Họp Thông Thiên Học ngày 5 tháng 5 năm 2012


[5/5/2012 6:08:59 PM] *** Conference call ***
 

[5/5/2012 6:56:12 PM] Thuan Thi Do: There is a great difference between an Avatâra and a Jîvanmukta: one, as already stated, is an illusive appearance, Karmaless, and having never before incarnated; and the other, the Jîvanmukta, is one who obtains Nirvâna by his individual merits. To this expression again an uncompromising, philosophical Vedântin would object. He might say that as the  Gautama BUDDHA was born an Avatâra in one sense. But this, in view of unavoidable objections on dogmatic grounds, necessitates explanation. There is a great difference between an Avatâra and a Jîvanmukta: one, as already stated, is an illusive appearance, Karmaless, and having never before incarnated; and the other, the Jîvanmukta, is one who obtains Nirvâna by his individual merits. To this   expression again an uncompromising, philosophical Vedântin would object. He might say that as the condition of the Avatâra and the Jivanmukta are one and the same state, no amount of personal merit, in howsoever many incarnations, can lead its possessor to Nirvâna. Nirvâna, he would say, is actionless; how can, then, any action lead to it?


[5/5/2012 7:13:59 PM] Van Atman: 5.- Hăy lắng nghe tiếng hát của sự sống.
Sự sống có tài nói năng và không bao giờ im lặng, và lời nói của nó không phải là một tiếng la hét, nhưng bởi con điếc nên đă tưởng như vậy. Nó là một câu hát. Hăy học với sự sống đặng biết rằng con là một phần tử của sự điều ḥa. Hăy học với nó đặng tuân theo Luật Điều Ḥa.

Câu cách ngôn 5 cũng gồm một chú giải thật dài của Chơn Sư Hilarion; nó khởi đầu như vầy:

Hăy kiếm Người, và hăy nghe Người trước nhất ở trong ḷng con, có thể ban đầu con sẽ nói : "Người không có ở trong đó", khi kiếm Người, tôi chỉ gặp sự bất ḥa. Hăy t́m sâu hơn nữa. Nếu thêm một lần nữa con thất vọng th́ hăy ngưng lại, rồi t́m sâu hơn nữa. Có một âm điệu du dương tự nhiên, một nguồn bí mật ở trong ḷng mỗi người. Nó có thể bị che lấp, hoàn toàn bị ẩn khuất và bị bóp nghẹt, nhưng nó vẫn ở đó. Con có thể t́m gặp đức tin, hy vọng và t́nh thương trong chốn thâm sâu của chính bản tánh con.

Nói một cách khác, sinh vật nào cũng bao phủ, che đậy một sức mạnh tiềm tàng không ít th́ nhiều, tùy theo trạng thái mở mang của sự sống. Sự sống làm cho vạn vật chuyển động. Thiên Chúa Giáo dạy chúng ta gọi Sự Sống là Ư Muốn của Thượng Đế hay là T́nh Thương củaThượng Đế; nhưng mà người ta thường dùng danh từ nầy một cách mơ hồ, chúng mất rất nhiều sự thật và sức mạnh của chúng. Trong Tôn Giáo b́nh dân, chúng ta gặp nhiều danh từ tŕnh bày một tính cách lịch sử hay là truyền thống, nhưng không có ư nghĩa chi nhiều đối với những người đă sử dụng chúng. Thí dụ người ta nói nhiều về Phước Trời (Thượng Đế) ban xuống, nhưng tôi tưởng thường thường họ không biết danh từ đó có nghĩa chi. Cũng vậy, trong những Giáo đường, khi đọc kinh cầu nguyện, các tín đồ nói : "Cầu xin Đức Thượng Đế nhân từ xá tội chúng tôi". Câu nầy thật là kỳ lạ, thật vô cùng phi lư và không thể có được; mà dường như không ai thấy điều đó; những tiếng "xin xá tội chúng tôi" kết liên với những tiếng "Đức Thượng Đế nhân từ" là những danh từ mâu thuẫn nhau. Thật là vô ích mà cầu xin Đức Thượng Đế nhân từ xá tội cho bất cứ ai. Cầu khẩn Ngài tội c̣n nặng hơn sự lầm lạc, bởi v́ lời cầu nguyện nầy công nhận rằng Đức Thượng Đế c̣n có tánh xấu. Ấy là một xúc phạm đến Thượng Đế, c̣n nặng hơn việc kêu trời mà chưởi rủa, thề thốt như chúng ta thường nghe ngoài đường, mà làm điều nầy cũng đủ phạm tội rồi đó. Như vậy các tín đồ cho Thượng Đế c̣n có dục t́nh và ác độc nên mới cầu khẩn Ngài xá tội cho họ. Người ta cũng nói đến Đức Từ Bi của Thượng Đế. Về điều nầy chúng ta cũng gặp một thứ quan niệm. Đức Thượng Đế có thể giáng cho quí huynh những tai họa dữ dội, nhưng Ngài không làm ǵ hết rồi xét ra điều rất tốt là xá tội cho chúng ta. Thật vậy, những danh từ nầy hàm chứa một sự hoàn toàn dốt về ư nghĩa của tiếng Trời hay Thượng Đế. Ấy là một tiếng cao thượng hơn hết và tốt đẹp hơn hết. Nó có nghĩa là Nhân Từ, mà Người Nhân Từ th́ không cần những lời cầu nguyện đặng tỏ ra ḿnh xót thương trong trường hợp nầy hay là trong trường hợp khác, bởi v́ T́nh Thương của Ngài tràn trề tới một điểm mà chúng ta không thể cho Ngài có t́nh cảm nào khác hơn là sự xót thương. Đức Thượng Đế biểu lộ t́nh thương cho tất cả mọi người, mặc dù họ làm điều chi cũng vậy. Chúng ta thử nghĩ xem một người cha hiền, tánh t́nh thế nào, khi mà ông ngồi nghe mấy đứa con quỳ dưới chân cầu khẩn ông tha thứ. Trong Thông Thiên Học; khi chúng ta giải về những lực cao siêu th́ chúng ta phải chống đối với sự khó khăn nầy. Những người trong chúng ta trải qua những Giáo Đường hay Tiểu Giáo Đường rất tiếc là có thói quen khi nói mấy vấn đề trên đây th́ họ xem chúng nó dường như rất mơ hồ; không có ư nghĩa chi chính chắn lắm. Người ta đi đến các cuộc lễ đặng cầu xin phước lành của Thượng Đế ban xuống trong ư tưởng được Trời pḥ hộ hay là ban cho một ân điển. Tôi sợ quan niệm nầy không đúng với khoa học lắm. Phải hiểu rằng một cuộc Thánh Lễ ở nhà thờ là một cách chuyển sang một thứ thần lực nhất định ro ơràng, đó là ân huệ của Thượng Đế. Thần lực nầy như điện, không thể bác bẻ được, nó cũng như hơi nước vận động làm cho xe lửa chạy. Nó theo những vận hà mà các vị Linh Mục hay là Giám Mục dọn sẵn cho nó. Khi một trong những vị nầy giơ bàn tay ra th́ Ngài Phóng cho các tín đồ một thứ thần lực đặc biệt. Thần lực nầy tủa ra và tràn ngập Giáo Đường. Những người đă dọn ḿnh đặng rước nó th́ thâu nhận nó và đồng hóa với nó. C̣n trong nhóm tín đồ, những người nào không thâu nhận nó được chỉ v́ tại họ không dọn sẵn ḿnh trước về việc nầy. Khi ta nói về t́nh thương và ân huệ củaThượng Đế th́ thường thường hai điều nầy đối với họ là những khái niệm mơ hồ, nhưng thật ra chúng là những lực hết sức thực tế. Luôn luôn không phải dễ mà chừa bỏ những tư tưởng mập mờ nầy. Không phải chỉ có những người đă trải qua nhiều Giáo Hội khác nhau chịu khổ đâu, mà những người khác cũng bị thiệt tḥi vậy. Những người theo đường lối tu hành th́ đạt được vài thái độ, vài năng lực hiểu biết mà những người tự do tư tưởng thuở xưa không thể sử dụng một cách dễ dàng đâu. Kỷ luật của Giáo Hội chánh thống thật hữu ích, trừ ra việc nó tŕnh bày sự sùng đạo quá mức đến đỗi thành ra ngu muội, cùng là tư tưởng hẹp ḥi và cách giải thích quan niệm về Thượng Đế cho các tín đồ. Phần c̣n lại, như Phụng Sự Thượng Đế với những lời ca tụng và những sự ban phước, hội hợp lại đặng tôn thờ Ngài cùng làsắp đặt cách thờ phượng với tất cả những sự xinh đẹp có thể làm được, tôi tưởng tất cả những điều đó có thể đi chung với giáo lư hết sức tự do và hết sức rộng răi. Tiếc thay ! Đă nhiều thế kỷ rồi, sự đi chung nầy đă chấm dứt, ngoại trừ ở chỗ nầy, chỗ kia chỉ có vài người c̣n thực hiện được mà thôi. Tôi đă suy nghĩ lâu rồi, chẳng sớm th́ muộn sẽ nảy sinh ra một Giáo Hôi phối hợp những nguyên tắc khác nhau nầy; mà bây giờ đă có Giáo Hội đó rồi, ấy là Giáo Hội Thiên Chúa Giáo tự do. Những người c̣n tŕu mến Giáo Hội thuở xưa, cùng với những phương pháp, những nghi lễ, những bài hát, sự mỹ lệ, sự dịu dàng và thánh thiện của nó th́ bây giờ gặp lại những điều nầy và đồng thời một giáo lư, ấy là ThôngThiên Học thuần túy.
Thế nên khi nói về Thông Thiên Học, chúng ta dùng những danh từ đối chiếu với những danh từ mà người ta thường dùng một cách không chính xác. Nên hiểu rằng những danh từ nầy không có chi gọi là mơ hồ hay là tối tăm, khó hiểu. Nói rằng ban ân huệ của Chơn Sư cho một người kia, theo những danh từ nầy th́ tôi hiểu đó là một luồng thần lực tích cực tuôn xuống; thần lực nầy thường dùng chất khí ở cảnh cao hơn cơi Trần đặng làm một vận cụ cho nó. Nó phải dùng chất khí đó th́ mới ảnh hưởng được chất khí làm ra Thượng Trí, Hạ Trí hay là Cái Vía tùy theo trường hợp. Không nên có một chút ư nghĩ nào rằng đó là một ảnh hưởng không chắc là tốt lành và không có tầm mức lớn lao.
Đại thần lực nầy làm cho vạn vật chuyển động và tŕnh bày một trạng thái khác nữa : ấy là Luật Hy Sinh. Hy Sinh là một tiếng đẹp lắm mà thường bị dùng sai. Hy Sinh thường có nghĩa là : từ bỏ một vật mà sự mất nó làm tan nát cơi ḷng; nếu con người muốn biết ư nghĩa thật trong Tôn Giáo của tiếng Hy Sinh th́ là một tư tưởng mà họ phải loại trừ. Họ phải chấp nhận một sự giải thích mới về một tiếng mà suốt đời họ đă biết. Đôi khi họ tin tưởng rằng họ đă thảy bỏ cái cũ và chấp nhận cái mới, mặc dù cái cũ c̣n phủ bóng trên ḿnh họ; một đám mây mù xâm nhập Cái Trí họ mà họ không ngờ và nó chỉ tan mất dần dần thôi.
Hy Sinh (Sacrifice) do chữ La Tinh Sacrifico có nghĩa là : Tôi làm cho thánh thiện (Je rend saint). Hy Sinh một vật tức là hiến dâng nó cho Đức Thượng Đế và v́ thế làm cho trở nên thánh thiện. Ư tưởng khi hiến dâng vật đó cho Ngài th́ huynh mất nó đi, là nghĩa phụ và do người ta thêm vô. Như Thánh Kinh thường nói : Nếu huynh có ư muốn hiến dâng ḿnh cho Đức Thượng Đế như là một sự hysinh trọn vẹn th́ đừng có một tư tưởng nhỏ mọn nào về sự từ bỏ xen vào. Thật ra, dưới cái vẻ trái ngược nhau khi y có ư nghĩ về sự hy sinh một món nào đó th́ không có sự hy sinh đâu, vật đó không được thánh thiện, bởi v́ huynh hiến nó với một sự tiếc rẻ. Khi mà huynh cảm thấy không thể nào huynh không quỳ dưới chân Đức Thượng Đế hay là Đấng Christ được trong lúc phấn khởi của ḷng sùng tín; khi mà tư tưởng về sự thiếu thốn không đến cho huynh; khi mà tánh t́nh huynh không cho huynh hành động khác hơn; khi mà huynh tin chắc rằng huynh có thể đoạn tuyệt tất cả; th́ tới chừng đó có lẽ sự hy sinh của huynh mới là hoàn thiện. Muốn hiến dâng một sự hy sinh thực sự th́ phải quên mất ư tưởng thường dính dấp với danh từ nầy. Ấy là một tiếng rất tốt đẹp, nó không có nghĩa là từ bỏ một vật, mà nó có nghĩa là thánh thiện hóa.
Đức Thái Dương Thượng Đế thực hành một sự hy sinh lớn lao tột bực, bởi v́ Ngài tự ban rải ra, Ngài xuống vật chất, Ngài giới hạn quyền năng của Ngài, Ngài cởi bỏ sự Vinh Quang của Ngài. Thật sự "v́ chúng ta là những con người và v́ sự giải thoát của chúng ta mà Ngài từ trên Trời xuống". Ấy là một câu châm ngôn rất đẹp, mà ngày nay ư nghĩa của nó bị giảm đi rất nhiều và làm nhơ bẩn tư tưởng thiệt thọ. Nếu chúng ta hiểu rành rẽ những ư nghĩa nầy th́ sự tốt đẹp của chúng làm cho chúng ta chú ư đến chúng. Chúng ta nhận biết chúng đáng cho chúng ta tán đồng và hoàn toàn khâm phục, nhưng mà trước nhất phải hiểu biết chúng. Sự hy sinh lớn lao hơn hết là sự hy sinh của Đấng Christ [95] . C̣n chúng ta, trong phạm vi mà chúng ta tận tâm với công việc của Ngài th́ chúng ta dự phần vào sự hy sinh nầy và chúng ta liên kết với nó. Không thể có sự chọn lựa nào khác, khi mà thấy được sự thực tế sâu xa. Ở ngoài đời không c̣n thấy sự hy sinh nào khác nữa, bởi v́ chúng ta có vẻ lấy ư chí chúng ta làm hướng đạo. Con người tiếp tục giúp đỡ lực tiến hóa, nhưng mà quên mất "Sự hiến dâng" của ḿnh. Đây, không phải là một sự từ bỏ nào nữa, mà ấy là đi tới sự thực hiện Chơn Ngă và biết được Sự Sống ra sao ? Tư tưởng của Đức Thượng Đế là như thế đó. Phải giống in như Ngài, nếu ta muốn thật sự hy sinh.
Như Tiến Sĩ A. Besant đă nói rằng trên đời không có một Tôn Giáo nào mà không tŕnh bày ư niệm của sự Hy Sinh với nhiều tính cách khác nhau; điều nầy chứng tỏ sự hiện diện của một Đại Chân Lư bí truyền và cao thâm. Luật Hy Sinh chưa được dùng làm mục đích của một sự học hỏi trọn vẹn; nhưng có một hôm, Chơn Sư đă nói nó cũng quan trọng như những Luật của Luân Hồi và Nhân Quả.
Thấy được sự thật ở đàng sau vạn vật là nghe bài hát của sự sống. Bài hát của sự sống là một động lực không bao giờ ngừng nghỉ. Trong thiên nhiên những sự chuyển động khác nhau đều phổ biến bằng những âm thanh và những màu sắc kèm theo chúng nó; c̣n nhiều sự biểu lộ khác, chúng ta không biết, trừ ra khi nào tiếng tăm và màu sắc là một thành phần của những sự kinh nghiệm của chúng ta. Có thể tập nghe sự điều ḥa của thiên nhiên cho tới một điểm nào đó, và thấy được sự đẹp đẽ, sự vinh quang và trật tự của nó. Đây là cách chắc chắn hơn hết để quả quyết rằng mọi vật đều góp phần vào sự tốt lành và trật tự tuyệt đối, dù cho sự rối loạn bên ngoài che lấp đi nữa cũng vẫn là quan trọng hơn hết, thiết thực hơn hết về các phương diện và không có chi sánh kịp. Sự rối loạn bất quá là một sự xao động nhẹ nhàng, một bọt nước trên mặt; ở phía dưới ngự trị những vực sâu của biển cả; biển cả vốn hoàn toàn tuân theo Luật Trời, mặc dù trên mặt biển, Luật Trời h́nh như bị vi phạm.
Đối với chúng ta, nếu chúng ta có thể làm đặng điều cần thiết là biết được sự thật ẩn tàng phía bên trong và thấy cái không có chi làm xáo trộn mà cũng không làm chênh lệch, lạc hướng . Đạt được sự tiếp xúc với sự thật nầy, tin chắc rằng vạn vật đều tiến tới trước không ngừng nghỉ; do đó, cái chi xảy ra trên bề mặt vẫn không quan hệ ǵ bởi đó chỉ là một sự phân tán tạm thời, ngắn ngủi, một sự lay chuyển yếu đuối màthôi, th́ tất cả mấy điều đó là một sự dịu dàng cao quí, một sự an ủi lớn lao, một sự an toàn chắc chắn. Chúng ta không ngớt tiến đến gần sự liên hiệp với Đấng Duy Nhất, nhưng mà chúng ta là thành phần của Ngài rồi; tới một ngày kia chúng ta thực hiện được sự Hiệp Nhất nầy. Đấng Duy Nhất càng ngày càng hiện ra do chúng ta.
Người ta có thể nói rằng một bài hát, một sự ḥa hợp vang lừng bên ngoài của các thế giới, bao la bát ngát. Trong thời kỳ cổ điển, người ta nói về âm nhạc của những Tinh Cầu; người ta tưởng rằng mặt trời, các hành tinh, các ngôi sao trong lúc vận chuyển trên không gian phát sinh một sự điều ḥa hùng vĩ. Chúng tôi đọc trong Thánh Kinh Cựu Ước đoạn nầy : Những ngôi sao ban mai đồng la lên những tiếng vui mừng và những con của Thượng Đế hát khúc khải hoàn" (Les étoiles du matin poussaient ensemble des cris de joie et les enfants de Dieu chantaient en triomple - Job,XXXVIII, 7 ). Đối với nhiều người, ấy là những danh từ tốt đẹp, một biểu tượng của thi thơ chớ không có chi khác hơn. Theo ư nghĩa của một câu cách ngôn th́ "Vài chuyện tốt quá nên không có thật". Nhưng cái chi thiện và mỹ phải có thật v́ sự tốt và sự đẹp của nó. Không có tư tưởng tốt nào sinh ra mà không có lư do, nó không đến cho người nào nếu y không có một sự tương ứng ở mấy cơi cao. Những việc cao quí hơn hết, cao thượng hơn hết, vĩ đại hơn hết là những tư tưởng của Trời, những Thiên ư. Tư tưởng của chúng ta càng đến gần chúng nó th́ tư tưởng của chúng ta càng trở nên cao siêu, thanh khiết, chân thật và thanh cao. Hăy tin chắc rằng không phải chúng ta thấy ở đó một tư tưởng lạ lùng của thi thơ và để giải trí, nhưng đó là một sự thật rơ rệt rất quan trọng và ở trên tất cả, sự đẹp đẽ và sự chơn thật ngự trị [96] . Những tư tưởng đem cung cấp cho chúng ta thường ngày là sự xét đoán của con người về những sự vật, c̣n những sự thật bị những sự vật làm ra một bức màn bao phủ, mới là sự xét đoán của Thượng Đế. Những tư tưởng của Thượng Đế vượt qua tư tưởng của chúng ta trong phạm vi mà Thượng Đế cao hơn con người [97]. Cao hơn không có nghĩa là nghiêm khắc, hay ít thực tế hơn hoặc là xa lạ không liên quan với đời sống hằng ngày, nhưng mà lớn lao hơn, đẹp đẽ hơn và vinh diệu hơn.
Chúng ta lắng nghe tiếng hát của sự sống trong tất cả những lần mà chúng ta ướm thử khám phá sự tốt lành và sự đẹp đẽ chứa đựng trong vật nầy hay vật kia. Sinh viên Huyền Bí Học cần phải lạc quan, bởi v́ họ biết rằng những sự việc biện minh cho sự lạc quan cực điểm của chúng ta và c̣n ngoài điều đó nữa. Chân lư ẩn tàng bên trong luôn luôn vẫn cao thượng. Nếu chúng ta không biết nó, không hiểu nó, không đạt được nó th́ lỗi đó không phải ở nơi Chân Lư mà tại chúng ta chưa được thông minh. Vậy th́ đời sống hằng ngày giúp cho chúng ta nghe được tiếng hát của sự sống bằng nhiều cách khác nhau, nhưng luôn luôn không phải là lạ lùng lắm. Khi chúng ta nghe được Nó một lần rồi th́ không phải chúng ta không c̣n nghe được nữa đâu. Nó vang lừng khắp các cơi. Thí dụ chúng ta nghe được nó trọn vẹn tại một cơi nào đó th́ chúng ta chỉ biết có một phần nhỏ nhít, một nốt ( note ), một âm điệu mà thôi. Mỗi cơi lần lượt tiết lộ cho ta sự đẹp đẽ và sự vinh quang nhiều hơn trước. Chúng ta càng nghe rơ tiếng hát th́ sự điều ḥa càng được hoàn hảo. Hăy đánh một lượt tám nốt của một khoảng bát độ th́ huynh không nhận được một sự điều ḥa mà lại là một âm điệu bất ḥa chát tai. Ở trên mấy cơi cao, trái lại, có một điều mà tôi chỉ có thể diễn tả bằng một cách trái ngược lại là có thể nhận được một sự điều ḥa càng hoàn hảo khi huynh nhấn mạnh một lượt nhiều nốt, bởi v́ tại đó mọi vật đều hội hợp với nhau và phù trợ với nhau một cách kỳ lạ, không thể nào giải thích cho ở dưới Trần Thế hiểu được. Nếu viết một phần nầy của một khúc điệu du dương (mélodie) trong một khóa (clef), c̣n một phần kia th́ viết trong một khóa khác th́ ảnh hưởng phát sinh ra là một sự bất điều ḥa. Nếu chúng ta có thể tưởng tượng rằng trên không gian trước hết những phần tử khác nhau nầy được phóng ra, trong đó mỗi phần tử đều tự biểu lộ là một toàn thể điều ḥa, rồi trong một phương hướng khác lại có một sự phối hợp những phần tử nầy cách nào mà khi thực hành sự hỗn hợp th́ mỗi phần tử thành ra một nốt. Có lẽ như vầy chúng ta có thể hiểu được ư niệm nầy, chúng ta không có ngôn ngữ đầy đủ để diễn tả. Luôn luôn có thể phóng ra như vậy những khóa khác nhau mà chúng tạo ra ở những cơi cao một sự điều ḥa trọn vẹn, mặc dù ở tại cơi Trần nầy chúng chỉ sinh ra sự bất ḥa, chát chúa lỗ tai.
Âm nhạc kim thời tŕnh bày một sự điều ḥa kém hơn âm nhạc cổ điển. Nó gia tăng những âm điệu bất ḥa hết sức cuồng loạn đặng t́m lấy một sự điều ḥa tốt đẹp hơn, nhưng không thành công. Tuy nhiên, tôi tưởng những nhạc sĩ đă thấy điều tôi mới mô tả đây và cố gắng phô diễn nó ra. Họ kiếm t́m một cách lấy sự điều ḥa trong âm điệu bất ḥa. Tôi tưởng điều nầy không thể có được ở tại cơi Trần, mà xin thú thật tôi không thích sự biểu diễn những khúc nhạc lạ lùng của thời đại chúng ta và v́ vậy chắc chắn tôi không hiểu được chúng nó. Tác giả những bản nhạc lạ lùng nầy t́m những hiệu quả mà phần đối chiếu của chúng nó trên cơi Trung Giới và Thượng Giới là sự điều ḥa chớ không phải là những âm điệu bất ḥa. Ởû dưới Trần nầy họ chỉ thâu nhận được sự không điều ḥa. Tôi tưởng rằng những người thưởng thức những khúc nhạc nầy tập thực hiện trong những thể cao của họ những hiệu quả mong muốn; thế nên họ rất thích nghe những tiếng dị kỳ và đụng chạm nhau.
Nhiều sự biểu hiện kỳ lạ của nghệ thuật hiện kim, chẳng những trong âm nhạc mà c̣n hội họa nữa, chắc chắn nhắm vào tương lai vàsinh sản những hiệu quả mà con mắt chúng ta, lỗ tai chúng ta không thể nhận biết được. Cái mà chúng ta có thể nghe được, thấy được th́ thường xấu tệ, nhưng tôi vẫn tin rằng mục đích của các nghệ sĩ đang nhắm sẽ tŕnh bày những sự tốt đẹp khi mà những ư muốn của họ được thực hiện. Người ta muốn sự điều ḥa có một hiệu quả vừa đủ ở mỗi cơi và tại cơi Trần Thế nầy th́ công việc được tốt đẹp đối với những người dù không biết trạng thái cao siêu của vấn đề ra sao.
Nhiều người quả quyết với tôi rằng những khúc nhạc khác nhau cho họ một ấn tượng đồng nhất. Nhiều người trong chúng ta cảm thấy một sự vui mơ hồ mà nghe âm nhạc nhưng họ không hiểu chi cả. Đối với những kẻ khác th́ khúc nhạc nào đó chẳng những làm êm tai mà nó c̣n lại là ngôn ngữ đúng đắn như ngôn ngữ của một diễn giả, ấy là một h́nh dạng rơ ràng có thể thấy được và thưởng thức được. Tôi có nghe những Đại Nhạc sĩ đàm luận với nhau. Tôi hiểu rằng h́nh tư tưởng mà một nhạc sĩ dùng để viết một trương nhạc nào đó có thể truyền qua một người khác. Tôi có ghi vào sổ một trường hợp như thể ở Ư Đại Lợi hồi tôi c̣n ở đó cách đây vài năm. Một người phổ nhạc viết một bài nhạc để tŕnh bày một suối nước ở trong một cái vườn có ba cái hồ nước chồng chất cái nầy trên cái kia, h́nh tư tưởng nầy đă hiện diện trong lúc y làm việc. Tôi biết h́nh tư tưởng nầy truyền sang qua trí của một người nhạc sĩ khác. Huynh nầy không hề thấy cái suối, cái vườn ra sao, y cũng không ngờ khúc nhạc tượng trưng cái ǵ. Nhưng khi trổi khúc nhạc th́ h́nh tư tưởng hiện ra cho y, nên y nhận biết những phần liên quan với những hồ của cái suối và luôn cả phần trạng tả cái vườn. Tôi có biết vài thứ tương ứng, nhưng cần phải cắt nghĩa cho tôi biết th́ h́nh của chúng nó mới hiện ra cho tôi thấy. Đó là một sự phát triển cao siêu của khiếu âm nhạc. Khi chúng ta đi tới điểm mà chúng ta có thể biết được ư định của một bản nhạc như thế th́ âm nhạc sẽ có giá trị, mà phần đông những người trong chúng ta chưa biết được điều nầy. Đối với một bức tranh, một bức họa cũng thế đó. Điều mà người nầy thấy, không phải là điều mà người kia đă khám phá ra. Có những kẻ giống như người ở trong bài thơ của Wordsworth :

Cây anh thảo ( prinevère ) vàng mọc trên mé rạch đối với y th́ là một cây anh thảo vàng mà thôi chớ không có chi khác lạ.

Nhưng mà đối với một nhà thi sĩ th́ cây anh thảo làm nảy sinh trong tâm trí một loạt tư tưởng tốt đẹp vô cũng. Hoạch đắc được hoàn toàn năng lực nầy th́ chúng ta có thể dùng những tượng trưng để tưởng nghĩ. Đó là việc của Chơn Nhơn làm ở trong Thượng Trí. Ngài dùng những tượng trưng để tưởng nghĩ chớ không phải những chuyện cụ thể. Không có chi ngờ vực, đây là một trong những cách mở mang những quyền năng, mặc dù nó vẫn khác hơn nhiều những cách thường dùng. Những sự biểu lộ mỹ thuật, nghệ thuật mới mẻ như những bức tranh của những Phái vị lai (futuriste) [98] và của những Phái lập phương (cubistes), người ta không hề thấy ở trên Trời hay ở dưới đất những điều giống in như vậy. Chúng đang ở vào giai đoạn chuyển tiếp, ấy là công việc làm mới có phân nửa. Luôn luôn người ta nói không nên để cho trẻ em thấy một việc làm chưa hoàn thành. Về phương diện nầy phần đông trong chúng ta là những đứa con nít. Chúng ta không học những công việc c̣n khuyết điểm, chưa hoàn toàn, nhưng có lẽ sự thành công của chúng sẽ lớn lao khi chúng được hoàn tất. Tiếng hát của Sự Sống không phải làm ra có một phần mà thôi; nó là trọn một giàn nhạc. Ấy là một sự tập hợp vĩ đại của những khúc điệu du dương và có lẽ những người có nhiệt tâm với nghệ thuật mới đi lên tới một sự biểu hiện mà chúng ta không thấy được.
Khi Đức Chưởng Giáo [99] lâm phàm th́ có thể xảy ra những việc thay đổi lớn lao trong

những thuật tạo h́nh (arts plastiques), cũng như trong Tôn giáo những sự cải cách xă hội và chính trị. Thường thường chúng ta xem Ngài như là một vị Giáo Chủ. Tôi tưởng chúng ta không nên giới hạn những tư tưởng của chúng ta, bởi v́ ngoài Đạo Giáo, sự tiến hóa của con người tiếp tục theo nhiều đường lối khác nhau. Tôi không muốn nói rằng giáo lư đạo đức không nên thấm nhuần trọn kiếp sống của chúng ta; chắc chắn phải thấm nhuần, nhưng Tôn giáo cũng có thể tự biểu hiện dưới nhiều trạng thái khác nhau. Có thể Đức Chưởng Giáo dạy chúng ta làm những việc nầy và Ngài cũng Linh Cảm chẳng những vị Giáo sĩ mà lại c̣n các nhà : thi sĩ, mỹ thuật, điêu khắc, nhạc sĩ và bác học nữa. Khi Tôn giáo được tŕnh bày một cách tân thời thích ứng với tŕnh độ tiến hóa của nhân loại hiện kim th́ rất có thể sự tuyên bố mới mẻ nầy truyền qua cho tất cả một sự phấn khởi phi thường. Thông điệp của Đức Chưởng Giáo về tất cả những phương diện làm cho chúng ta càng ngày càng hiểu rành rẽ Tiếng hát của Sự Sống. Nó tiết lộ cho chúng ta càng ngày càng nhiều sự vinh quang, sự đẹp đẽ, sự điều ḥa và trật tự ẩn khuất bên trong.
Điều cần thiết là thật hiểu trật tự. Hiện giờ chúng ta đang trải qua một giai đoạn Chế Độ Dân Chủ; trong những t́nh trạng nầy, sự rối loạn h́nh như phát hiện ra đến cực điểm không thể tránh được. Hơn nữa, vài người tự hào đă góp phần vào sự rối loạn. Họ quả quyết rằng mỗi người phải theo con đường riêng biệt của ḿnh, c̣n số phận đồng loại của họ th́ mặc kệ, không quan hệ ǵ. Vậy th́, nếu cần thiết cho con người tập tự ḿnh điều khiển ḿnh..
[5/5/2012 8:42:18 PM] *** Call ended, duration 2:31:58 ***