ xúi giục, và khi họ chứng minh rơ ràng những cuộc tế lễ ấy đă có trước kỷ nguyên Thiên Chúa, họ lại nói rằng đó chính là "đoán trước mà bắt chước".

Trong Kinh điển Phật Giáo cũng như trong kinh sách của các Tôn giáo khác, người ta thấy có nhiều mâu thuẫn. Phật Giáo Nam Tông căn cứ trên vài văn bản, và v́ sợ xa nguyên bản nên không t́m hiểu kinh sách khác hoặc là những phần thêm vào nguyên bản. Do đó phái nầy không quảng bác bằng Phật Giáo Bắc Tông. Như đây là một thí dụ : Trong những bài thuyết pháp, Đức Phật của chúng ta luôn luôn đả phá ư niệm phổ biến trong thời bấy giờ là bản ngă có thể trường tồn. Cũng như trong những người Thiên Chúa Giáo ư niệm cho rằng bản ngă chúng ta bất diệt bao giờ cũng rất phổ thông. Nhưng khi Ngài dạy rằng những sự vật đồng hóa với con người không có ǵ trường tồn, Ngài cũng tuyên bố một cách không lầm lạc về những điều liên hệ đến những kiếp sống liên tiếp của chúng ta. Ngài mượn thí dụ những kiếp trước ; và một vị Vua hỏi Ngài kư ức tiền kiếp giống cái chi, Đức Phật trả lời rằng : " Việc đó giống như người ta nhớ lại đă làm ǵ hôm qua và những ngày trước đó đi xuống làng nầy hay làng kia". Tuy nhiên ngày nay phái Nam Tông dạy chỉ có nghiệp c̣n lại thôi, c̣n Chơn Ngă th́ không tồn tại. Như con người sau khi gây ra trong kiếp sống một số Nghiệp, kế đó y chết đi, không có ǵ c̣n lại ở y, rồi khi sinh ra, một người khác phải chịu Nghiệp Quả mà hắn không tạo ra.
Khi Phật Giáo Nam Tông dạy rằng chỉ có Nghiệp trường tồn, đồng thời tông phái nầy cũng đề cập đến việc đạt Niết Bàn. Do đó nếu bạn hỏi một vị Đại Sư tại sao ông quy y Phật, ông sẽ trả lời " Để vào Niết Bàn ". Nếu bạn hỏi thêm :" Phải trong kiếp nầy không ? ". Ông sẽ không ngần ngại trả lời : " Ồ ! không, phải nhiều kiếp mới được ". Cũng thế, khi chấm dứt bài thuyết pháp, một vị sư chúc thính giả như sau : " Cầu xin Quư Liệt Vị sớm nhập Niết Bàn ". Nếu bạn hỏi ông có phải họ vào Niết Bàn trong đời nầy không, ông đáp : " Không, phải nhiều kiếp nữa ". Vậy mặc dù giáo lư trái ngược lại, sự tin tưởng thực tế trong đời sống cá nhân vẫn tồn tại.
Bà Blavatsky đă dành hết hai trang để bàn về vấn đề những loại chữ khác nhau được dùng trong các Đạo viện ở Hy Mă Lạp Sơn. Ở Âu Châu và Mỹ Châu, mẫu tự La Mă rất thịnh hành, đến nỗi được sử dụng phổ thông, nhưng đối với độc giả Tây phương cần phải được giải thích rằng ở Đông phương lại khác hẳn. Mỗi thổ ngữ Đông phương như Tamil, Telugu, Cinghalais, Ma­layalam, Hindi, Gujarati, Canarese, Bengali, Birman, Nepalais, Tây tạng, Thái lan và nhiều thổ ngă khác nữa đều có mẫu tự riêng và chữ viết đặc biệt của nó. Một người dùng một trong các thứ thổ ngữ nầy khi y trưng dẫn một bản văn nước ngoài, y sẽ sử dụng chữ viết của nước y. Cũng thế khi một nhà văn Anh trưng dẫn một câu văn Đức hay văn Nga, th́ chắc chắn y không viết câu ấy bằng chữ Đức hay chữ Nga, nhưng viết bằng chữ La Mă. Khi đề cập đến một thủ bản Đông phương bao giờ cũng phải xét đến hai điều là ngôn ngữ và chữ viết. Cả hai phải luôn luôn trùng hợp nhau.
Ở Tích Lan, nếu tôi quan sát một quyển Kinh bằng lá buông, hầu hết được tŕnh bày bằng chữ Cinghalais rất đẹp, nhưng không có ǵ giống ngôn ngữ Cinghalais. Nó có thể hoàn toàn giống Pali, Sanskrit hay Elu ; đối với thứ chữ khác cũng có thể như thế. Do đó khi nói rằng những lời giáo huấn ấy đôi khi được viết bằng chữ Tây Tạng, có thể Bà Blavatsky muốn nói rằng chữ ấy là chữ Tây Tạng, nhưng không nhất thiết là đúng ngôn ngữ Tây Tạng. Tôi không bao giờ có cơ hội được thấy những kư hiệu bí mật lạ lùng mà bà đă mô tả, trong đó những màu sắc và thú vật biểu thị những chữ. Cũng trong đoạn ấy bà đề cập đến ba mươi chữ đơn của mẫu tự Tây Tạng. Ngược lại, làm sao giải thích khi bà nói đến ba mươi ba chữ đơn sau đó. Nếu không kể bốn nguyên âm trong đó, th́ chỉ có ba mươi chữ, và trong trường hợp ngược lại, dĩ nhiên có ba mươi bốn chữ chứ không phải ba mươi ba. C̣n về chữ kép, số lượng của nó lại thay đổi. Một quyển văn phạm mà tôi có trước mắt cho biết có trên một trăm chữ, nhưng chắc Bà Blavatsky chỉ muốn nói đến những chữ thông dụng.

Bà nói đến một trong các phương pháp viết chữ Trung Hoa khiến tôi nhớ đến một kỷ niệm thú vị. Trong khi tôi lưu ngụ tại Tích Lan, có hai vị Tăng sĩ từ Trung Hoa đến viếng chúng tôi. Họ không nói được thứ ngôn ngữ nào cho chúng tôi hiểu họ. May thay có vài sinh viên trẻ người Nhật Bản ở bên chúng tôi, nhờ sáng kiến phối hợp tuyệt diệu của Đại Tá Olcott mà theo đó mỗi tông phái, Nam và Bắc phương đă gởi vài tân học tăng đến để t́m hiểu đường lối giáo lư của nhau. Mấy vị tăng sĩ trẻ nầy không hiểu được một thứ tiếng nào khi nghe các vị sư Trung Hoa nói, nhưng nhờ phương tiện bút đàm, họ có thể trao đổi ư kiến với nhau. Đối với người Nhật những kư hiệu ( chữ ) viết ra cũng có nghĩa ( như Trung Hoa ) nhưng đọc khác. Cũng thế một người Pháp và một người Anh, đều hiểu hoàn toàn một dăy số, dù người nầy đọc " un, deux, trois " , c̣n người kia đọc “ one, two, three ". Đối với nốt nhạc người ta cũng có thể nói giống như thế.

Cuộc đàm thoại của tôi đối với các vị sư thật lạ lùng và thú vị. Trước hết mỗi câu hỏi của tôi đều được bạn đồng sự của tôi dịch ra tiếng Cinghalais để sinh viên Nhật hiểu ; sau đó sinh viên ấy dùng cọ viết ra chữ chung của Trung Hoa và Nhật Bản. Rồi đến lượt vị sư Trung Hoa đọc và viết câu trả lời bằng cách sử dụng cùng thứ chữ ấy, sau cùng lại được sinh viên Nhật dịch ra tiếng..
[8:50:11 PM] Thuan Thi Do:
Dù cuộc đàm thoại trong những điều kiện nầy chậm chạp và kém chính xác, nhưng vẫn là một kinh nghiệm hữu ích.

CHƯƠNG THỨ HAI 

NHỮNG NĂNG LỰC CAO SIÊU
VÀ NĂNG LỰC THẤP THỎI

Những lời dạy nầy để dành cho những kẻ chưa biết những mối nguy hiểm của những Iddhi bậc thấp.

C. W. L. Ở câu đầu của đoạn thứ nhứt nầy, Bà Blavatsky thêm vô ghi chú như sau :
Tiếng Pali Iddhi đồng nghĩa với tiếng Sanskrit Siddhis và có nghĩa là những năng lực tâm linh, những quyền năng phi thường của con người. Có hai loại Siddhis, một nhóm gồm những tinh lực linh khí thấp thỏi, thô sơ ; nhóm kia buộc phải có sự huấn luyện cao siêu về quyền năng thần bí. Như Đức Krishna nói trong Kinh Shrimad Bhagavat :
" Kẻ nào chuyên tâm thực hành Yoga, khống chế được giác quan và tập trung tinh thần nơi Ta ( Krishna ), sẽ là những nhà Yogis mà tất cả những Siddhis đều sẵn sàng cho người sử dụng ".

Vấn đề quyền năng tâm linh đă gây ra không biết bao nhiêu ngộ nhận ! Người sinh viên tự tránh cho ḿnh nhiều khổ nhọc nếu lúc đầu họ cố gắng đạt được một quan niệm hợp lư về vấn đề nầy. Trước hết không nên có thái độ khinh suất đối với sự giải thích chữ " phi thường ". Những năng lực nầy chỉ phi thường theo ư nghĩa trong thời đại nầy ít ai biết đến chúng và không hề có nghĩa là trái với định luật thiên nhiên chút nào. Đối với mỗi người, chúng hoàn toàn tự nhiên, dù tiềm ẩn, hiện nay chúng vẫn hiện hữu ở mỗi người. Vài người đă mở mang và làm cho chúng hoạt động, nhưng phần đông chưa thực hiện một sự cố gắng nào đối với chúng, nên những quyền năng của họ c̣n ngủ mê.
Cách đơn giản nhất để nắm được ư niệm tổng quát là nên nhớ rằng con người là một Linh Hồn và nó biểu hiện trên những cơi khác nhau nhờ những thể thích ứng với các cơi nầy. Hành động thấy hoặc nghe trong cơi đời vật chất nầy chỉ có thể dùng một thể được cấu tạo bằng vật chất. Cũng giống như muốn biểu hiện trên cơi Trung giới, con người cần có một Thể Vía, v́ thể xác vô dụng trên cơi đời nầy vẫn không thấy được, cũng như hoàn toàn giống như Thể Vía không thấy được bằng mắt trần chúng ta. Lại cũng y như thế, con người phải sử dụng Thể Trí của y sống trên cơi Thượng Giới.
Phát triển quyền năng tâm linh tức là tập sử dụng giác quan của các thể chúng ta. Một người chỉ có thể dùng các giác quan của thể xác để thấy hoặc nghe những đối tượng ở cơi trần ; nếu y tập sử dụng các giác quan của Thể Vía, y có thể thấy hoặc nghe những đối tượng của cơi Trung Giới. Vấn đề hoàn toàn đơn giản là tập đáp ứng với những rung động ngày càng gia tăng. Hăy khảo sát bảng rung động trong một bài luận giải nào đó, chúng ta sẽ thấy nhiều rung động trong đó không gây ra ở ta một sự đáp ứng nào. Vài rung động cảm kích tai chúng ta, và chúng ta nghe những làn sóng âm thanh ; các rung động khác gây ấn tượng trên mắt chúng ta, và ta gọi chúng là những tia sáng. Tuy nhiên, giữa hai loại rung động nầy, thuộc bậc cao và bậc thấp hơn chúng, có hàng ngàn loại dao động khác không gây một ảnh hưởng nào trên giác quan vật chất của chúng ta. Con người có thể phát triển bằng cách nào đó để trở nên mẫn cảm đối với tất cả những sự rung động nầy của chất dĩ thái, và cả với vật chất tế vi hơn chất dĩ thái. Chúng ta gọi nhà thần nhăn hay thần nhĩ là người đă thực hiện việc ấy v́ thị giác hay thính giác của y đă mở rộng hơn một người chưa phát triển.
Một sự phát triển nhăn quan tâm linh như thế sẽ mang lại những lợi ích thật đáng kể. Người nào có quan năng ấy như sống trong một thế giới mới, rộng răi bao la hơn, hay nói một cách chính xác hơn, nhận thấy rằng thế giới y từng sống đă phô bày những sự mở mang và những khả năng đủ loại mà từ trước đến giờ y không hề biết đến. Sự nghiên cứu có thể cho y biết hiện có khắp nơi chung quanh y, một đời sống không có xác thân vật chất mênh mông và phức tạp - như các hạng thiên thần và tinh linh thiên nhiên, vô số nhân loại đang ngủ hoặc chết, đă bỏ xác phàm, những năng lực và ảnh hưởng khác nhau mà chỉ cần hiểu để có thể chiêu tập và sử dụng chúng, nhưng thay v́ chỉ tin tưởng vào chúng, tự ḿnh thấy tất cả những sự kiện nầy, nghiên cứu trực tiếp và kinh nghiệm chúng - tất cả những điều ấy làm cho đời sống trở nên phong phú và thú vị hơn . Như vậy con người có thể theo dơi kết quả tư tưởng và hành vi của ḿnh trên các cơi cao, để nhờ đó hành động của y trở nên dễ dàng và hữu ích hơn. Những sự lợi ích của việc khai mở tâm thức như thế thật hiển nhiên. Nhưng đâu là mặt trái của tấm huy chương ? Bà Blavatsky đă đề cập đến những mối nguy hiểm của sự phát triển nầy gồm trong hai loại : loại thấp thỏi và loại cao siêu. Trước tiên, chúng ta hăy bàn đến loại thứ nhứt :
Tất cả những ǵ từ bên ngoài đến với con người đều nhờ sự rung động ; sự rung động của không khí truyền âm thanh đến tai y. Sự rung động của ánh sáng phô bày trước mắt y những cảnh tượng khác nhau. Nếu y thấy những đồ vật và sinh vật trên cơi Trung Giới, sự kiện nầy chỉ có thể xảy ra do sự tiếp xúc với những rung động thuộc về cơi Trung Giới và Thượng Giới trên các thể có thể đáp ứng với chúng v́ con người chỉ thấy được cơi Trung Giới bằng các giác quan của Thể Vía và thấy được cơi Thượng Giới bằng các giác quan của Thể Trí. Trong mỗi cơi nầy, cũng như cơi trần, có những loại vật chất thô trược nhiều hoặc ít cũng như thanh bai nhiều hay ít. Nói chung, những rung động thuộc loại thanh bai ai cũng thích, c̣n những rung động thô trược chẳng mấy ai thích. Trong con người có hai loại vật chất ; do đó y có thể đáp ứng với tất cả rung động, loại thấp cũng như loại cao do y lựa chọn. Nếu y loại trừ tất cả ảnh hưởng thấp và chỉ chấp nhận những rung động loại cao, như thế y đă trở nên một tay trợ giúp đáng kể, ngay cả trên cơi Trung Giới và Thượng Giới. Tuy nhiên Bà Blavatsky không chấp nhận những ảnh hưởng nầy, dù chúng ta mang lại những giúp đỡ tạm thời, bà gọi chúng là " những năng lực tâm linh và tinh..
[9:13:32 PM] Thuan Thi Do: Trong ṿng bốn mươi năm trôi qua từ khi Bà Blavatsky viết những ḍng nầy, riêng cá nhân tôi, chúng tôi có thể nhận thấy những sự nguy hiểm ấy ở nhiều sinh viên. Trước hết là tính kiêu căng, gồm một số lớn. Sự sở hữu một quyền năng, dù đó là gia tài của toàn thể nhân loại c̣n rất hiếm được biểu hiện, lại thường khiến cho nhà thần nhăn thiếu hiểu biết nghĩ rằng y ( thường xảy ra ở phái nữ nhiều hơn ) đă vượt rất cao trên đồng loại của ḿnh, y được Đấng Toàn Năng lựa chọn để hoàn thành một công tŕnh trọng đại của thế giới, y được phú bẩm một tính phân biện không bao giờ sai lầm, y được chọn lựa và cắt đặt dưới sự cai quản của các Thiên Thần để tạo dựng một vận hội mới, và đại loại như thế. Bạn nên nhớ rằng bên kia thế giới luôn luôn có vô số thực thể khoái hoạt và tinh ranh sẵn sàng khuyến khích những ảo tưởng nầy để phản ảnh lại những ư tưởng ấy và để họ mượn xác thân hầu đóng vai tṛ của một Đại Thiên Thần, hoặc vị lănh đạo tinh thần do họ dẫn dụ. Rủi thay, thật quá dễ dàng để khuyến dụ một người trung b́nh chưa có bản lĩnh trong bước đầu, nhưng lại hoàn toàn xứng đáng để nhận lănh một sự mặc khải đặc biệt ( tức quyền năng ) , thậm chí các bạn thân của y đến lúc ấy cũng bị mù quáng hoặc thiên kiến đă đánh giá y một cách sai lầm.
Một mối nguy hiểm thứ hai có thể là lớn lao hơn cả, v́ nó gây ra tất cả những mối nguy hiểm khác, đó là sự thiếu hiểu biết. Nếu nhà thần nhăn biết chút ít về đối tượng của y, nếu y hiểu một phần nào về những trạng thái đặc biệt của những cơi khác mà nhăn quan y hiện xâm nhập đến, th́ dù sao y có thể tưởng rằng y là người duy nhất đạt được đối tượng ấy, như một đặc ân, và thầm nói một cách tự hào rằng y không thể lầm lạc. Nhưng nếu y cũng như nhiều người khác, hoàn toàn thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết về những hoàn cảnh đặc biệt và mọi thứ khác, th́ trước hết y sẽ phạm từ lỗi lầm nầy đến lỗi lầm khác về những ǵ y thấy, rồi y sẽ làm mồi một cách dễ dàng cho tất cả những loại thực thể tinh quái hay lừa gạt trên cơi Trung Giới. Y không có một tiêu chuẩn nào để xét đoán những ǵ y thấy hoặc tưởng đă thấy, không có cách nào để kiểm nghiệm những sự mục kích hay liên lạc của y, do đó không một cảm thức nào của y được hợp lư hoặc vững vàng ; rồi một câu châm ngôn rút ra trong một quyển vở y phóng đại (magnify ) thành một đoạn văn có tính cách thiêng liêng mà kỳ thực chỉ là một thông điệp thần linh tầm thường. Mặt khác, thiếu cả một kiến thức sơ đẳng về khoa học, y thường không hiểu những điều quan năng của y phân biệt được, do đó y phát biểu những ǵ y thấy thật thiển cận và phi lư một cách trầm trọng.
Mối nguy hiểm thứ ba là thiếu sự tinh khiết. Người nào mà tư tưởng, đời sống lẫn khuynh hướng đều tinh khiết và không vị kỷ sẽ được an toàn trước ảnh hưởng của những thực thể bất hảo thuộc các cơi khác. Y không có ǵ để chúng bám víu. Chúng không thể lợi dụng y được. Trái lại, tất cả ảnh hưởng tốt lành tự nhiên bao bọc người ấy ; chúng vội vàng sử dụng y như một vận hà cho sự hành động của chúng, điều nầy dựng lên chung quanh y một hàng rào mới ngăn cản tất cả những ǵ hèn hạ, thấp kém và tà vạy. Ngược lại, người nào đời sống hoặc bản tâm thiếu trong sạch sẽ không khỏi lôi cuốn tất cả những tinh linh xấu xa của thế giới vô h́nh đến gần chung quanh y ; y sẵn sàng đáp ứng lại chúng ; c̣n những sức mạnh tốt lành ít khi có thể gây một ảnh hưởng nhỏ nào đến y.
Nhưng một nhà thần nhăn ư thức đến tất cả những mối nguy hại nầy, y cố gắng tránh chúng, chịu khó nghiên cứu kinh nghiệm về thần nhăn lẫn sự phân tích hợp lư về khoa ấy, và kết hợp những động lực tinh khiết với tấm ḷng khiêm tốn - người như thế chắc chắn có thể thu hoạch được nhiều kiến thức, nhờ những quan năng vừa mới nảy sinh ở y và những lợi ích do chúng mang lại để giúp y hoàn thành nhiệm vụ.
Những phép thần thông được kể ra rất dài ḍng trong chương ba của bộ Yoga Sutras của Patanjali ; tác giả cho rằng chúng được hoạch đắc bằng năm cách - do bẩm sinh, do dùng thuốc mê, nhờ thần chú, nhờ sự khổ luyện và nhờ đại định.
[9:17:38 PM] Thuan Thi Do: GLTVT 2; 14:34 phút