Họp Thông Thiên Học ngày 5 tháng 11 năm 2011
[11/5/2011 5:14:15 PM] *** Conference call ***
[11/5/2011 5:15:46 PM] Van Atman: SECTION XVI
Peter a Jewish Kabalist, Not an Initiate
(Page 126) As to Peter, biblical criticism has shown that in all probability he had no more to do with the foundation of the Latin Church at Rome than to furnish the pretext, so readily seized upon by the cunning Irenaeus, of endowing the Church with a new name for the Apostle - Petra or Kiffa - a name which, by an easy play upon words, could be readily connected to Petroma. The Petroma was a pair of stone tablets used by the Hierophants at the Initiations, during the final Mystery. In this lies concealed the secret of the Vatican claim to the seat of Peter. As already quoted in Isis Unveiled, ii.92:
In the Oriental countries the designation Peter (in Phoenician and Chaldaic an interpreter), appears to have been the title of this personage. [ Taylor’s Eleusinian and Bacchic Mysteries, Wilder’s ed., p. x.]
So far, and as the “interpreters” of Neo-Christianism, the Popes have most undeniably the right to call themselves successors to the title of Peter, but hardly the successors to, least of all the interpreters of, the doctrines of Jesus, the Christ; for there is the Oriental Church, older and far purer than the Roman hierarchy, which, having ever faithfully held to the primitive teachings of the Apostles, is known historically to have refused to follow the Latin seceders from the original Apostolic Church, though, curiously enough, she is still referred to by her Roman sister as the “Schismatic” Church. It is useless to repeat the reasons for the statements above made, as they may all be found in Isis Unveiled, [ ii.91-94.] where the words, Peter, Patar, and Pitar, are explained, and the origin of the “Seat of Pitah” is shown. The reader will find upon referring to the above pages that an inscription was found on the coffin of Queen Mentuhept of the Eleventh Dynasty (2250 B.C. according to Bunsen), which in its turn was shown to have been transcribed from the Seventeenth Chapter of the Book of the Dead, dating certainly not later than 4500 B.C. or 496 years before the World’s Creation, in the Genesiacal chronology.
The Seat of Peter - (Page 127) Nevertheless, Baron Bunsen shows the group of the hieroglyphics given (Peter-ref-su, the “Mystery Word”) and the sacred formulary mixed up with a whole series of glosses and various interpretations on a monument 4,000 years old.
This is identical with saying that the record (the true interpretation) was at that time no longer intelligible . . . We beg our readers to understand that a sacred text, a hymn, containing the words of a departed spirit, existed in such a state, about 4.000 years ago, as to be all but unintelligible to royal scribes. [ Bunsen, Egypt’s Place in History. v.90.] “Unintelligible” to the non-initiated - this is certain; and it is so proved by the confused and contradictory glosses. Yet there can be no doubt that it was - for it still is - a mystery word. The Baron further explains:
It appears to me that our PTR is literally the old Aramaic and Hebrew “Patar,” which occurs in the history of Joseph as the specific word for interpreting, whence also Pitrum is the term for interpretation of a text, a dream.
This word, PTR, was partially interpreted owing to another word similarly written in another group of hieroglyphics, on a stele, the glyph used for it being an opened eye, interpreted by De Rougé [ Stele, p.44.] as “to appear,” and by Bunsen as “illuminator,” which is more correct. However, it may be, the word Patar, or Peter, would locate both master and disciple in the circle of initiation, and connect them with the Secret Doctrine; while in the “Seat of Peter” we can hardly help seeing a connection with Petroma, the double set of stone tablets used by the Hierophant at the Supreme Initiation during the final Mystery, as already stated, also with the Pithasthâna (seat, or the place of a seat), a term used in the Mysteries of the Tantriks in India, in which the limbs of the Satî are scattered and then united again, as those of Osiris by Isis. [ See Dowson’s Hindu Classical Dict., sub voc., “Pitha-sthânam.”] Pitha is a Sanskrit word, and is also used to designate the seat of the initiating Lama.
Whether all the above terms are due simply to “coincidences” or otherwise is left to the decision of our learned Symbologists and Philologists. We state facts - and nothing more. Many other writers, far (Page 128) more learned and entitled to be heard than the author has ever claimed to be, have sufficiently demonstrated that Peter never had anything to do with the foundation of the Latin Church; that his supposed name Petra, or Kiffa, also the whole story of his Apostleship at Rome, are simply a play on the term, which meant in every country, in one or another form, the Hierophant or interpreter of the Mysteries; and that finally, far from dying a martyr at Rome, where he had probably never been, he died at a good old age at Babylon. In Sepher Tolaoth Jeshu, a Hebrew manuscript of great antiquity - evidently an original and very precious document, if one may judge from the care the Jews took to hide it from the Christians - Simon (Peter) is referred to as “a faithful servant of God,” who passed his life in austerities and meditation, a Kabalist and a Nazarene who lived at Babylon “at the top of a tower, composed hymns, preached charity,” and died there.
[11/5/2011 5:19:28 PM] *** Call ended, duration 05:10 ***
[11/5/2011 5:19:35 PM] *** Conference call ***
[11/5/2011 5:41:56 PM] cao: LOC chào mọi người, xin chúc mọi người có buổi họp
vui, Lộc có họp nhóm với các Bạn Đạo cùng tôn giáo nên ko nghe đc bên đây, mọi
người thông cảm
[11/5/2011 5:50:45 PM] Thuan Thi Do:
http://www.katinkahesselink.net/blavatsky/articles/v14/
[11/5/2011 6:19:17 PM] Van Atman: LỜI GIỚI THIỆU.
Kỳ xuất bản cuốn sách này lần thứ nhất, phát hành năm 1885 trên trang đề tựa
được miêu tả như sau: “Một luận văn dành riêng cho những ai chưa hiểu biết về
Minh Triết Đông Phương và muốn hấp thụ ảnh hưởng của nó [1]”. Nhưng chính cuốn
sách này lại mở đầu như sau : “Những qui luật này được viết ra để cho tất cả các
hàng đệ tử”. Dĩ nhiên lời miêu tả sau cùng th́ rơ ràng và đúng hơn, trong đoạn
lược sử của sách. Bản nguyên tác của sách hiện nay là do Chơn Sư Hilarion đọc
cho bà Mabel Collins viết, khi bà ở trong một trạng thái thụ động như một đồng
tử. Bà là một mệnh phụ rất quen thuộc trong giới Thông Thiên Học; bà đă một lần
cộng tác với bà Blavatsky trong việc làm chủ bút tờ báo Lucifer. Chơn Sư
Hilarion nhận được bản nội dung sách này chính tự tay Sư Phụ của Ngài, tức là
Đấng Cao Cả mà các sinh viên Thông Thiên Học một đôi khi gọi Ngài là Đức
Vénetian, nhưng Đức Vénetian cũng chỉ soạn thảo một phần của sách mà thôi. Sách
này đă trải qua ba giai đoạn mà chúng ta hăy lần lượt ghi như sau:
Măi cho đến bây giờ, tác phẩm này chỉ là một cuốn sách nhỏ, nhưng khi chúng tôi
thấy nó lần đầu tiên th́ nó c̣n nhỏ hơn bây giờ. Đó là một cuốn sách viết tay
trên những tờ lá gồi, cũ xưa đến đỗi ta không đoán tuổi nó được, sách này cũ đến
nỗi ngay trước Thiên Chúa Giáng Sanh, người ta đă quên tên tác giả và ngày phát
hành sách, nguồn gốc sách đă bị quên lăng trong những đám mây mờ của thời tiền
sử xa xôi. Sách gồm mười tờ lá gồi và trên mỗi tờ chỉ có ba hàng chữ viết. V́
trong một cuốn sách viết tay, trên lá gồi như thế, chữ được viết theo dọc tờ
giấy, từ trên xuống dưới (như chữ nho), chứ không viết xuyên ngang trang giấy,
từ trái sang phải như ta thường viết bây giờ. Mỗi hàng chữ là một câu châm ngôn
ngắn đầy đủ ư nghĩa.
Để cho ba mươi hàng chữ này được tŕnh bày rơ ràng minh bạch, trong bổn in này
mà quí bạn đang đọc đây, chúng được in bằng chữ sậm. Trong nguyên bản, có những
câu châm ngôn được viết theo một lối chữ Bắc Phạn cổ xưa.
Chơn Sư Vénetian đă dịch sách này từ tiếng Bắc Phạn ra tiếng Hy Lạp để các môn
đệ của Ngài thuộc môn phái Alexandria đọc. Trong một kiếp, Chơn Sư Hilarion đă
là một môn đệ đó, mang tên là Iamblichus. Không những Đức Vénetian dịch các câu
châm ngôn, Ngài c̣n thêm vào đó những lời giảng nghĩa cần được đọc cùng với bản
nguyên tác.
Thí dụ, nếu nhận xét về 3 câu châm ngôn đầu tiên, ta thấy đoạn văn đầu số 4 (kế
tiếp) rơ ràng là dụng ư làm lời b́nh luận cho 3 câu trên, v́ vậy, ta phải đọc
như sau:
“Ngươi hăy tiêu diệt ḷng tham vọng, nhưng hăy làm việc như những kẻ ḷng đầy
tham vọng.
“Ngươi hăy tiêu diệt ḷng ham sống, nhưng hăy tôn trọng sự sống.
“Ngươi hăy tiêu diệt ḷng ham muốn sự tiện nghi, nhưng hăy sung sướng như những
kẻ chỉ sống để hưởng lạc thú”.
Tất cả những lời giảng giải và bàn rộng của Chơn Sư Vénetian được in bằng chữ
thường, những lời này (cùng với bản nguyên tác của các câu châm ngôn) làm thành
cuốn sách đă được phát hành lần đầu năm l885, v́ Chơn Sư Hilarion dịch sách từ
tiếng Hy lạp ra tiếng Anh nên mới có bản dịch như ngày nay. Khi sách vừa được in
xong, Ngài lại thêm vào đó những câu chú giải riêng của Ngài rất có giá trị.
Trong kỳ xuất bản thứ nhứt, những lời chú giải này được in trên những trang giấy
rời phía sau phết keo để dán lên đoạn đầu hay đoạn cuối sách vừa được in xong.
Trong bổn in mà quí bạn đang đọc đây, những lời chú giải được xếp đặt vào chỗ
thích hợp, nhưng chữ được xếp nhỏ hơn và có in chữ “Chú giải” ở phía trước mỗi
lời chú giải.
Trong mỗi kỳ tái bản về sau, người ta thêm vào đó những chương với lời đề tựa
“B́nh Luận” và theo như tôi hiểu th́ bà M.C. đă nghĩ rằng chính Chơn Sư Hilarion
đă cảm hứng bà, giống như khi bà viết nội dung sách đó. Tuy nhiên, không phải
đúng vậy đâu, v́ bất cứ ai chịu khó đọc những lời b́nh luận ấy cũng sẽ nhận thấy
rơ ràng tác giả thuộc về một môn phái Huyền bí học hoàn toàn khác biệt với môn
phái các Chơn Sư chúng ta [2].
Bài luận văn ngắn và viết rất hay về “Nhân Quả” cũng do Chơn Sư Vénetian viết và
được thêm vào kỳ xuất bản đầu tiên của cuốn sách này [3].
Cuốn Ánh Sáng Trên Đường Đạo là bài thứ nhất trong số ba bài luận văn hằng giữ
một vị trí độc đáo trong văn chương Thông Thiên Học, đó là những lời chỉ đạo mà
những vị đă đi trên Đường Đạo ban ra cho những kẻ muốn noi theo Đường đó. Tôi
nhớ ông Subba Row, đă quá cố, có một lần nói với chúng tôi rằng những qui luật
này có nhiều mức độ ư nghĩa khác nhau. Ông nói ta có thể học đi học lại những
qui luật ấy như những lời chỉ đạo thích hợp với mọi tŕnh độ cao thấp.
Trước hết, chúng thích hợp với kẻ chí nguyện – đang đi trên con Đường Nhập Môn,
rồi kẻ nào đă thật sự bước vào con Đường Thánh Đạo lần thứ nhất, cũng học lại
những qui luật này một lần nữa, nhưng ở một tŕnh độ cao hơn. Người ta nói rằng
sau khi đắc quả Chơn Tiên và đang tiến đến những quả vị cao hơn, hành giả vẫn có
thể học lại những qui luật trên thêm một lần nữa, các qui luật này vẫn được coi
như là những lời chỉ đạo với một ư nghĩa cao hơn. Theo cách đó, đối với những ai
đă hiểu được trọn vẹn cái ư nghĩa thần bí của cuốn sách này, th́ sách sẽ đưa họ
đi xa hơn là bất cứ cuốn sách nào khác.
Rồi đến cuốn “Tiếng Nói Vô Thinh” do chính bà Blavatsky ghi chép lại cho chúng
ta; thực ra sách này ghi chép ba bài thuyết pháp của Đức Aryasanga, Vị Đại Giáo
Chủ (mà hiện nay chúng ta được biết là Chơn Sư Djwal Kul); sau này, ba bài
thuyết pháp đó được đệ tử của Ngài là Alcyone nhớ và chép lại trên giấy. Sách ấy
ghi những lời chỉ đạo khiến ta tiến đến quả vị một vị La Hán. Trên nhiều phương
diện, sách được soạn thảo hoàn toàn khác với quan điểm của Chơn Sư Hilarion,
thật vậy nếu người sinh viên cần mẫn so sánh những điểm giống nhau và khác nhau
trong hai cuốn sách th́ chắc đó phải là một công việc rất hứng thú.
Cuốn thứ ba trong loại sách hướng dẫn ta trên Đường Đạo mới vừa được Alcyone đưa
ra; Alcyone chính là vị đă ghi chép dùm chúng ta các bài thuyết pháp của Đức
Aryasanga. Trong cuốn “Dưới Chơn Thầy”, Alcyone nhắc lại cho ta nghe những lời
giáo huấn mà Chơn Sư Kuthumi mang ra dạy Alcyone – với mục đích chuẩn bị cho ông
được Điểm Đạo lần thứ nhất. V́ vậy, phạm vi cuốn sách thứ ba này nhỏ hẹp hơn các
cuốn khác, nhưng nó lại có ưu điểm là vô cùng rơ ràng và giản dị, v́ những lời
giáo huấn trong sách phải làm sao cho một trí óc hồng trần rất non nớt có thể
thông hiểu được.
Cuốn sách viết tay bằng tiếng Bắc Phạn tối cổ, là nguồn cội xuất xứ của cuốn
“Ánh Sáng Trên Đường Đạo” cũng được dịch ra tiếng Ai Cập, và nhiều lời giải
nghĩa của Chơn Sư Vénetian có các âm thanh giáo lư của Ai Cập hơn là âm thanh
giáo lư Ấn Độ. Dù Ai Cập hay Ấn Độ, thật là không c̣n có một viên ngọc báu nào
quư giá hơn tác phẩm này trong văn chương Thông Thiên Học của chúng ta – không
c̣n cuốn sách nào khác có thể đền bù xứng đáng cái công phu học hỏi tỉ mỉ và cần
mẫn nhất của chúng ta. Nhưng xin hăy đọc đoạn văn trích trong lời nói đầu của
cuốn “Dưới Chơn Thầy”.
“Thật là chưa đủ chút nào nếu ta chỉ nói suông rằng những lời dạy bảo này thật
đúng chơn lư và tốt đẹp: ai muốn thành công th́ phải thi hành và tuân theo đúng
những lời chỉ dạy. Một người sắp chết đói mà chỉ nh́n ngó đồ ăn và nói suông
rằng: Đồ ăn ngon quá ! Th́ hắn có no bụng được đâu ? Hắn phải tḥ tay gắp lấy
ăn. Cũng giống như thế, thật là chưa đủ chút nào nếu quí bạn chỉ nghe thấy lời
Chơn Sư dạy thôi; quí bạn phải thực hành điều Ngài dạy, phải theo dơi từng tiếng
nói, phải nhận xét từng dấu hiệu bóng gió xa xôi. Nếu quí bạn bỏ qua một dấu
hiệu hay một tiếng nói, th́ dấu hiệu hay tiếng nói này sẽ mất đi măi măi, v́
Chơn Sư không bao giờ nói hai lần.”
Được soạn thảo với mục đích rơ rệt là thúc đẩy sự tiến hóa của những kẻ đang đi
trên đường Đạo, các cuốn sách này đưa ra những lư tưởng mà người thế gian ít khi
được chuẩn bị để có thể chấp nhận chúng. Con người chỉ thực sự hiểu các lời giáo
huấn nếu y áp dụng chúng trong đời sống. Nếu y không thực hành những lời giáo
huấn th́ y không sao hiểu được cuốn sách này, và sẽ nghĩ rằng đây là một cuốn
sách vô ích và không thực tế. Nhưng nếu quí bạn thành thực cố gắng sống theo
sách này th́ ánh sáng sẽ chiếu rọi vào sách ngay. Chúng ta chỉ có thể thưởng
thức viên ngọc báu vô giá này theo cách đó mà thôi.
C.W. LEADBEATER
________________________________________
[11/5/2011 6:29:52 PM] Thuan Thi Do: Trước khi thấy được, mắt phải ráo lệ.
A.B. - Ấy là câu đầu của bốn câu cách ngôn xác định bốn đức tánh cần phải khai
triển trước khi bước vào Đường Đạo chánh thức là năng lực thấy, nghe, nói và sau
hết là đứng trước mặt Đức Chơn Sư. Nhờ những năng lực ấy giúp ta phụng sự nhân
loại đắc lực dưới quyền điều khiển của Ngài. Câu cách ngôn nầy cũng như ba câu
cách ngôn kế tiếp đều liên quan đến hai hạng đe ätử. Thuộc về hạng thứ nhứt là
những kẻ đang dơi bước trên con đường Nhập Môn, tập cởi bỏ tất cả những ǵ, theo
chúng ta hiểu, là thuộc về Phàm Nhơn. Những lời giáo huấn mở đầu nầy để chỉ cho
chúng nó việc làm trước tiên là phải lo diệt trừ bản ngă ( Phàm Nhơn ). Thuộc về
hạng thứ hai là những Đệ Tử đă được Điểm Đạo. Người ta đ̣i hỏi ở hạng nầy nhiều
hơn : học phải cởi bỏ cá tánh của ḿnh hay là Chơn Nhơn c̣n bị chuyển kiếp luân
hồi, hầu khi đi mút Đường Đạo, đời sống của họ phải hoàn toàn đặt dưới sự điều
khiển của Chơn Thần. Cho nên, ta sẽ nhận thấy mỗi câu của bốn câu cách ngôn có
thể thích dụng hoặc cho Phàm Nhơn, hoặc cho Chơn Nhơn. Sự hiểu biết những câu
cách ngôn nầy tùy thuộc cách học giả đem thực hành trong đời sống của ḿnh. Ta
cần phải chịu khó chú ư và nhớ lại những câu cách ngôn nầy có thể có tới hai
phương diện để hiểu khác nhau. Nếu những lời giáo huấn trên đây được các Đấng
Chơn Sưt rong Quần Tiên Hội đem ra dạy ta th́ những vị chuyên luyện tà thuật để
ám hại người cũng dùng những lời giáo huấn y hệt như thế để dạy Đệ Tử của họ, có
khi ta gọi là những anh em trong bóng tối. Có hai cách làm cho mắt có thể ráo
lệ. Lư do thúc đẩy kẻ chí nguyện tiến bước chỉ định con đường nó theo dơi. Một
trong những con đường ấy là con đường của kẻ muốn thành đệ tử của phái Bàng Môn,
y sẽ giải thích câu cách ngôn như một lời dạy nên lănh đạm hoàn toàn đối với sự
vui sướng cũng như đối với sự đau khổ. Sự lănh đạm được bằng cách làm cho chai
ḷng và tránh tất cả mọi thiện cảm. Kẻ nào kiếm thế để làm cho mắt ráo lệ bằng
cách diệt mất mọi cảm giác th́ đi đến gần con đường tăm tối của Tả Đạo. Trái
lại, người theo Chánh Đạo th́ không được khóc nỗi đau khổ riêng của ḿnh. Không
phải bản tánh thấp hèn của nó làm cho nó lay động, nhưng v́ nó rất chú trọng đến
t́nh cảm của kẻ khác. Khó mà lănh đạm trước nỗi đau khổ của con người mà không
phương hại đến ḿnh. Bảng kê dưới đây chứng minh sự tương phản của hai con đường
:
Tả đạo |
Chánh đạo |
Khép chặt tấm ḷng không mở mang năng lực cảm giác đến một mảy phiền năo | đỗi ứng đáp với tất cả những sự rung động của kẻ khác. |
Dựng một bức tường bao | Lật đổ mọi tường rào chia rẽ quanh ḿnh đặng tránh không cho ta cảm động trước mọi đau khổ nỗi niềm đau khổ của kẻ khác |
Bóp nghẹt đời sống của nó | Mở mang đời sống của nó. Con người t́m cách ḥa ḿnh trong đời sống của đồng loại |
Dắt đến sự chết, sự tiêu diệt, | Dắt đến sự sống, sự trường sanh cơi A Tỳ. bất tử, cơi Niết Bàn. |
Sự sai biệt chính yếu của hai phương pháp là phương pháp thứ nhứt không ngớt
hướng về sự chia rẽ và sau cùng ở trong t́nh trạng cô lập tuyệt đối, trái lại,
phương pháp thứ hai có một mục đích kiên cố về sự đoàn kết và đi đến một t́nh
trạng hợp nhất hoàn toàn. Bên Chánh Đạo, kẻ chí nguyện trong khi chung đụng với
ngoại giới, phải lần lượt loại trừ tất cả cái chi biểu lộ ra bằng sự đau khổ
riêng của ḿnh, và làm lay chuyển con người nó với bao nỗi phiền muộn lo âu. Nó
phải đạt đến một tŕnh độ mà mọi sự lo buồn về tư lợi không c̣n nữa. Hẳn nhiên,
nó phải từ bỏ tất cả lối sống cá nhân riêng biệt tự do đặng làm thế nào cho thể
t́nh cảm (Thể Vía) của nó trở thành một khí cụ độc hữu của Chơn Nhơn. Hay nói
một cách khác là nó không c̣n ưa thích hay chán ghét, không c̣n ham muốn hay ước
mong, không c̣n hy vọng hay lo sợ, tất cả đều phải tận diệt. Huynh chớ lầm lạc,
đây không phải là tiêu diệt thể t́nh cảm, nhưng nó phải tự dưng ngưng hẳn, không
ứng đáp riêng cho nó những cảm giác từ ngoại giới đưa vào. Chỉ cần diệt mất lối
sống chia rẽ, c̣n thể t́nh cảm phải bảo tồn để dùng vào việc phụng sự nhân loại.
Lẽ dĩ nhiên, sự cấu tạo của thể t́nh cảm chỉ cho con người Đệ Tử biết phải sửa
đổi tánh t́nh của nó thế nào. Nơi người Đệ Tử thường th́ Cái Vía ( Thể t́nh cảm
) hay thay đổi màu sắc luôn luôn, nhưng khi nó được tinh luyện rồi và đệ tử dứt
tuyệt mọi cuộc sống chia rẽ th́ Thể ấy trở thành một khí cụ không màu sắc và
sáng chói, phản chiếu sự sống linh hoạt ở nội tâm. Nó không c̣n màu sắc riêng
biệt mà chỉ lấy màu sắc của Chơn Nhơn truyền đạt qua. Lúc ấy, nó tựa như ánh
trăng rọi xuống mặt nước, lóng lánh như xa cừ, phô bày một thứ rung động mà ta
gượng cho là màu sắc. Sự biến đổi nầy thành tựu dần dần trong Thể Vía của người
Đệ Tử. Khi mà càng ngày nó càng cố gắng thực hiện công việc khó khăn là cảm động
trước mọi thống khổ của đồng loại th́ nó càng phải lănh đạm thờ ơ với mọi thống
khổ của chính ḿnh nó phải gánh. Nó có thể đè nén dễ dàng t́nh cảm của ḿnh,
nhưng mà phải xúc động trước t́nh cảm của kẻ khác và đồng thời phải giữ đừng cho
xen t́nh ư riêng của ḿnh vào ; ấy là một trách vụ rất đổi khó khăn bắt buộc kẻ
chí nguyện phải thi hành. Tuy nhiên, càng chuyên cần tập luyện nó càng nhận thấy
rằng những xúc động ích kỷ tiêu lần và biến thành những xúc động vị tha. Đệ tử
có một phương thế để thử xem ḿnh quả thật có ḷng thiện cảm hay không và tới
bực nào ; ấy là huynh có sinh ḷng thiện cảm hay không, khi những nỗi khổ đau
của thiên hạkhông c̣n lọt vào mắt huynh nữa. Huynh gặp một kẻ khốn khổ, huynh
chứng kiến một hành động hung bạo, có lẽ làm cho ḷng huynh se thắt lại, nhưng
huynh liệu có ḷng thương xót như thế khi người đó đă khuất mắt huynh ? Ḷng
thiện cảm của ta không đáng giá bao nhiêu, nếu cần phải có cảnh năo ḷng đặng
khêu gợi nó. Thử đưa một người đến đô thị lớn như thành phố Luân Đôn chẳng hạn,
có thể những cảnh tượng thương tâm thảm mục mà y thấy bao bọc chung quanh ḿnh
y, làm cho y xúc động vô cùng. Hăy cho y ở một chỗ khác, y sẽ chóng quên những
nỗi thống khổ y đă chứng kiến và thấy ḿnh vẫn hoàn toàn sung sướng. Kẻ Đệ Tử
phải tập sống cách nào mà như toàn thể sự đau khổ của nhân loại luôn luôn hiện
ra trước mắt nó ; làm nhẹ bớt gánh nặng đau khổ chính là lư do thúc đẩy nó làm
việc. Chưa ai đến tŕnh độ mà tiếng gào thét đau thương làm cho nó xúc động như
trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh đă nói, trừ phi động lực của đời sống nó là lo
giúp đỡ nhân sinh, dầu những sự đau khổ của nhân loại ở trước mắt nó hay không,
bởi v́ đó mới quả thật la øđộng lực của Đệ Tử. Phương tiện tốt nhất thoát khỏi
Phàm Nhơn, để trở nên lănh đạm đối với mọi niềm sung sướng hay đau khổ của riêng
ḿnh, để mắt phải ráo lệ là để cho Cái Trí suy nghĩ đến niềm đau khổ của thế
gian, và phương pháp phải theo hầu làm giảm bớt đau khổ ; như thế, điều nầy mới
giúp ta thấy được cái bản ngă đúng vào chân vị trí của nó, kề bên bản ngă to lớn
hơn mà tượng trưng là toàn thể nhân loại cô đơn nầy. Khi Đệ Tử được Điểm Đạo bắt
đầu đạt được trạng thái Bồ Đề Tâm, th́ nó ráo lệ một cách khác nữa. Bấy giờ, nó
mới bắt đầu hiểu đặng ư nghĩa của sự tiến hóa, và cảm biết rằng tiến hóa ở đây
có nghĩa là sự phát triển của Ba Ngôi Cao ( Atma, Bouddhi, Manas ) ở con người.
Nó khởi sự nh́n nhận giá trị và mục đích của tất cả mọi đau khổ và tất cả mọi
phiền năo. Dần dần mắt nó ráo lệ v́ nhờ hiểu được sự ích lợi mà nỗi niềm đau khổ
đă ban cho những kẻ gánh chịu và nghiệm thấy rằng nếu sự đau khổ đến cho một
người nào đó là v́ sự cần thiết tuyệt đối cho sự phát triển cao siêu của Linh
Hồn nó. Về mặt lư thuyết, con người có lẽ tránh được sự đau khổ nầy, nếu khi xưa
nó biết cách hành động khôn ngoan, bởi v́ nếu sự đau khổ không do ở sự lầm lạc
hiện tại th́ nó cũng là kết quả của nghiệp quả xưa. Nhưng xét về mặt thực tế th́
con người trước kia đă ăn ở sái quấy, thích chọn những bài học của sự thử thách
ngày nay hơn là bài học Minh Triết, bởi v́ nó không chịu chọn lựa con đường êm
đẹp hơn mà đi, thành thử hiện giờ nó đành chịu đau khổ và nhờ có đau khổ mới
giúp nó đạt được sự Minh Triết và thúc giục sự tiến hóa của nó.
Đệ tử am hiểu được tất cả điều nói trên v́ đă tiến tới một t́nh trạng mà ta có
thể gọi là một sự thiện cảm hoàn toàn hợp nhất với nó, mà không c̣n sự hối tiếc
nào. Khi đời sống cơi Bồ Đề chưa chiếu diệu đến Tâm Thức th́ sự hối tiếc có thể
c̣n. Đến khi Bồ Đề Tâm phát sinh, th́ ḷng thiện cảm của Đệ Tử nẩy nở một cách
lạ thường, sự hối tiếc lại tiêu mất. Càng tiến bước lên cao, và nh́n thấy chân
trời mở rộng, Đệ Tử mắt ráo lệ, v́ đứng trước sự đau khổ khắc nghiệt của con
người, nó phải tập làm sao sống lại trong cảnh khổ ấy để tự ḿnh cảm biết nỗi
ḷng sâu xa đến bực nào, đồng thời nó nhận thức được mục đích và cứu cánh của sự
đau khổ. Đệ tử tiến đến chỗ hoàn toàn chia sớt nỗi niềm đau khổ với nhân loại,
nhưng không hề có một mảy may nào mong mỏi cho sự đau khổ được sửa đổi. Muốn
đừng có sự ước ao thoát khỏi sự đau khổ trước khi nó kết thành quả th́ Tâm Bồ Đề
phải chói rạng. Ấy là điều kiện mà người ta đă gọi là Tâm Bồ Đề phát hiện.
Luật Trời là Minh Triết, Thiên ư là toàn hảo và sự đau khổ chuẩn bị một cứu cánh
hoàn thiện, v́ vậy, Đệ Tử triệt để vui vẻ và bằng ḷng số phận ḿnh, nó cam chịu
đau khổ chớ không hề than van, không hề phiền muộn. Khi Đệ Tử đạt đến tŕnh độ
ấy, Tâm Thức nó trở thành một phần tử của đời sống thế gian. Nếu nghĩ đến nó và
xưng "Tôi" th́ cũng như nó thuộc về một phần tử của cái "Tôi" bao hàm tất cả
những cái "Tôi" khác. Từ đó, đối với Đệ Tử, không có cái ǵ sống ở ngoài nó, hay
phân cách nó. Nó đồng hóa với đời sống duy nhất vĩ đại nầy, mặc dù ở vào tŕnh
độ nào. Mỗi khi đời sống ấy cần sự giúp đỡ, Đệ Tử mất hẳn cái quan niệm rất phổ
thông của cơi Thế gian nầy là có nhiều người c̣n biệt lập ở ngoài. Đệ Tử ở trong
tất cả và ở với tất cả. Việc thông hiểu được sự hợp nhất có ảnh hưởng sâu xa đến
sự giúp đỡ của con người có thể thi thố cho đời. Nếu có trợ giúp ai, nó thông
cảm được nỗi niềm đau khổ của người đó cũng như nỗi niềm của chính ḿnh nó, chớ
không phải những sự khó khăn của một kẻ khác hơn nó. Nó thấy những sự đau khổ đó
cũng như chính người trong cảnh ngộ thấy, và v́ vậy, thay v́ giúp đỡ người ở bên
ngoài, nó lại giúp đỡ ở bên trong. Giữa hai cách giúp ấy, sự sai biệt rộng lớn
vô cùng. Cách thứ nhứt là giúp tạm thời và ngẫu nhiên, cách thứ nh́ biểu lộ
trong đời sống của con người một sự tiến triển về quyền năng. Đệ Tử chỉ có thể
đạt đến tŕnh độ nầy là nhờ ở đào luyện được ḷng thiện cảm, tập đồng hóa với
nỗi niềm vui vẻ và sự thống khổ của kẻ khác, tạo cho đời ḿnh thành một đời sống
chung của tất cả mọi người; bằng chẳng vậy th́ khó mà diệt được tánh chia rẽ.
Mắt phải ráo lệ, đối với Đệ Tử, chỉ có một ư nghĩa mà thôi, ấy là phải lănh đạm
đối với những ǵ liên hệ đến Phàm Nhơn ḿnh, nhưng không được làm mất sự cảm xúc
sâu sắc đối với tất cả những ǵ có ảnh hưởng đến những Linh Hồn khác.
C. W. L. - Bà Chánh Hội Trưởng của chúng ta đă nói về bốn câu cách ngôn thứ nhứt
của quyển sách nầy, khởi đầu bằng câu : " Trước khi thấy được, mắt phải ráo lệ"
có thể bị giải thích sai lầm và v́ thế, các anh Bàng Môn cũng như chúng ta đều
thừa nhận nó. Ho ïcho ư nghĩa của câu đó như thế nầy : "Diệt tất cả mọi cảm xúc,
bao ḿnh một lớp vỏ và loại ra ngoài những phiền năo và đau khổ của cuộc đời ".
Đó mới thật là trái ngược với lời giáo huấn đem dạy các Đệ Tử bên Chánh Đạo, ho
ïphải tập khai triển t́nh cảm cho đến một tŕnh độ có thể chia sớt một cách
tuyệt đối nỗi niềm đau khổ của nhân loại. Người ta nói nhiều về các vị Bàng Môn
Tả Đạo, nhưng tôi tưởng ít người hiểu về họ. Nhờ gặp được nhiều đại diện bên
phái đó, tôi dám nói rằng : Tánh t́nh của họ và phương pháp của họ dùng không xa
lạ ǵ với tôi cả. Trong bọn họ có vài người đáng để ư, nhưng không nên thân
thiện. Danh từ Bàng Môn Tả Đạo để dùng cho nhiều hạng khác nhau. Thí dụ : người
da đen ở Nam Phi Châu và quần đảo Antilles, có lẽ những thổ dân ở Úc Châu cũng
vậy, rất giỏi luyện những phép tà thuật nhỏ mọn. Thật là đáng thương hại. Chính
bọn thổ dân nầy nh́n nhận không có làm thương tổn đến người da trắng được. Trong
vài trường hợp, đời sống của người da trắng bị họ khuấy rối rất khó chịu, nhưng
phải nói thêm rằng tại cách ăn thói ở của mấy người nầy cho nên họ mới phá được.
Muốn thành công, họ thường hay lợi dụng ḷng lo sợ của những người bị họ trù ẻo.
Ảnh hưởng của tà thuật tuy yếu ớt nhưng cũng có chút kinh nghiệm, những thổ dân
nầy có vài thứ thuốc, họ biết thôi miên, tóm lại, ho ïbiết cách sử dụng được vài
quyền năng sai khiến những vị Ngũ Hành ở trên mặt đất và những vị khác cùng
loại. Họ có thể làm cho một người kia mắc bịnh hoạn hoặc trọn gia đ́nh y hay là
những thú vật trong bầy của y nuôi đau ốm, họ làm khô khan vườn tược, đồng ruộng
và phá hoại mùa màn thất bát. Tuy nhiên, trong trường hợp sau nầy, họ hay dùng
kèm thêm diêm tiêu để giúp sức cho tà thuật của họ. Một hạng khác, cao hơn, t́m
luyện phép thần thông để mưu đồ lợi ích cho cá nhân ḿnh. Họ học được vài cương
yếu của Huyền Bí Học và chính đôi khi, họ c̣n tiến khá xa trên con đường đó,
nhưng họ giữ lấy một ḿnh quyền năng ấy đặng lợi dụng. Thường thường th́ ho ïnhờ
phép tắc đó để làm giàu và tạo uy thế cho ḿnh và toại hưởng sung sướng suốt
đời. Sau khi ĺa bỏ trần thế rồi, đôi khi, họ thử dùng phép tắc để tạo một đời
sống như hồi c̣n sanh tiền, nhưng rất ít khi thành công nên kế hoạch của họ
không thực hiện được. Sớm muộn ǵ, họ không c̣n cái chi cả, và họ biï rơi vào
một t́nh trạng nguy khốn cực điểm. Một hạng Bàng Môn khác, và tiến hóa hơn,
không mong cầu ǵ cho ḿnh hết, không màng tiền bạc, quyền năng hay thế lực hoặc
những cái chi tương tợ, nhờ như thế, phép tắc của họ rất cao cường. Họ sống một
cuộc đời trong sạch và có qui củ như trong huynh đệ chúng ta, nhưng họ chọn sự
chia rẽ làm mục đích. Ho ïthích đời sống trên những cảnh cao siêu và tránh sự
nhập vào Tâm Đức Thượng Đế. Họ ghê tởm những ǵ chúng ta cho là tối đại hạnh
phúc. Họ muốn sống như t́nh trạng hiện thời của họ, họ tự phụ đạt được mục đích
đó, vă lại ư chí con người có thể chống lại tới một điểm nào đó với ư chí của
Thượng Đế.
Tôi đă gặp hạng người đó. Bà Chánh Hội Trưởng của chúng ta luôn luôn muốn cứu
vớt những Linh Hồn lạc lỏng ấy đang lầm lỗi đi trên đường chia rẽ nên thử thuyết
phục một đôi lần để cảm hóa họ, hầu dắt d́u họ trở lại với quan điểm của chúng
ta, nhưng tôi e ngại ít khi được thành công.
Có khi bà nói với họ : "Huynh biết được điều đó sẽ chấm dứt bằng cách nào. Huynh
hiểu nhiều về Luật Thiên Nhiên và có đủ trí khôn để nh́n thấy con đường của
huynh đưa về đâu. Sự đổ vỡ cuối cùng đang chờ huynh, điều đó chắc chắn rồi. Khi
kỳ gian của một A tăng kỳ kiếp ( Manvantara ) măn, khi dăy hành tinh nầy đúng
thời kỳ tan ră, dù muốn dù không, huynh cũng sẽ nhập vào Tâm Đức Thượng Đế trên
các cảnh giới cao siêu, chừng ấy số phận huynh sẽ ra thế nào ?" Họ trả lời : "Kỳ
thực, bà không biết ǵ hết. Lấy theo bề ngoài mà nói, chúng tôi công nhận việc
sẽ xảy ra như thế, nhưng thật ra, chúng tôi không cần. Chúng tôi rất hài ḷng
t́nh trạng hiện hữu của chúng tôi. Chúng tôi đủ khả năng để bảo thủ cá tánh của
ḿnh chống lại mọi hành động bắt buộc chúng tôi nhập vô Tâm Đức Thượng Đế và sự
đó kéo dài lắm, có lẽ đến ngày tận cùng của A tăng kỳ kiếp. Sau đó, chúng tôi sẽ
thành công hay không, chúng tôi chẳng biết được, nhưng điều đó thây kệ. Dù chúng
tôi làm được hay không, chúng tôi cũng có một lối sống mà chúng tôi chọn lựa".
Điều nầy có thể tranh luận và người nào chọn lựa quan điểm trên, chưa hẳn thật
là chánh trực, dĩ nhiên cũng không phải là kẻ ác đức, theo nghĩa thông thường
của danh từ nầy. Họ tỏ ra là người cực kỳ kiêu căng phách lối, nhưng không muốn
gây thù kết oán với ai hay mưu toan sâu độc hại ai. Trái lại, họ không biết ngần
ngại là ǵ cả; người nào chống lại ư muốn của họ th́ bị họ quét sạch, ít do dự
hơn là họ giết một con muỗi. Tuy nhiên, họ có thể kết giao thân mật với kẻ nào
không làm trở ngại ư muốn của họ. Tánh t́nh họ không có vẻ ǵ là hung bạo. Họ
không phải là một con quái vật độc ác mà là người đă chọn lựa một phương hướng
nào đó và đi theo nó, hy sinh tất cả điều ǵ, đối với ta, có nghĩa là tiến hóa.
Chúng ta tin chắc rằng một hiểm họa lớn lao đang chờ họ, mà họ ít khi tin chắc
điều đó như chúng ta, và dù sao, họ vẫn thích làm những chuyện mạo hiểm. Thường
thường, những con người ấy, tự họ, cho thế là măn nguyện. Họ có thái độ ngờ vực
và khinh bỉ tất cả mọi người. Đó luôn luôn là đặc tính của hạng người theo dơi
con đường Tả Đạo. Họ cho là họ hữu lư, c̣n kẻ khác th́ lầm lạc và thấp kém hơn.
Đôi khi, người ta nghe nói đến Giáo đoàn Bàng Môn, nhưng không bao giờ có một
giáo đoàn nào như thế được thành lập cả. Không có t́nh hữu nghị chân thật nào có
thể phát triển nơi họ, nhưng gặp cơ hội nào là họ liên kết với nhau lại để chống
với hiểm họa cấp bách, hoặc giả khi một trong những kế hoạch của họ bị hăm doạ.
Bất quá đây là một cuộc liên minh lỏng lẻo, rời rạc, nếu cuộc liên minh nầy dữ
dội, đáng sợ, là nhờ nơi pháp lực cao cường của vài người trong bọn họ. Thỉnh
thoảng, những công tŕnh giúp đỡ nhân loại của các Đức Chơn Sư của chúng ta,
ngăn cản ư muốn của họ, lập tức họ trở thành kẻ thù địch ghê gớm. Đối với Chơn
Sư, th́ họ không làm ǵ được các Ngài - tôi tưởng họ cáu tiết lên được - đôi
khi, họ nhắm vào đám môn đệ của các Ngài mà hăm hại hầu làm cho các Ngài v́ đó
phải khổ tâm chán nản, trong ư họ tưởng đâu tâm trạng các Ngài cũng như thế đó.
Những lời khuyên dạy ta nên hoài nghi họ là hữu lư, v́ bọn người nầy hay phỉnh
phờ ta, làm cho ta lầm lạc. Đức Bà Blavatsky biết rơ tung tích họ và cũng tỏ ra
vị nể họ nữa. Bà xem họ không khác chi bọn quỷ sứ cám dỗ người, khoái làm điều
ác chẳng v́ lư do nào khác hơn là ḷng vui thích gây ra tội lỗi. Đó là hạng Bàng
Môn c̣n thấp kém. C̣n những người quyền lực cao siêu th́ thấy không lấy làm vui
bất cứ là việc nào, nhưng mà những kế hoạch họ thực hiện luôn luôn có tính cách
hoàn toàn tư kỷ, có thể đem đến kết quả tai hại cho nhiều người. Họ cũng trầm
tĩnh, cũng đủ năng lực tự chủ, cũng trừ tuyệt dục vọng như bất cứ người Đệ Tử
nào của Đức Chơn Sư. Họ c̣n luyện ḿnh hơn thế nữa, bởi v́ họ cố tâm tiêu diệt
tất cả mọi cảm giác. Họ không hề làm hại ai chỉ v́ ḷng thích thú muốn làm khổ
người, nhưng như tôi đă nói, kẻ nào cản trở công việc riêng của họ th́ họ không
ngần ngại ǵ mà không thủ tiêu người đó. Những người có phận sự giúp đỡ những kẻ
ở trên cơi Trung Giới cũng có đôi lần cứu những nạn nhân của họ bị họ khuấy rối,
và trong trường hợp nầy, họ đương nhiên ra mặt đối địch ngay.
Chúng ta hăy trở lại đầu đề chính. Thật là khó tập ứng đáp với t́nh cảm của kẻ
khác mà không xen chút đỉnh Phàm Nhơn của ta vào, và cũng khó có ḷng thiện cảm
hoàn toàn đối với kẻ khác mà không pha lẫn t́nh cảm của ta. Nhiều người quá xúc
động v́ nỗi khổ của người khác, nhưng rồi họ quên đi khi cảnh khổ ấy không c̣n
phô bày dưới mắt họ nữa. Thí dụ, trong một đô thị Luân Đôn chẳng hạn, nhiều
người phú hộ cảm động khi trông thấy cảnh nghèo khổ xơ xác của những ngôi nhà ẩm
thấp, dơ dáy, họ lập tức vận dụng tất cả khả năng của ḿnh đặng làm nhẹ bớt gánh
nặng đau khổ riêng của những người mà họ đă chứng kiến. Rồi sau đó, cũng mấy vị
ấy đi săn bắn, câu cá, hay là dự các cuộc vui chơi và quên mất cái cảnh sống
thảm năo kia đi. Trong trường hợp nầy, nỗi ưu sầu của họ không phải hoàn toàn do
bởi sự đau khổ của kẻ khác mà phát sinh, ấy là một sự đau ḷng riêng, v́ chính
họ đă mục kích những sự thống khổ đó. Ḷng thiện cảm thuộc loại nầy không giá
trị bao nhiêu, v́ nó không phải là ḷng thiện cảm chân thật. Khi chúng ta cảm
thông toàn vẹn sự đau khổ của nhân loại, chúng ta lần lần quên mất sự đau khổ
của ḿnh. Chúng ta quên nỗi đau khổ riêng của ta khi thấy cái đau khổ mênh mang
vô tận đang đè nặng nhân loại. Dù sao, chúng ta nên biết rằng cái phần đau khổ
đă định sẵn cho ta là một thành phần trong cái gánh nặng chung. Có được cái tinh
thần hiểu biết như thế là người đă vượt cao lên trên Phàm Nhơn của ḿnh rồi. Nó
khổ tâm v́ nhân sinh, chớ không v́ cảnh đời bi đát của ḿnh, mắt nó trở nên ráo
lệ đối với niềm vui nỗi khổ riêng của nó.
Hiểu cho đúng được những sự đau khổ của kẻ khác không phải là việc giản dị. Cách
vài năm nay, Bà Chánh Hội Trưởng và tôi có khảo sát về vấn đề ảnh hưởng gây ra
bởi sự đau khổ cho nhiều người, xét theo bề ngoài th́ cũng là một thứ đau khổ
chung về thể xác. Chúng tôi nghiệm thấy rằng trong trường hợp cực đoan, người
nầy có lẽ đau đớn gấp ngàn lần hơn kẻ nọ và trong đời sống b́nh thường y cũng
thường có thể đau khổ trăm lần nhiều hơn kẻ khác. Trong khi người nầy tỏ dấu đau
khổ th́ kẻ nọ lại thản nhiên như thường, bởi thế, chúng ta chớ nên kết luận rằng
người sau có đủ can đảm hơn, hoặc sống một cách triết lư hơn, chưa hẳn đúng như
vậy. Chúng tôi cũng nghiệm xét đến mức độ đau khổ của nhiều người khác nhau
trong khi tủi nhục bị giam cầm. Người th́ xem thường như không có ǵ hết, c̣n kẻ
th́ đau đớn về tinh thần và t́nh cảm đến tột độ. Đừng nói như thế nầy vô ích :
"Tôi không có cảm giác ǵ về việc đó, vậy th́ những kẻ khác cũng phải không có
cảm giác ǵ". Người ta không biết tới mức độ nào hay khuôn khổ nào mới làm cho
kẻ khác cảm động. Tôi t́m thấy nhiều việc, đối với tôi không quan trọng tí nào,
thế mà có thể làm cho đồng loại tôi đau khổ quá. Trái lại những tiếng vang động
khó chịu thường xuyên là nguyên nhân khiến cho những người đă khai mở được những
giác quan tinh vi đau đớn một cách dữ dội. Tôi đă thấy Bà Chánh Hội Trưởng của
chúng ta có vẻ bức rức xốn xang khi vài ba chiếc xe lớn tiếp vận quân nhu, rần
rộ kéo ngang qua chỗ ngụ của chúng tôi ở tại Đại lộ Avenue Road, thành phố Luân
Đôn. Đó không phải là bà chưa thống..
[11/5/2011 7:13:15 PM] Thuan Thi Do:
http://www.leadbeaterandbesant.org/Man_Whence_How_And_Whither-CWL.htm
[11/5/2011 7:21:57 PM] Thuan Thi Do:
http://www.leadbeaterandbesant.org/Man_Whence_How_And_Whither-CWL.htm
[11/5/2011 7:59:08 PM] Thuan Thi Do:
http://users.ez2.net/nick29/theosophy/lessons07.htm
[11/5/2011 8:15:30 PM] Thuan Thi Do:
http://www.lifeafterlife.com/autographed.html
[11/5/2011 8:35:21 PM] *** Call ended, duration 3:15:45 ***