Họp Thông Thiên Học qua Skype ngày 5 tháng 9 năm 2015

Xin bấm vào đây để download âm thanh

[6:08:07 PM] *** Group call ***
[6:15:47 PM] Thuan Thi Do:

 Để đưa ra một sự khái quát rộng lớn, có thể nói rằng đối với đa số gia đ́nh nhân loại cuộc xung đột giữa thể dĩ thái với thể xác trọng trược này đă xảy ra, trong cuộc Thế Chiến vốn là sự áp đặt một thử thách và giới luật khác thường. Hăy nhớ rằng các thử thách và giới luật của chúng ta đều có tính cách tự đặt và không c̣n ở trong các giới hạn và các thời cơ của chúng ta nữa. Kết quả của việc thử nghiệm này là một số lớn người vượt qua được Con Đường Dự Bị, nhờ sự thanh tẩy và tinh luyện mà họ đă trải qua. Tiến tŕnh thanh luyện này, ở một mức độ nào đó, đă chuẩn bị họ cho một cuộc xung đột kéo dài trên cơi cảm dục đang ở trước mắt của mọi người t́m đạo trước khi được điểm đạo. Đó là “kinh nghiệm của Arjuna”. Đây là một điểm lư thú mà chúng ta cần suy gẫm và giải thích nhiều về sự bí nhiệm và về nỗi khó khăn trong tŕnh tự phát triển con người. Người t́m đạo cá biệt thường quen suy tưởng chỉ bằng các thuật ngữ của chính ḿnh và với các thử thách và cố gắng của cá nhân ḿnh. Y phải học cách suy tưởng về các biến cố xảy ra với quần chúng và kết quả mở đầu của các biến cố đó đối với nhân loại. Cuộc thể chiến là một tột đỉnh trong tiến tŕnh “làm mất sinh khí” nguồn ảo lực trên thế giới. Nhiều mănh lực được phóng thích và bị làm cạn và nhiều năng lượng bị tiêu phí. Tất nhiên có nhiều điều được làm sáng tỏ.

Ngày nay, nhiều người bận tâm vào các kiếp sống riêng tư của họ đến từng chi tiết với cùng tiến tŕnh và sự xung đột như nhau. Ở một mức độ nhỏ bé, những ǵ xảy ra trong Thế Chiến là đă diễn ra trong các kiếp sống của họ. Họ bận tâm với vấn đề ảo lực và do đó ngày nay chúng ta thấy con người ngày càng chú trọng vào việc luyện tập thể dục, tuân theo giới luật và luyện tập xác thân như được ấn định trong giới thể thao, trong các luyện tập điền kinh và huấn luyện quân sự. Mặc dầu tất cả đều có sự thúc đẩy sai lầm với các hậu quả khủng khiếp, tệ hại (lại nói theo cách khái quát rộng lớn), việc luyện tập thân thể và điều khiển thể xác có tổ chức của thanh niên trên thế giới ngày nay ở mọi quốc gia, đặc biệt là các nước quân sự ở Âu Châu, là đang chuẩn bị con đường cho hàng triệu người bước lên Con Đường Thanh Luyện. Hỡi huynh đệ, có phải là một sự thật khó hiểu chăng? Nhân loại đang được hướng dẫn đúng, cho dù (trong một mở đầu ngắn ngủi) họ hiểu sai tiến tŕnh và áp dụng các động lực thúc đẩy sai lầm cho các hoạt động đúng.

Sau này, chúng ta sẽ đề cập đến các điểm này một cách tỉ mỉ hơn, khi chúng ta đến tiết thứ ba và bắt đầu nghiên cứu các cách thức để chấm dứt ảo cảm, ảo tưởng và ảo lực. Hiện giờ tôi chỉ bận tâm đến việc đưa ra cho bạn một bức tranh khái quát và một phác thảo, sơ sài về bảng lược kê ở trang 41. Hăy cẩn thận nghiên cứu và nếu có thể, nên ghi nhớ nó, v́ khi hiểu đúng nó rồi, bạn sẽ có được sự hữu ích thực sự. Liên quan đến vấn đề ảo lực, tôi muốn nêu ra rằng một trong các bước đầu tiên đưa đến việc vận dụng đúng ảo lực là phối kết xác thân (physical coordination); do đó ngày nay cần nhấn mạnh vào việc huấn luyện trẻ con; như vậy chúng ta cũng dùng đến một tiến tŕnh tương tự dưới tên gọi “chỉnh hợp” (“alignment”) khi bàn đến việc thiền định và cố gắng đặt dưới sự kiềm chế của linh hồn ngày càng nhiều. Đạo sinh nên ghi nhớ kỹ điều này và hăy suy gẫm về các câu sau đây:


1. Phối kết về thể xác.
2. Định hướng cho thể cảm dục.
3. Hướng về trí tuệ.
4. Chỉnh hợp cho phàm ngă.
Đây là mọi cố gắng để diễn tả tiến tŕnh “hoạt động đúng trên Đường Phản Bổn Hoàn Nguyên”. Việc trở về Cội Nguồn này là mục tiêu cuối cùng của bốn giới trong thiên nhiên. Chúng ta có thể bàn rộng quan niệm này bằng cách mô tả chân lư theo cách sau đây:
Tiến tŕnh Tương ứng Trở ngại
1. Phối kết .......... Giới khoáng chất ........ Ảo Lực - thể xác
2. Định hướng… Giới thực vật ............... Ảo cảm - thể cảm dục
3. Hướng về ...... Giới động vật ............. Ảo tưởng - trí tuệ
4. Chỉnh hợp ...... Giới nhân loại............. Tổng Quả báo - phàm ngă
Do đó, các tiến tŕnh này đều có các tương ứng của chúng trong tất cả các giới và dẫn đến:
1. Khai mở ư thức thiêng liêng.
Điều này bắt đầu trong giới khoáng chất.
2. Biểu lộ của linh hồn.
Điều này là điển h́nh trong giới thực vật với các hữu ích và vẻ đẹp của giới đó.
3. Biểu lộ của Đức Christ.
Đây là mục tiêu được biết rơ của giới động vật đang hoạt động hướng về sự biệt lập ngă tính (thoát kiếp thú để làm người).

 4. Khai mở về sự vinh quang của Thượng Đế.
Đây là mục tiêu trước mắt của nhân loại.

4.− Ảo cảm trên cơi Thượng Trí … Tổng Quả báo
 

Bây giờ chúng ta sẽ đề cập rất vắn tắt về vấn đề Kẻ Chận Ngơ (Tổng Quả báo). Kẻ Chận Ngơ này thường được xem như là tai họa, như là một điều kinh khiếp cần tránh xa và như là một tai họa cuối cùng. Tuy nhiên tôi muốn nhắc nhở bạn rằng Kẻ Chận Ngơ là “kẻ đang đứng trước Cổng của Đấng Tối Cao”, kẻ đang đứng trong bóng tối của cửa điểm đạo, và là kẻ đối diện với Thiên Thần của Bản Lai Diện Mục mắt mở rộng, như kinh sách xưa có nói đến. Tổng Quả báo này có thể được định nghĩa như là toàn thể các lực của phàm ngă v́ được biểu lộ trong phàm ngă, trước khi giác ngộ, trước khi được linh hứng và trước khi được điểm đạo. Ở giai đoạn này, phàm ngă cực kỳ mạnh mẽ, c̣n Tổng Quả báo tượng trưng cho tất cả các mănh lực tâm thông và trí tuệ mà qua bao thời đại đă khai mở trong con người và được bảo dưỡng cẩn thận; Tổng Quả này có thể được xem như là sức mạnh của dạng vật chất tam phân, trước khi hiến dâng và quên ḿnh cho sự sống của linh hồn và cho việc phụng sự Thánh Đoàn, Đấng Tối Cao và nhân loại.

Tổng Quả là tất cả những ǵ hiện hữu trong con người, ngoại trừ Chân ngă tâm linh; đó chính là trạng thái thứ ba của thiên tính, khi được biểu lộ trong cơ cấu con người, chính trạng thái thứ ba này sau rốt phải phụ thuộc vào trạng thái hai, tức linh hồn.

Hai mănh lực tương phản vĩ đại này tức Thiên Thần và Tổng Quả báo được mang lại cùng nhau – giáp mặt nhau – và cuộc xung đột cuối cùng xảy ra. Lần nữa, bạn nên để ư rằng đó là cuộc gặp gỡ và là trận chiến giữa một cái khác với cặp đối hợp cao. Do đó, người t́m đạo có đến ba cặp đối hợp mà y phải đối phó khi tiến về phía ánh sáng và sự giải thoát.


Các cặp Đối Hợp
1.− Trên cơi trần .................. chất thô trược và chất dĩ thái.
Tranh chấp nhau trên Con Đường Thanh Luyện.
2.− Trên cơi cảm dục ........... các nhị nguyên quen thuộc.
Tranh chấp nhau trên Con Đường Đệ Tử.
3.− Trên cơi trí ..................... Thiên Thần và Tổng Quả.
Tranh chấp nhau trên Con đường Điểm Đạo.
 

Tôi đă cân nhắc để đưa ra cho bạn đủ tài liệu suy gẫm; tuy nhiên, tôi muốn kết thúc bằng cách nêu ra cho bạn bản chất rất thực tiễn của những ǵ mà tôi đă truyền đạt và muốn thúc đẩy bạn t́m ra trong kinh nghiệm thực tiễn riêng của bạn, bản chất của cuộc tranh chấp mà mỗi một trong các bạn phải chiến đấu. Để giúp bạn trong việc này, tôi sẽ trợ lực bạn bằng một cách rất rơ rệt.

Sẽ có ích cho bạn nếu tôi chỉ ra cho bạn – mỗi người trong số bạn – các cung đang chi phối phàm ngă tam phân của bạn. Kế đó bạn sẽ chọn vị thế để tự hành động một cách thật khôn khéo, hầu truy ra một cách dễ dàng hơn các nguyên nhân của nỗi khó khăn và để nghiên cứu một cách sáng suốt hơn kết quả mà bạn có thể có được đối với nhau và đối với những ǵ mà bạn tiếp xúc được trong đời sống hằng ngày. Tôi sẽ đi sâu vào chi tiết việc luyện tập vốn sẽ được dành cho mỗi một trong ba thể, chọn một trong các hiện thể (vehicle) vào một lúc và giải thích vấn đề mà mỗi người trong các bạn đang đối phó liên quan với hiện thể đặc biệt đó, định ra một cách tham thiền để giúp bạn (một cách dễ dàng hơn nhiều) vận dụng được phàm ngă từ khía cạnh đặc biệt đó. Do đó, bạn sẽ ghi nhận ở đoạn trên rằng ư định của tôi là đưa ra cho bạn việc luyện tập cẩn thận hơn và có hiệu quả hơn nhiều. Bạn có hưởng được lợi ích nhờ việc luyện tập đó không? Trong thời gian đó và để cho bạn có thể hiểu đúng những ǵ mà tôi sẽ nói lại cho bạn sau này, bạn sẽ tự ḿnh nghiên cứu cẩn thận trong sáu tháng tới và xét xem coi những ǵ mà tôi đưa ra có đúng không? Hăy dùng tài liệu được đưa ra trong bộ sách “Luận Về Bảy Cung” như là tài liệu hướng dẫn của bạn trong việc tự phân tích này. Tôi xin nhắc là các cung đang chi phối ba thể theo thứ tự sau:

1. Cung chi phối thể trí ................... các Cung 1, 4, 5
2. Cung chi phối thể cảm dục ........ các Cung 2, 6
3. Cung chi phối thể xác ................ các Cung 3, 7
Như vậy bạn sẽ ghi nhận rằng tất cả các cung đều có vai tṛ trong cơ cấu con người, tạo ra mọi t́nh huống cho các hiện thể khi có dịp và mọi điều kiện cho phương tiện phát triển. Phát biểu này đối với các cung đang chi phối là một phát biểu của một qui luật tất yếu, trừ trường hợp của các đệ tử nhập môn.
Khi đọc và nghiên cứu, bạn sẽ thấy nó đáng để suy gẫm và sau đó để trả lời các câu hỏi sau:
1.− Mối liên hệ của trực giác với vấn đề ảo tưởng là ǵ?
2.− Bằng cách nào mà sự giác ngộ có thể xua tan được ảo cảm, và điều đó có thể xảy ra cách nào?
3.− Định nghĩa ảo lực và đem sự hiểu biết của bạn về linh hứng như là một yếu tố để xua đuổi ảo lực.
[6:54:32 PM] Thuan Thi Do: http://www.vivekananda.net/PDFBooks/RajaYoga1920.pdf
[6:55:04 PM] Thuan Thi Do: http://hermetic.com/crowley/aa/Raja%20Yoga%20by%20Swami%20Vivekananda.pdf
[7:13:59 PM] Thuan Thi Do:

2. TIA SÁNG DUY NHẤT SINH RA NHIỀU TIA NHỎ HƠN. SỰ SỐNG CÓ TRƯỚC H̀NH THỂ VÀ SỰ SỐNG TỒN TẠI SAU KHI NGUYÊN TỬ CUỐI CÙNG BIẾN MẤT (1). TIA SÁNG SỰ SỐNG, DUY NHẤT, XUYÊN QUA VÔ SỐ TIA KHÁC, GIỐNG NHƯ SỢI CHỈ XUYÊN QUA CHUỖI HẠT (MANY BEADS) (2).

Câu kinh này diễn tả quan niệm về đường Kim Quang (Sutratma) chạy xuyên qua những thế hệ liên tiếp, là một quan niệm hoàn toàn của kinh Phệ Đà mà chúng ta đă giải thích ở đâu đó rồi. Vậy th́ làm thế nào để giải thích câu này? Người ta phải nhờ đến một sự so sánh, một minh hoạ quen thuộc mặc dù tất nhiên là thiếu sót (tất cả những sự so sánh tương đồng khả dụng của chúng ta đều phải chịu như vậy). Tuy nhiên, trước khi trông cậy vào cách so sánh này, tôi muốn hỏi, đối với bất cứ người nào trong chúng ta, khi chúng ta khảo sát tiến tŕnh phát triển và lớn lên của một bào thai thành ra đứa trẻ khoẻ mạnh, nặng lối vài cân Anh (3) th́ điều này có không được tự nhiên hay thậm chí “siêu nhiên” chăng? Tiến triển từ cái ǵ? Từ một phần của một tiểu

--------------------------------
1 Của h́nh hài thể xác.
2 Trong bản thảo viết tay năm 1886 là chữ “Pearls”.
3 Một cân Anh (pound) = 0,453 kg (LND).

-----------------------------------

noăn cực kỳ bé nhỏ và một con tinh trùng. Rồi th́ chúng ta sẽ thấy đứa bé lớn lên thành một người cao lối 6 bộ (độ 1,8m – LND)! Điều này nhằm nói tới sự bành trướng của vật chất và của nguyên tử, từ một vật nhỏ như vi sinh vật, cho đến một vật nào đó cực đại, từ một vật không thấy được bằng mắt trần, cho đến vật khách quan và thấy được. Khoa học đă tŕnh bày tất cả các điều này, và tôi dám nói là, những lư thuyết về phôi sinh học, về sinh vật học và về sinh lư học của khoa học thật là đúng chừng nào mà nó c̣n quan sát vật chất một cách đúng đắn. Tuy nhiên, hai sự khó khăn chính của phôi sinh học – nghĩa là những động lực ǵ có tác dụng tạo thành bào thai và đâu là nguyên nhân của “sự truyền đạt di truyền” của sự tương đồng về thể xác, về t́nh cảm hay về tư tưởng – chưa bao giờ người ta giải đáp một cách thoả đáng; nhưng khó khăn này cũng chưa bao giờ giải quyết được; cho đến khi nào các nhà khoa học hạ ḿnh chấp nhận những lư thuyết của huyền môn. Nhưng nếu không có một người nào ngạc nhiên về hiện tượng hữu h́nh này, ngoại trừ việc này đă làm bối rối những nhà phôi sinh học, th́ tại sao sự phát triển bên trong của cái trí chúng ta, sự tiến hoá của Linh Hồn Con Người thành ra Linh Hồn Thiêng Liêng, lại được xem như là, hoặc dường như là không thể nào có được hơn điều kia?

Những nhà Duy Vật Chủ Nghĩa và những nhà Tiến Hoá Chủ Nghĩa của phái Darwin, hẳn thật là dại dột khi chấp nhận những lư thuyết mới được chế ra của Giáo sư Weissman, tác giả quyển Beitrage Zur Descendenzlehre, về một trong hai sự bí mật của khoa phôi sinh học (như đă được chỉ rơ ở trên) mà dường như ông nghĩ ḿnh đă giải quyết xong, v́ khi điều này được giải quyết một cách đầy đủ, th́ khoa học sẽ bước vào lănh vực của huyền môn thực sự và vĩnh viễn vượt ra ngoài cả lănh vực của sự thay h́nh đổi dạng như Darwin đă dạy. Theo quan điểm của Chủ nghĩa duy vật, th́ hai lư thuyết này không thể dung hoà được. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhà Huyền bí học, th́ lư thuyết mới này có thể giải quyết được tất cả những bí mật này. Người nào chưa biết được sự khám phá của Giáo sư Weissmann – ông đă có thời theo phái Darwin một cách nhiệt thành – th́ nên mau chóng sửa chữa lại khuyết điểm này. Triết gia phôi sinh học người Đức này đă dẫm chân lên đầu cả hai triết gia Hy Lạp Hippocrates và Aristotle, và đă quay trở về giáo lư cổ truyền Ấn Độ, khi ông chứng minh rằng một tế bào cực tế vi trong số hàng triệu tế bào khác đang hoạt động trong việc cấu tạo nên một cơ thể động vật, chỉ một ḿnh và không có sự trợ giúp nào, bằng cách tự phân thân một cách thường xuyên để sinh sản thêm măi, đă quyết định h́nh dáng của một người (hay cầm thú) tương lai với những đặc tính thể chất, trí tuệ và tâm linh của nó. Chính tế bào đó ghi lại trên gương mặt h́nh dáng người ấy những nét đặc thù của cha mẹ y hay vị tổ tiên xa xôi nào đó. Cũng chính các tế bào đó truyền lại cho y những đặc tính trí tuệ và tinh thần của cha mẹ y hay tổ tiên y. Nguyên sinh chất (Plasm) ấy là cái phần bất diệt của thể xác chúng ta, chỉ là nhờ bởi phương


[7:17:44 PM] Thuan Thi Do:
2. The one ray multiplies the smaller rays. Life precedes form, and life survives the last atom (of Form, Sthula-sarira, external body). Through the countless rays the life-ray, the one, like a thread through many beads (pearls) (a).

(a) This sloka expresses the conception — a purely Vedantic one, as already explained elsewhere — of a life-thread, Sutratma, running through successive generations. How, then, can this be explained? By resorting to a simile, to a familiar illustration, though necessarily imperfect, as all our available analogies must be. Before resorting to it, however, I would ask whether it seems unnatural, least of all “supernatural,” to any one of us, when we consider that process known as the growth and development of a foetus into a healthy baby weighing several pounds — evolves from what? From the segmentation of an infinitesimally small ovum and a spermatozoon; and afterwards we see that baby develop into a six-foot man! This refers to the atomic and physical

Footnote(s) ———————————————
* Paracelsus calls them the Flagae; the Christians, the “Guardian Angels;” the Occultist, the “Ancestors, the Pitris;” they are the sixfold Dhyan Chohans, having the six spiritual Elements in the composition of their bodies — in fact, men, minus the physical body.

Vol. 1, Page 223 THE MYSTERY OF BEING.
expansion from the microscopically small into something very large, from the — to the naked eye — unseen, into the visible and objective. Science has provided for all this; and, I dare say, her theories, embryological, biological, and physiological, are correct enough so far as exact observation of the material goes. Nevertheless, the two chief difficulties of the science of embryology — namely, what are the forces at work in the formation of the foetus, and the cause of “hereditary transmission” of likeness, physical, moral or mental — have never been properly answered; nor will they ever be solved till the day when scientists condescend to accept the Occult theories.* But if this physical pheno-

Footnote(s) ———————————————
* The materialists and the evolutionists of the Darwinian school would be ill-advised to accept the newly worked-out theories of Professor Weissmann, the author of Beitrage zur Descendenzlehre, with regard to one of the two mysteries of Embryology, as above specified, which he seems to have solved — as he thinks. For, when it is solved, Science will have stepped over into the domain of the truly occult, and stepped for ever out of the realm of transformation, as taught by Darwin. The two are irreconcileable, from the standpoint of materialism. Regarded from that of the Occultists, it solves all these mysteries. Those who are not acquainted with the new discovery of Professor Weissman — at one time a fervent Darwinist — ought to hasten to repair the deficiency. The German Embryologist-philosopher shows — thus stepping over the heads of the Greek Hippocrates and Aristotle, right back into the teachings of the old Aryans — one infinitesimal cell, out of millions of others at work in the formation of an organism, determining alone and unaided, by means of constant segmentation and multiplication, the correct image of the future man (or animal) in its physical, mental, and psychic characteristics. It is that cell which impresses on the face and form of the new individual the features of the parents or of some distant ancestor; it is that cell again which transmits to him the intellectual and mental idiosyncracies of his sires, and so on. This Plasm is the immortal portion of our bodies — simply through the process of successive assimilations. Darwin’s theory, viewing the embryological cell as an essence or the extract from all other cells, is set aside; it is incapable of accounting for hereditary transmission. There are but two ways of explaining the mystery of heredity; either the substance of the germinal cell is endowed with the faculty of crossing the whole cycle of transformations that lead to the construction of a separate organism and then to the reproduction of identical germinal cells; or, those germinal cells do not have their genesis at all in the body of the individual, but proceed directly from the ancestral germinal cell passed from father to son through long generations. It is the latter hypothesis that Weissmann accepted and has worked upon; and it is to this cell that he traces the immortal portion of man. So far, so good; and when this almost correct theory is accepted, how will Biologists explain the first appearance of this everlasting cell? Unless man “grew” like the “immortal Topsy,” and was not born at all, but fell from the clouds, how was that embryological cell born in him?

Vol. 1, Page 224 THE SECRET DOCTRINE.
menon astonishes no one, except in so far as it puzzles the Embryologists, why should our intellectual and inner growth, the evolution of the human-spiritual to the Divine-Spiritual, be regarded as, or seem, more impossible than the other? Now to the simile.
[7:27:54 PM] Thuan Thi Do: Footnote (s) ---------------
* Các vật, và các nhà tiến hóa của trường Darwin sẽ rất thiếu khôn ngoan để chấp nhận các lư thuyết mới làm ra của giáo sư Weissmann, tác giả của Beitrage zur Descendenzlehre, liên quan đến một trong hai bí ẩn của phôi với, như ở trên chỉ định, mà ông dường như đă được giải quyết - như ông nghĩ. V́, khi nó được giải quyết, khoa học sẽ có bước qua vào miền của sự huyền bí, và bước cho từng ra khỏi lĩnh vực của sự chuyển đổi, như được dạy bởi Darwin. Hai là irreconcileable, từ quan điểm của chủ nghĩa vật chất. Coi từ đó của Occultists, nó giải quyết tất cả những mầu nhiệm này. Những người không được làm quen với những khám phá mới của giáo sư Weissman - cùng một lúc một người theo thuyết tiến hóa nhiệt - ought để đẩy nhanh để sửa chữa những thiếu hụt. Đức phôi triết lăm - do đó bước trên đầu của Hy Lạp Hippocrates và Aristotle, quay lại ngay vào những lời dạy của các bậc Thánh cũ - một tế bào vô cùng nhỏ, trong số hàng triệu người khác tại nơi làm việc trong sự h́nh thành của một sinh vật, xác định một ḿnh và không được giúp đỡ, bằng phương tiện của phân khúc liên tục và phép nhân, h́nh ảnh chính xác của người đàn ông trong tương lai (hoặc động vật) trong nó chất, tinh thần, và đặc điểm tâm linh. Nó là tế bào mà gây ấn tượng trên khuôn mặt và h́nh thức của các cá nhân mới các tính năng của cha mẹ hoặc của một số tổ tiên xa xôi; nó là ô đó mà truyền cho anh idiosyncracies trí tuệ và tinh thần của những con đực của ḿnh, và như vậy. Tiếng rào rào này là phần bất tử của cơ thể chúng ta - chỉ đơn giản là thông qua quá tŕnh assimilations tiếp. Lư thuyết của Darwin, xem các tế bào phôi thai như là một bản chất hoặc trích từ tất cả các tế bào khác, được đặt sang một bên; nó không có khả năng chiếm truyền di truyền. Có nhưng hai cách giải thích những bí ẩn của di truyền; thực chất của các tế bào mầm được ưu đăi với các giảng viên của băng qua toàn bộ chu kỳ biến đổi mà dẫn đến việc xây dựng một cơ thể riêng biệt và sau đó đến sự sinh sản của các tế bào mầm giống hệt nhau; hay, những tế bào mầm không có nguồn gốc của họ ở tất cả trong cơ thể của cá nhân, nhưng tiến hành trực tiếp từ các tế bào mầm của tổ tiên truyền từ cha sang con thông qua các thế hệ dài. Đó là giả thuyết sau đó Weissmann chấp nhận và đă làm việc thuận; và nó là để tế bào này mà anh lần theo phần bất tử của con người. Càng xa càng tốt; và khi lư thuyết gần như chính xác này được chấp nhận, làm thế nào sinh học sẽ giải thích sự xuất hiện đầu tiên của tế bào đời đời này? Trừ khi người đàn ông "lớn" như "bất tử Topsy," và không sinh ra ở tất cả, nhưng bị ngă từ những đám mây, làm thế nào được mà tế bào phôi thai sinh ra ở anh ta?
[7:31:12 PM] Thuan Thi Do: Complete the physical plasm, mentioned in the last foot-note, the “Germinal Cell” of man with all its material potentialities, with the “spiritual plasm,” so to say, or the fluid that contains the five lower principles of the six-principled Dhyan — and you have the secret, if you are spiritual enough to understand it.

“When the seed of the animal man is cast into the soil of the animal woman, that seed cannot germinate unless it has been fructified by the five virtues (the fluid of, or the emanation from the principles) of the six-fold Heavenly man. Wherefore the Microcosm is represented as a Pentagon, within the Hexagon Star, the “Macrocosm.” (“[[Anthropos]],”) a work on Occult Embryology, Book I.). Then: “The functions of Jiva on this Earth are of a five-fold character. In the mineral atom it is connected with the lowest principles of the Spirits of the Earth (the six-fold Dhyanis); in the vegetable particle, with their second — the Prana (life); in the animal, with all these plus the third and the fourth; in man, the germ must receive the fruition of all the five. Otherwise he will be born no higher than an animal”; namely, a congenital idiot. Thus in man alone the Jiva is complete. As to his seventh principle, it is but one of the Beams of the Universal Sun. Each rational creature receives only the temporary loan of that which has to return to its source; while his physical body is shaped by the lowest terrestrial lives, through physical, chemical, and physiological evolution. “The Blessed Ones have nought to do with the purgations of matter.” (Kabala, Chaldean Book of Numbers).

It comes to this: Mankind in its first prototypal, shadowy form, is the offspring of the Elohim of Life (or Pitris); in its qualitative and physical aspect it is the direct progeny of the “Ancestors,” the lowest Dhyanis, or Spirits of the Earth; for its moral, psychic, and spiritual nature, it is indebted to a group of divine Beings, the name and characteristics of which will be given in Book II. Collectively, men are the handiwork of hosts of various spirits; distributively, the tabernacles of those hosts; and occasionally and singly, the vehicles of some of them. In our present all-material Fifth Race, the earthly Spirit of the

Vol. 1, Page 225 SPIRIT FALLING INTO MATTER.
Fourth is still strong in us; but we are approaching the time when the pendulum of evolution will direct its swing decidedly upwards, bringing Humanity back on a parallel line with the primitive third Root-Race in Spirituality. During its childhood, mankind was composed wholly of that Angelic Host, who were the indwelling Spirits that animated the monstrous and gigantic tabernacles of clay of the Fourth Race built by (as they are now also) and composed of countless myriads of lives.* This sentence will be explained later on in the present Commentary. The “tabernacles” have improved in texture and symmetry of form, growing and developing with the globe that bore them; but the physical improvement took place at the expense of the spiritual inner man and nature. The three middle principles in earth and man became with every race more material; the Soul stepping back to make room for the physical intellect; the essence of elements becoming the material and composite elements now known.


[8:04:15 PM] Thuan Thi Do:

pháp đồng hoá liên tiếp. Lư thuyết của Darwin quan niệm một tế bào phôi thai như cái tinh hoa hay tinh chất của tất cả những tế bào khác, đă bị loại qua một bên v́ nó không thể giải thích hiện tượng di truyền. Chỉ có hai cách giải thích sự bí ẩn của di truyền. Một là chất liệu của chủng bào (germinal cell) có khả năng vượt qua toàn bộ chu kỳ biến thể đưa đến sự cấu tạo một cơ thể riêng biệt và sau đó đến việc sinh sản ra những chủng bào tương tự; hai là những chủng bào đó không hề sinh ra trong thể xác của một người mà trực tiếp xuất phát từ chủng bào tổ tiên cha truyền con nối, trải qua nhiều thế hệ lâu dài. Giáo sư Weissmann đă chấp nhận và khai triển giả thuyết sau này và ông đă truy nguyên cái phần bất diệt của con người đến tận tế bào đó. Sự việc diễn tiến đến đây có vẻ khả quan, và khi giả thuyết gần đúng hay được chấp nhận, làm sao các nhà sinh vật có thể giải thích sự xuất hiện đầu tiên của tế bào vĩnh cửu đó? Bằng cách nào tế bào phôi đó nảy sinh trong cơ thể con người trừ phi là y tự sinh ra chứ không do thai sinh, mà đột nhiên từ trên mây bay xuống?

Ta đây bổ túc Nguyên sinh chất Hồng trần (the Physical Plasm) nói trên, tức là “Chủng bào” (“Germinal Cell”) của con người có hàm chứa tất cả tiềm năng vật chất của nó với “Nguyên sinh chất Tâm Linh” (“Spiritual Plasm”) hay cái chất liệu vô h́nh chứa đựng năm nguyên khí thấp nhất của bậc siêu nhân có đủ Sáu nguyên khí, rồi ta sẽ nắm được bí quyết của vấn đề.


[8:04:52 PM] Thuan Thi Do: Kỳ sau học trang 605 GLBN
[8:05:57 PM] Thuan Thi Do: Kỳ sau học trang 120 Ảo Cảm
[8:43:48 PM] Thuan Thi Do: http://minhtrietmoi.org/Bailey/Tham%20Thien%20Huyen%20Mon.htm
[8:45:22 PM] Thuan Thi Do: Trong thời kỳ đặc biệt này, phương diện H́nh thức của tham thiền (dù chính yếu là dựa vào cung Chân ngă hay cung Phàm ngă) sẽ được phát triển nhiều. Các bạn có thể nh́n quanh và thấy nhiều h́nh thức thiền rất rơ rệt được tạo ra và đem dạy cho cá nhân lẫn cho nhóm, kết quả là tăng cường chánh thuật và do đó mang lại hiệu quả của luật lệ và trật tự cho thế gian. Thời kỳ tái thiết sắp đến, tiến hành theo đường lối của cung hiện hữu (cung bảy) mà sự thành công và thành [43] quả tối hậu gần như khả dĩ đạt được, có lẽ khá hơn mức mong đợi. Đức Chưởng Giáo sẽ đến đúng theo định luật, và không điều ǵ có thể ngăn được bước cận tiến của Ngài.
Ngay trước mắt, nhu cầu lớn lao của thời đại là cần có những người hiểu biết định luật và có thể làm việc đúng luật. Đây là một dịp tốt để phát triển nguyên tắc làm việc đó và để rèn luyện những người phụng sự thế gian.
Những Cung phụ là Cung Điều ḥa (cung bốn) và Cung Khoa học (cung năm) sẽ đáp ứng nhanh chóng với ảnh hưởng của Cung bảy. Nói thế có nghĩa là các Chân thần thuộc hai cung này dễ chịu ảnh hưởng theo chiều hướng mới. Các Chân thần của Cung sáu (Sùng tín) thấy khó thích nghi hơn với hướng này, cho đến mức tổng hợp mới thôi. Các Chân thần Cung một và hai th́ thấy đó là môi trường để phát biểu. Các Chân thần của Cung một có liên hệ trực tiếp với Cung bảy và dùng quyền lực để vận dụng định luật. Trong khi đó các Chân thần của Cung hai là cung tổng hợp nên hướng dẫn và chế ngự bằng t́nh thương.
Hôm nay, tôi đă trao cho các bạn nhiều điều đủ để suy ngẫm về yếu tố thứ năm này. Đó là cố gắng của tôi. C̣n ánh sáng hướng dẫn của trực giác là phần các bạn phải cố gắng. V́ những ǵ mà ánh sáng nội tâm tiết lộ thật có giá trị cho mỗi người hơn bất cứ điều ǵ được trao truyền từ bên ngoài. Bởi vậy, các bạn hăy suy ngẫm và xem xét kỹ.
Ngày 18-6-1920.
Vài lời Khích lệ.
. . . . . . Chỉ khi người đệ tử sẵn sàng từ bỏ tất cả để dấn thân vào công việc phụng sự các Đấng Cao cả và không giữ lại điều ǵ cho riêng ḿnh th́ mới đạt được sự giải thoát, và thể dục vọng (thể t́nh cảm) mới được chuyển hóa lên thể trực giác cao siêu (thể bồ-đề). Chính việc phụng sự hoàn hảo mỗi ngày – phụng sự mà không nghĩ đến hay tính toán ǵ về tương lai – mới đưa hành giả đến vị thế của Người phụng sự toàn bích. Và, tôi có thể gợi ư một điều chứ? Tất cả những sự phiền muộn, âu lo đều chính yếu là do động cơ vị kỷ. Bạn sợ phải đau khổ nhiều hơn. Bạn co rút lại v́ ngại phải trải thêm những kinh [44] nghiệm đau buồn. Không phải đạt mục tiêu bằng cách đó đâu. Mục tiêu chỉ đạt được bằng con đường từ bỏ. Có lẽ, từ bỏ có nghĩa là từ bỏ niềm hoan hỉ, từ bỏ thanh danh, từ bỏ bằng hữu, hay từ bỏ mọi thứ mà ḷng ta bám chặt vào. Tôi chỉ nói có lẽ thôi, chứ tôi không khẳng định là phải vậy. Tôi chỉ muốn nêu rơ cho bạn thấy rằng nếu đó là con đường mà bạn cần phải đi để tiến đến mục đích, th́ đó chính là con đường hoàn hảo cho bạn. Điều ǵ giúp bạn mau đến trước các Đấng Cao cả, đến với Bước chân Sen vàng của các Ngài, th́ bạn nên mong muốn và hoan nghênh hết ḷng.

V́ thế, hằng ngày hăy vun trồng ước muốn cao thượng đó, là chỉ t́m sự tán thưởng của Đấng Hướng dẫn và Huấn sư ở nội giới, và sự đáp ứng của Chân nhân đối với những điều hay, được thực hiện một cách b́nh thản và vô tư.
Nếu trên đường đi, bạn có bị thiệt tḥi, mất mát, hăy mỉm cười với tất cả. Rốt cuộc sẽ có phần thưởng phong phú và sự đền bù mọi thứ đă mất. Nếu số phận các bạn bị chê bai và khinh bỉ, hăy vẫn cứ mỉm cười, v́ chỉ có cái nh́n tán thưởng của Chân sư là đáng t́m kiếm. Nếu bạn bị những lời dối trá bịa đặt, chớ sợ hăi mà hăy thẳng đường đi tới. Mỗi lời dối gạt đều là chuyện của thế gian, chỉ nên bỏ lại ở phía sau như một việc quá tầm thường, không buồn đụng đến. Mắt cứ nh́n thẳng một đường, chỉ mong muốn chăm chăm một việc, mục đích là hiến dâng, tai không c̣n lắng nghe những náo động của trần thế – đó là mục tiêu của người đệ tử. Tôi chỉ nói bấy nhiêu. Tôi chỉ muốn các bạn đừng hao tốn năng lực không cần thiết vào những tưởng tượng vô ích, vào những suy nghĩ nóng nảy, bôn ba, hay những mong chờ phiền phức.
6. Những Nhóm, Nội và Ngoại môn, mà người Môn sinh đang Liên hệ.
Điểm cứu xét hôm nay thật là thú vị, nó đề cập đến các nhóm mà người môn sinh đang liên hệ. Chúng ta đă xem xét [45] ít nhiều về sự liên hệ của người môn sinh với Chân sư và v́ thế tôi sẽ bàn tiếp về các liên hệ trong nhóm.
Hôm qua, tôi đă nói về sự quan trọng của tham thiền đối với nhóm mà người đệ tử đang liên hệ, trên cảnh giới Chân nhân. Hôm nay, tôi nói đến nhóm mà y liên hệ trong cơi trần này. Đây không hẳn là phản ảnh của nhóm ở cảnh giới Chân nhân, như bạn có thể dự kiến, v́ chỉ có một số Chân nhân của nhóm là có thể đầu thai trong cùng một thời gian. Chúng ta sẽ đề cập đến Luật Nhân quả, biểu lộ trong những nhóm của người môn sinh, thuộc quốc gia, tôn giáo hay gia đ́nh.
Bốn nhóm liên hệ với người môn sinh.
Trong mỗi kiếp giáng trần, một người có liên hệ với bốn nhóm:–
1. Nhóm lớn là quốc gia của y, là dây nhân quả (qua cộng nghiệp) bền chắc cho đến đỗi y không thể bứt rời được, dù y mong muốn. Y có sẵn những đặc trưng chủng tộc, những khuynh hướng trong tính t́nh, v́ chúng tiềm ẩn trong thể xác của chủng tộc y và suốt kiếp sống ở cơi trần y phải mang sự cấu tạo đó cùng những khuynh hướng cố hữu trong loại thể xác riêng biệt này. Thể xác này cho y bài học cần thiết, hoặc là (trong giai đoạn tiến hóa hiện tại) nó là thể xác tốt nhất cho loại công việc mà y phải hoàn thành. Loại thể xác Đông phương có một số tính năng riêng, và loại thể xác Tây phương lại có những tính năng khác. Có thể nói rằng tất cả những tính năng đó đều tốt như nhau. Tôi muốn nói rơ điểm này, bởi v́ khuynh hướng của người t́m đạo Tây phương là bắt chước y như những người phương Đông, và cố gắng ép những rung động của y theo cùng âm điệu với người phương Đông. Đôi khi, điều này gây quan ngại cho các Huấn sư nội môn, và cũng đưa đến những khó khăn trong các hạ thể của người môn sinh.
[46] Đă có nhi...
[9:15:43 PM] Thuan Thi Do: màu tím = cung Si
màu chàm = âm La
màu blue = cung Sol
[9:18:07 PM] Thuan Thi Do: xanh lá cây = Fa
vàng = Mi
Đỏ = Đô
Cam = Rê
[9:18:31 PM] Thuan Thi Do: xanh lá cây = hạ trí
[9:19:31 PM] Thuan Thi Do: vàng = fohat
[9:26:44 PM] Thuan Thi Do: [46] Đă có nhiều khuynh hướng tin tưởng rằng được làm một người Đông phương là mục tiêu của mọi người t́m đạo. Đừng quên rằng ngay đến các Đấng Cao cả cũng không phải toàn là người phương Đông, và các Chân sư có thể xác người Âu đều thành tựu ngang với các Chân sư nổi tiếng ở phương Đông. Hăy suy ngẫm kỹ điều này. Cần phải xem xét vấn đề một cách sáng suốt hơn, v́ thế, tôi mới nhấn mạnh đến sự kiện này. Khi những đường hướng nói trên được thấu hiểu nhiều hơn và khi các trường tham thiền được các Huấn sư đắc truyền thành lập và điều hành theo các đường lối huyền môn thực sự, th́ những phương thức hành thiền sẽ được trù liệu sao cho phù hợp với từng dân tộc và những tính khí dị biệt trong nhiều nước. Mỗi quốc gia đều có những ưu điểm và những khuyết điểm. V́ thế, công việc của vị Huấn sư giám đốc là áp dụng những phương cách hành thiền thế nào để tăng cường các tính tốt và sửa đổi các tật xấu. Tầm khai triển các ư tưởng này quá rộng đến đỗi tôi không thể bàn đến ở đây. Về sau, các chuyên gia sẽ nghiên cứu vấn đề này, và sẽ đến lúc người phương Đông và phương Tây đều có trường riêng cho họ, cùng tuân thủ những qui luật căn bản như nhau và cùng ở dưới sự giám sát của những vị Huấn sư nội môn như nhau. Thế nhưng (với sự sáng suốt của các Ngài) các trường ấy có một số điểm khác nhau, và (dù nhắm đến cùng mục đích) họ sẽ theo nhiều con đường khác biệt. Sau này, các bạn sẽ thấy những trường như vậy được thành lập ở mỗi quốc gia. Được nhập học không phải là việc dễ dàng, và mỗi ứng viên đều phải qua một kỳ thi tuyển gắt gao. Các bạn sẽ thấy mỗi trường đều khác nhau đôi chút, không phải ở những điều cơ bản, mà khác trong các phương pháp hành thiền, nhờ sự phân biện khôn ngoan của vị Hiệu trưởng. Vị này có cùng quốc tịch với các môn sinh và có các khả năng của thể nguyên nhân hoàn toàn phát triển. Chính vị này sẽ áp dụng phương pháp cho từng nhu cầu trực tiếp.
Ở phần sau tôi sẽ bàn rộng thêm về tương lai của các trường tham thiền này, nhưng hôm nay tôi chỉ nói tổng quát thôi. [47]
2. Nhóm thứ hai rất quan trọng trong đời của người môn sinh là nhóm gia đ́nh, gồm cả những đặc tính di truyền và những đặc trưng của ḍng họ. Mỗi người khi đến mức tiến hóa thích hợp với việc hành thiền huyền môn, th́ sẽ thận trọng chọn sống trong một gia đ́nh nào đó:–
a. Để trả nghiệp quả càng nhanh càng tốt.
b. V́ thể xác mà gia đ́nh ấy cung cấp, cần cho y.
Thế là bạn sẽ dễ dàng thấy rằng khi hướng dẫn hành thiền huyền môn ở cơi trần, trong thể xác, vị Huấn sư phải biết ít nhiều về gia hệ và các đặc tính bẩm sinh của người môn đệ, để t́m con đường ít trở ngại nhất cho y và để chỉ ra những ǵ cần khắc phục. (Có vài bạn khi tham thiền, thường quá chú ư mở tâm thức trực giác mà bỏ quên thể rất cần thiết là xác thân). Bộ năo của thể xác và sự tuân phục của năo bộ rất quan trọng trong tiến tŕnh tham thiền, và trong tương lai chúng ta không được xem thường nó như hiện tại. Tất nhiên là có t́nh trạng này, v́ hiện nay các huấn sư lăo luyện trong việc tập rèn thân xác hăy c̣n quá ít, không đủ đáp ứng nhu cầu.
Do đó, gia đ́nh là nhóm thứ hai cần phải cứu xét, vấn đề này có lẽ c̣n quan trọng hơn chúng ta tưởng.
Trong những trường tham thiền tương lai, sẽ có giữ hồ sơ về ḍng dơi của môn sinh, về lai lịch gia đ́nh, về sự tiến bộ lúc trẻ tuổi và trong cuộc sống, cùng là hồ sơ bệnh án của y. Các hồ sơ này sẽ thật chính xác từng chi tiết nhỏ, nhờ đó mà nhà trường biết người môn sinh rất rơ. Việc điều chỉnh cuộc sống của người môn sinh và sự tinh luyện thể xác một cách [48] khoa học là một trong những cố gắng đầu tiên. Khi nói về các trường loại này, tự nhiên tôi muốn các bạn đừng nghĩ đến một vài địa điểm xa vắng nào đó để làm vị trí của trường. Điều lư tưởng là sống ở thế gian nhưng không thuộc về thế gian, cho nên chỉ có người đệ tử ở mức tiến hóa cao hay ngay trước khi được Điểm đạo mới được phép ẩn dật trong một thời gian. Chỉ có sự từ bỏ ở nội tâm là đáng kể, và thái độ vô kỷ đối với hoàn cảnh mới quan trọng, chứ không phải việc ẩn thân ở một nơi riêng biệt nào.
3. Nhóm thứ ba cần xét đến là đoàn thể phụng sự mà có thể người môn sinh đang gia nhập. Người nào sẵn sàng để hành thiền huyền môn th́ trước hết phải chứng tỏ rằng nhiều kiếp qua y đă tha thiết muốn phụng sự và làm việc ḥa đồng với những người khác. Phụng sự vô kỷ là lớp đá cứng nền tảng, nằm sâu trong đời sống của huyền bí gia. Nếu không có nền tảng ấy, mối nguy hiểm sẽ ẩn núp vào chỗ bỏ trống, và việc hành thiền huyền môn sẽ trở thành một mối đe dọa. V́ thế, y phải là một phụng sự viên tích cực trong một lĩnh vực nào đó của thế gian và ở những cơi giới nội tại y cũng phải thi hành phận sự của ḿnh. Bây giờ vị Huấn sư lại phải xét đến:
a. Công tác tập thể mà người môn sinh đang thi hành, y đang có khả năng phụng sự như thế nào để được hữu hiệu hơn trong nhóm.
b. Loại công việc mà người môn sinh đang làm và mối liên hệ của y với các cộng sự viên khác – đây là một yếu tố huyền môn rất quan trọng – tất cả đều được cân nhắc cẩn thận trước khi hướng dẫn phương pháp thiền. Có thể người môn sinh phải ngưng tập một vài lối thiền (dù y đang ưa thích cũng vậy) v́ không thích hợp với công việc y đang làm, và v́ chúng có khuynh hướng phát triển vài đặc tính có thể gây trở ngại cho công tác phụng sự của y. Bao giờ người ta cũng nhắm [49] tới những loại thiền nào làm tăng khả năng phụng sự của môn sinh. Mục đích lớn ấy rốt cuộc sẽ bao gồm những mục đích nhỏ hơn.
4. Nhóm thứ tư mà vị Huấn sư cần cứu xét là nhóm ở nội giới mà người môn sinh liên kết, là nhóm những người cứu trợ mà y được xếp vào; hoặc nếu y là một đệ tử th́ đó là nhóm đệ tử mà y tham dự. Công việc đặc biệt của nhóm sẽ được xem xét, khả năng tiến tới của môn sinh cùng các bạn đồng môn sẽ được khuyến khích, và y sẽ được tăng cường khả năng làm tṛn nhiệm vụ được giao.
Trong những lần truyền đạt vừa qua, tôi chỉ nói sơ lược về nhiều yếu tố phải cứu xét khi ấn định một phương pháp thiền. Nào là bạn phải xét ba cung, xét mức t..
[9:27:18 PM] Thuan Thi Do: Nào là bạn phải xét ba cung, xét mức tiến hóa của thể nguyên nhân và sự tương liên của Chân nhân trên cảnh giới của nó với nhóm Chân nhân của nó, với Đ.Đ.C.G., và với phàm ngă là phản ảnh của Chân nhân. Bạn cũng phải xét yếu tố nghiệp quả, xét nhu cầu của thời đại và của người môn sinh, cùng sự liên hệ của y với bốn nhóm khác nhau.
Tất cả những điểm này đều có thể xét đến, và trong tương lai sẽ được thừa nhận, nhưng thời kỳ đặt nền móng vẫn chưa xong, và hăy c̣n lâu đối với các bạn. Mục tiêu hiện tại của tham thiền là sự kiểm soát thể trí, và luôn luôn phải là bước khởi đầu.
--------
[50]
aum
[9:27:50 PM] *** Call ended, duration 3:19:32 ***