[6:16:22 PM] Thuan Thi Do:
Hiẹn nay, một vấn đề giống như thế cũng được đặt ra cho chúng ta tại Ấn Độ,
nhưng không ai nghĩ đến cách giải quyết theo phương tiện của Thập Tự Quân.
Những nơi linh thiêng của Phật Giáo (Tứ Động Tâm): nơi Đức Phật sinh ra, nơi
Ngài Đắc Đạo, nơi Ngài Chuyển Pháp Luân và nơi Ngài tịch diệt, tất cả đều nằm
trong tay những người theo Ấn Độ Giáo và tôn giáo của những người này khác
với Phật Giáo. Những Phật Tử hết sức muốn có những nơi linh thiêng của họ,
nhưng không bao giờ những quốc gia Phật Giáo nảy ra ư nghĩ khai chiến để
chinh phục. Chúng ta hăy biết ơn họ về sự việc đó, v́ có đến năm trăm triệu
Phật Tử. Tôn giáo họ tránh làm mọi điều bất chính. Vài Phật Tử đă cố gắng mua
lại phần Thánh Địa ấy và họ gần thành công với sự trợ giúp của Hội Thông
Thiên Học. Nhưng rủi thay, một phần lớn tiền bạc bị phí tổn trong những vụ
kiện và sự toan tính đă thất bại.
Phật Giáo là đại tôn giáo duy nhất không hề có sự ngược đăi kẻ khác. Những
nguyên tắc của nó cấm đoán điều này. Chính những lời của Đức Giáo Chủ bắt
buộc phải có sự khoan dung. Thế nào là một người Phật Tử ? Đó là người noi
theo giáo lư của Đức Phật. Y không phải là người tin theo điều này hay điều
khác, nhưng y là một người sống theo lời của Đức Phật dạy, y phải làm như
thế. Nếu bạn hỏi một nhà truyền giáo Cơ Đốc về đời sống tương lai của một
Phật Tử ưu tú, th́ thường thường người ấy sẽ trả lời như sau: "Nếu y không
tin Đức Christ, th́ không có hy vọng ǵ cho y". Hoặc nhà truyền giáo ấy sẽ
giao phó y cho ḷng từ ái vô biên của Đức Chúa Trời, nếu y cho ông là người
xứng đáng. Nhưng đối với Phật Tử, bạn cũng đặt cây hỏi ấy về một người Thiên
Chúa Giáo, y sẽ nói với bạn: "Đó là một người Phật Tử, y tự nhận là người
Thiên Chúa Giáo nhưng y đang tuân thủ giáo lư của Đức Phật. Không có ǵ đáng
lo cho y cả". Đó là đức khoan dung của nhà Phật, như tôi đă giảng ở trước
đây. Thật ra, tất cả các tôn giáo đều cấm sự bạo động và bất khoan dung;
nhưng sự vô minh và cuồng tín của vài phái đă khiến cho tín đồ quên sự kiện
rất giản dị này.
Một thứ dị đoan gọi là "sự căm thù ṇi giống" khiến cho dân tộc này oán ghét
toàn khối dân tộc khác. Tôi nhớ lại những người nông dân Anh trong những làng
xa thành phố luôn luôn ngờ vực và chế nhạo người ngoại quốc. Đối với những
người dốt nát này, không có ǵ đáng tức cười hơn là nghe một người ngoại quốc
nói một thứ tiếng khác hơn tiếng của họ. Về phương diện đó, những người nông
dân các nước khác ít thô lỗ hơn những người của nước ta. Tôi luôn luôn cảm
nghĩ rằng nếu có một người ngoại quốc đến viếng nước chúng ta, th́ họ là
người khách đối với chúng ta. Bổn phận của chúng ta là làm cho đời sống của
họ được dễ dàng và làm cho họ có cảm giác tốt đẹp về dân tộc và xứ sở của
chúng ta.
Vào thời Nă Phá Luân, bên Anh Quốc bị một sự dị đoan chi phối dân chúng cho
rằng quả thật tất cả những người Pháp là quỷ, họ khai chiến với chúng ta,
trong khi họ hoàn toàn biết rằng họ chủ trương việc xấu và trái ngược với ánh
sáng. Ngày nay, có thể những trường hợp trong đó một số đông người bị ám ảnh
bởi một ư tưởng thống trị, đă tạo thành một thứ cuồng tín về quốc gia. Dưới
ảnh hưởng của sự cuồng tín tạm thời đó, người ta đă gây ra những điều tàn ác,
mà ở trường hợp khác, chính những người này không bao giờ nghĩ rằng họ sẽ làm
những việc ấy. Trong những trường hợp đó cá nhân chỉ chịu trách nhiệm v́ cách
họ bị triều lưu ấy lôi cuốn. Những sự hành động vốn do cơn điên cuồng này
sinh ra hơn là từ những cá nhân. Điều này cũng gần giống như khi một người
nổi giận thốt ra những lời thiếu nhă nhặn. Đó chính là tiếng nói của cơn giận
chứ không phải của con người. Người ấy đáng trách v́ y để cho cơn giận chi
phối y, nhưng chúng ta nên lưu ư rằng rất có thể y hối hận nhiều về lời nói
của y.
Con hăy nghĩ đến những sự tàn sát khủng khiếp do thói dị đoan tạo ra, nó
đ̣i hỏi việc giết thú vật để cúng tế.
C. W. L. – Đề cập đến việc hy sinh thú vật cho việc cúng tế và những cuộc
hiến dâng khác cũng là nêu lên toàn thể vấn đề liên hệ giữa Thượng Đế và con
người. Về phương diện này chỉ có thể có ba quan niệm căn bản thôi: Theo quan
điểm thứ nhất, Trời sau khi đă tạo nên vũ trụ rồi, Ngài để nó tự do vận
chuyển không điều khiển và cũng không lo lắng đến những ǵ xảy ra cho nó.
Theo quan điểm thứ hai, Trời đă giữ lại một sự lợi, phải gọi là bất chính của
vũ trụ này, v́ Ngài muốn hưởng những cuộc cúng tế dẫy đầy máu huyết và những
thứ hy sinh khác nữa.
Theo quan niệm thứ ba, Trời bao giờ cũng là Đấng Cha Lành yêu tạo vật của
Ngài vô lượng vô biên.
Thuyết thứ nhất là thuyết duy vật hiện đại kèm theo ư niệm về một Đấng Tạo
Hóa kỳ cục.
Thuyết thứ hai mô tả Trời như một con quái vật khát máu. Nhiều bản Kinh xưa
đă tŕnh bày về Ngài như thế. Trong một đoạn Kinh Cựu Ước, những người Do
Thái có khoe khoang rằng họ đă giết một trăm hai mươi hai ngàn con ḅ để cúng
tế. Có lẽ họ đă nói quá lố, như thói quen của thời xa xưa ấy. Thần Jéhovah
đ̣i hỏi sự cúng tế sinh vật này, dù phải trả bất cứ giá nào bằng sự đau khổ.
Thần luôn luôn đ̣i hỏi những lễ vật mới và chỉ hiến cho một ḿnh Ngài mà thôi
chứ không phải cho vị thần nào khác. Ở thời đại chúng ta, những người Do Thái
sẽ thụt lùi trước sự cưỡng bách ghê rợn như thế, nhưng chắc chắn họ không làm
việc đó trong thời David [111] và Salomon [112]. Người ta có thể kết luận về
điều ấy như sau: Thần Jéhovah của họ thờ không phải là Đấng mà chúng ta gọi
là Thượng Đế - lúc bấy giờ họ không hiểu được ư niệm về Thượng Đế - nhưng là
những vị Thần do Tinh Chất cấu thành từ đời Ắt Lăn Tích c̣n sống sót tới ngày
nay [113]. Những người Do Thái có tiếp xúc với văn minh Ai Cập, nhưng những ư
tưởng vĩ đại của người Ai Cập ít ảnh hưởng đến họ. Chỉ sau này, khi bị giam
cầm ở thành Babylone, họ nghe nói đến một vị Thượng Đế tối cao. Họ liền đồng
hóa một cách thật đặc biệt Đức Thượng Đế với Thần Jéhovah của họ. Những nhà
tiên tri chót nói về Thượng Đế như một Đấng Tối Thượng, mặc dù lắm khi những
ư niệm cũ c̣n lưu lại trong các bản văn của họ.
Những cuộc tế lễ đầy máu huyết chỉ thuộc về những giai đoạn tiến hóa xa xưa
nhất của con người. Nó gồm cả tà thuật cổ sơ của sự thờ cúng loại Tinh Chất
ấy v́ chúng nó sống bằng hơi từ trong máu huyết bay ra. Những sinh vật này
muốn được cúng tế, bởi chúng hút hơi máu hôi tanh mới có khả năng hiện h́nh
được. Vài bộ lạc miền núi quả quyết rằng nếu họ không thực hiện những cuộc tế
lễ này, th́ tai họa sẽ xảy đến, như mùa màng bị tiêu diệt, nhà cửa bị hỏa
hoạn. Vậy có thể những vị Thần mà những người ở rừng núi Ấn Độ thờ phượng
cũng là những Tinh Chất lớn thuộc về thời đại Ắt Lăn Tích.
Chúng ta có thể tin chắc rằng không bao giờ những Đấng Cao Cả chấp nhận những
cuộc tế lễ đó. Chăng hạn, như bên Ấn Độ, trong phần thiên khải của Kinh Phệ
Đà cổ đại không bao giờ đề cập đến chúng nó, song chúng nó dính liền với
những phong tục dă man c̣n tồn tại trong một mức độ nào đó cho đến ngày nay.
Đức Phật đă lên án sát sanh thú vật đặng tế lễ và khiến Vua Bimbisara ra sắc
lệnh hủy bỏ tục lệ ấy trong nước.
Hiển nhiên là chúng ta không hề thờ phượng một vị Thần nào đ̣i hỏi những sự
cúng tế bằng máu huyết, trái lại, đó là điều ưa thích của vài loại Tinh Chất
và Tinh Linh trong vũ trụ. Vậy chúng ta nên xem những phần trong các bản Kinh
có đề cập đến những sự tế lễ này như một giai đoạn tiến hóa mà chúng ta đă
vượt qua từ lâu. Vài người không thích tuyên bố điều ấy một cách công khai v́
họ tôn kính các Kinh Thánh, nhưng thật ra cho rằng một bản văn đặc biệt nào
đó linh thiêng và chí thánh là một sự dị đoan hoàn toàn. Dù đối với Thánh
Kinh, chúng ta vẫn phải chọn lọc như mọi việc khác. Nếu đọc một quyển sách,
chúng ta thích và sẽ nhớ những đoạn mà chúng ta cho là đặc biệt hay và bổ
ích. Chúng ta hăy góp nhặt như thế trong tất cả các bản Thánh Kinh những ǵ
luôn luôn tốt đẹp, cao thượng, hùng tráng và có thể gác bỏ một cách hữu ích
cho ḿnh tất cả những ǵ thấp hơn lư tưởng của chúng ta. Dù những cuộc tế lễ
bằng máu huyết đă được đề cập trong Thánh Thi (Psaumes) và trong những chương
khác của Thánh Kinh Cơ Đốc (Cựu và Tân Ước – Bible), chúng ta cũng phải nh́n
nhận rằng chắc chắn Trời không thể đ̣i hỏi những việc như thế. Những việc ấy
luôn luôn thuộc về các tôn giáo xem Thượng Đế như một thực thể xấu xa cần
phải xoa dịu.
[7:01:44 PM] Thuan Thi Do: Vở kịch lớn lao của Thiên Chúa Giáo chính là việc
đem ư tưởng trên đây xen lẫn vào giáo lư thuần túy của Đấng Christ nói về Đức
Chúa Trời là Đấng Từ Phụ. Thật ra việc giết thú vật để hiến dâng cho Thượng
Đế không hề làm giảm danh dự của Thiên Chúa Giáo, nhưng chính là ư tưởng Đức
Chúa Trời đáng sợ - nếu chúng ta không dâng lễ vật để làm vừa ḷng Ngài - c̣n
được truyền dạy trong những tổ chức lớn của Công Giáo. Ư tưởng này đă làm nảy
sinh lư thuyết quái đản cho rằng Trời đă hy sinh chính con Ngài, nếu không
th́ mọi người phải bị ném xuống hỏa ngục. Thường thường người ta ít khi tự
hỏi một ông Trời bắt buộc hoặc cho phép tế lễ như vậy là thế nào. Bạn hăy thử
tưởng tượng đến những điều người ta có thể nghĩ về một vị Hoàng Đế dưới thế
gian. V́ ngông cuồng Ngài đă kết tội một số đông người và cho hành h́nh họ
một cách ghê rợn, rồi sau đó Ngài trả tự do cho tất cả những người này, v́
chính con Ngài đă đến nói trước Ngài rằng: "Nếu một người nào đó phải chịu
chết, xin cha hăy giết con. Con hoàn toàn vô tội. Nhưng cha hăy giết con đi
để những người ấy được tha". Lư thuyết này không phải là Thiên Chúa Giáo.
Đại Tá Ingersoll có lư, khi ông nói rằng một Vị Thượng Đế tốt lành là một
công tŕnh đẹp đẽ nhất của con người. Quả nhiên chỉ có một quốc gia thật mở
mang mới có thể quan niệm nỗi một Vị Thượng Đế thật cao cả và vinh quang.
Thật ra tổ tiên chúng ta ngày xưa đi lang thang trong rừng và sơn xanh thân
thể, cũng giống như những người Do Thái hiếu chiến, và các dân tộc khác, đă
có ư tưởng thơ ngây về Thượng Đế. Nhưng tuyệt nhiên không có một lư do nào mà
chúng ta c̣n duy tŕ ư tưởng đó đến ngày nay.
Theo lư thuyết thứ ba, cũng là giáo lư Thông Thiên Học, th́ Trời là Đấng Từ
Bi Bác Ái, Ngài tạo ra vũ trụ theo một mục đích nhứt định. V́ lẽ ấy nên tất
cả những ǵ xảy ra cũng đều thuộc về phần việc của Ngài. Ngài ban cho chúng
sinh được tự do ư chí đến một mức độ nào đó, nên hành vi của họ không hẳn là
bao giờ cũng phù hợp với Thiên Cơ, nhưng ư chí của họ là thành phần của Thiên
Cơ. Chung cuộc tất cả đều là công tŕnh của Ngài.
Khi chúng ta nói Trời ban cho con người một mức độ độc lập hay là tự do nào
đó, th́ chúng ta phải hiểu thêm rằng nó vừa bị hạn chế vừa có thể phát triển.
Người nào biết sử dụng sự tự do và năng lực của ḿnh một cách khôn khéo, th́
sẽ nhận thấy chúng tăng trưởng. Đó chính là phương thức giống như đứa trẻ tập
đi. Người ta cho em này đi thử, em té, rồi lại cố gắng nữa. Nếu bế em trong
tay măi, em sẽ không bao giờ bị té, nhưng rốt cuộc em thành người tàn tật.
Nhưng điều người ta tránh là để em tập đi những bước đầu tiên một ḿnh trên
nền đá hoa, trên chót vót cái thang hoặc ở chỗ nguy hiểm khác. Sau này, thành
người lớn, em có thể đi trên bờ hồ để ngắm phong cảnh, nếu em muốn. Chính
bằng phương pháp đó, Đức Thượng Đế bảo vệ chúng ta, trong khi Ngài huấn luyện
chúng ta. Như thế Ngài giữ ǵn không cho chúng ta hủy hoại sự sống của ḿnh
và tự làm hại ḿnh đến mức không thể sửa chữa được nữa.
Thuyết thứ ba đang tiến bộ một cách vững chắc. Từ lâu Thiên Chúa Giáo đă trở
nên tốt đẹp nhiều hơn những tuyên ngôn của nó và rất nhiều tín đồ Thiên Chúa
Giáo có những tư tưởng tự do hơn việc Giáo Hội đă cho phép họ một cách chính
thức. Chẳng hạn như Giáo Hội Anh Quốc công thức hóa điều mà Giáo Hội cho là
lư thuyết riêng trong một tài liệu gọi là "Những điều mục của Đức Tin". Giáo
đoàn phải tán đồng, nhưng nếu một người trong nhóm nói rằng: "Làm sao chấp
thuận những điều mục này được. Chúng mâu thuẩn một cách hiển nhiên". Người ta
trả lời với y rằng trong lúc thảo ra những đề mục ấy, có hai phái không thể
ḥa giải được và phải làm sao cho cả đôi bên đều vừa ḷng. Rồi người ta nói
tiếp:
"Đức Giám Mục và tất cả chúng tôi đều kư tên vào đó. Tất cả chúng tôi đều
chấp nhận trong tinh thần triết học này. Theo tôi h́nh như ông cũng có thể
làm như vậy được". Có thể người trẻ tuổi kia đáp lại: "Rốt lại, nếu ông bảo
đảm với tôi điều đó không có ǵ quan trọng, vậy tôi cũng sẽ chấp nhận". Nhưng
thái độ đó không được đúng đắn.
Tôi không hề bác bẻ những tín điều Thiên Chúa Giáo. Chúng có nền tảng chung
của một ư nghĩa sâu xa hơn mà thường thường những tín đồ không thể ngờ được
[114]. Nhưng tôi không thích "Ba mươi chín điều mục" và "Tuyên ngôn về đức
tin", v́ giữa những tư tưởng đẹp nhất, người ta nhận thấy có xen lẫn những tư
tưởng khác tuyệt nhiên không thể chấp nhận được. Nếu trong sách phần người ta
dừng lại ở cuối câu hỏi thứ nhất và câu trả lời tuyệt đẹp là: "Đâu là mục
đích chính của con người? Là ca tụng Chúa và hưởng phúc lạc đời đời".
Thiên Chúa Giáo đă vượt xa những tín điều và tín ngưỡng của nó. Tôi mới
đọc một đoạn văn chứng tỏ điều ấy khá rơ ràng trong một tác phẩm của ông khoa
trưởng Ripon:"Mục đích của Thiên Chúa Giáo là làm cho Đấng Christ trong ḷng
con người phát triển". Rồi ông giải thích phải hiểu Đấng Christ trong ḷng
con người là thế nào :"Đó là một sự khôn ngoan của nhà bác học, tài hùng biện
của luật sư, sự công bằng của vị thẩm phán, vẻ đẹp của nhà nghệ sĩ, t́nh
thương của nhà từ thiện, vân vân . . ." Thiên Chúa Giáo này, tất cả chúng ta
đều chấp nhận. Người ta cũng nhận thấy trong quyển Gita một tư tưởng giống
như vậy. Đức Krishna nói: "Đối với kẻ có quyền lực, Ta là quyền trượng; đối
với kẻ t́m chiến thắng, Ta là tài khéo léo về chính trị, đối với sự bí mật,
Ta là sự im lặng; kiến thức của các nhà thông thái cũng là Ta". "Nên biết
rằng tất cả những ǵ vinh quang, tốt, đẹp và những hùng dũng cũng đều phát
sinh từ một phần tử huy hoàng của Ta" [115]. Vị Khoa Trưởng Thiên Chúa Giáo
hầu như đồng ư với tác giả bộ Bhagavad Gita, là bản Thánh Kinh tối cổ, nó c̣n
xưa hơn quyển Mahabharata, là thành phần của nó. Một phần lớn giáo lư cao
thượng trong bộ Gita đă có từ lâu trong tay những người Ắt Lăn sống trên đồng
bằng Ấn Độ, trước khi bị người Aryens xâm lăng. Tôi biết rằng đó không phải
là tư tưởng tầm thường, song chúng ta căn cứ trên vài sự kiện mà cá nhân ḿnh
đă nhận biết.
[7:10:39 PM] Thuan Thi Do: Dĩ nhiên chúng ta có thể tin tưởng hoàn toàn nơi
Thượng Đế, v́ Ngài hiểu biết, c̣n chúng ta th́ vô minh. Chúng ta biết một
cách tổng quát vai tṛ của ḿnh trong công việc trợ giúp cơ tiến hóa của Ngài
do Ngài muốn, nhưng chúng ta không biết những chi tiết. Mặc dầu chúng ta biết
rằng những chi tiết ấy nằm trong những bàn tay khéo léo. Chúng ta không hề
biết Nhân Quả của ḿnh sẽ ra sao, nhưng các Đấng Đại Hùng Đại Lực chăm lo
việc ấy biết rơ tất cả. Do sự sáng suốt, các Ngài quyết định trong mức độ nào
chúng ta bị bắt buộc phải trả quả ngay bây giờ hay hoăn lại sau này. Nếu các
Đấng Cao Cả có thể nghe theo lời cầu xin của chúng ta, thay đổi vận mạng của
chúng ta theo ư chúng ta muốn bây giờ; việc đó chắc chắn sẽ bất lợi cho chúng
ta. Tôi không nói rằng nguyện vọng của chúng ta trên phương diện đó là điều
vô ích. Trái hẳn lại, nếu nguyện vọng của chúng ta tốt, nó sẽ tạo nên những
yếu tố mới, có thể làm cho các Đấng Cao Cả thay đổi h́nh thức Nhân Quả của
chúng ta, có lẽ các Ngài bắt chúng ta nhồi quả để chóng được giải thoát. Cũng
có thể các Ngài cho chúng ta trả quả trong những t́nh trạng khác. Dù việc ǵ
có thể xảy ra đi nữa, đó cũng là giải pháp tuyệt đẹp không những đối với vài
người, mà c̣n đối với tất cả thiên hạ. Vậy chúng ta không nên cố gắng sửa đổi
Thiên Ư. Hăy chấp nhận với tấm ḷng biết ơn tất cả những ǵ xảy đến cho chúng
ta và phải gạn lọc lấy cái tốt đẹp nhất chứ không phải cái xấu tệ nhất. Chúng
ta hăy xem những điều khó khăn của ḿnh như những chướng ngại cần phải vượt
qua, nhưng chúng ta hăy luôn luôn hân hoan, v́ biết rằng đàng sau vạn vật có
sự hiện diện của Thượng Đế và Ngài vô cùng nhân từ.
Và c̣n một điều dị đoan độc ác nữa, nó làm cho con người tưởng rằng ḿnh cần
phải ăn thịt mới sống được.
C. W. L. – Quả nhiên đó là một sự dị đoan, v́ có hàng triệu người sống thật
khoẻ mạnh và không ăn thịt. Chắc chắn có vài người là nạn nhân của sự di
truyền xấu xa và Nghiệp Quả của chính họ, mà quả thật họ không thể bắt xác
thân họ tiêu hóa những vật thực tinh khiết hơn, nhưng số người đó rất ít,
thật hiếm. Chính tôi biết trong mấy trăm người Thông Thiên Học, có vài trường
hợp người ta đă thật sự cố gắng lâu ngày để trường chay, nhưng vẫn thất bại.
C̣n những người khác, sau khi vượt qua vài khó khăn ban đầu th́ ăn chay và
thường đạt được một sức khỏe dồi dào hơn.
Bằng chứng không thể chối căi được là hầu hết mọi người đều có thể giữ ǵn
sức khoẻ đầy đủ mà không lo sợ phạm vào tội sát hại thú vật. Trong một trăm
thân xác chỉ có một số rất nhỏ không thể thích hợp với việc ăn chay thôi.
Những người ở trong t́nh trạng này thật là bất hạnh, nhưng nếu sau khi cố
gắng sửa đổi một cách đúng mức và sáng suốt cách ăn uống của ḿnh, song vẫn
vô hiệu, th́ họ phải nh́n nhận đó là Nhân Quả. Trong trường hợp như thế,
không phải luôn luôn khôn ngoan và đúng đắn mà nói rằng: "Tôi sẽ bắt xác thân
của tôi phải theo ư muốn của tôi, hoặc tôi bỏ nó. Tôi sẽ sống bằng thức ăn
tinh khiết, hoặc tôi sẽ không sống nữa". Có thể người ta có bổn phận phải chu
toàn đối với kẻ khác, bổn phận đó không thể làm tṛn với một xác thân yếu
đuối, nó đ̣i hỏi một sức khỏe cường tráng. Tôi thú thật, lời khuyên ấy dùng
để bàu chữa rất dễ dàng cho những người không đủ can đảm tập xác thân cho
quen với lối ăn mới. Tuy nhiên phải nói lên lời khuyên ấy để giúp ích cho vài
người bạc phước cần phải duy tŕ thói quen cũ kỹ của họ.
[7:20:26 PM] Thuan Thi Do: Thực phẩm bằng thịt phải kiêng cử, bởi v́ giết thú
vật là điều ác, và thịt cũng đem vào mấy thể của chúng ta những phần tử xấu
xa khiến cho chúng trở nên thô trược và c̣n khích động thú tánh trong ḿnh
chúng ta nữa. Vả lại c̣n nhiều lư do khác mà tôi đă tập trung và sắp xếp có
thứ tự trong bài diễn văn người ta có thể t́m thấy trong tác phẩm Huyền Bí
Học Trong Vài Khoảnh Khắc ([116]) của tôi. Đó là một trong những đề tài hiếm
thấy, mà tất cả những luận cứ đều thiên hẳn về một phía, v́ không c̣n lư do
nào để bênh vực cho việc ăn thịt, trừ phi người ta thấy nó ngon miệng. Nếu
người ta hỏi ư kiến chúng ta, tôi tưởng, chúng ta có thể chứng tỏ một cách
hết sức minh bạch rằng mọi người đều được lợi ích nếu cử thịt. Đó chẳng phải
chỉ là vấn đề nguyên tắc - mặc dù quan điểm này cũng đủ cho chúng ta lắm rồi
- nhưng sự dinh dưỡng bằng thực vật bảo đảm cho chúng ta một sức khỏe hoàn
hảo và tránh được vài thứ bịnh ghê tởm. Sau cùng chắc chắn người ăn chay có
một sức chịu đựng tương đối dẻo dai hơn.
Có vài người phản đối rằng dù sao chúng ta cũng phải sát sinh để sống và rốt
cuộc những người ăn chay cũng sát sinh vậy. Lập luận này chỉ chứa đựng một
phần sự thật hết sức nhỏ nhít. Có thể người ta cho rằng chúng đă giết hại đời
sống thực vật, nhưng sự sống đó c̣n sơ khai hơn nhiều và không có sự nhạy cảm
sâu xa như đối với thú vật.
Lư do căn bản của sự bác bẻ tục lệ sát sinh là sự kiện này ngăn trở ḍng tiến
hóa. Nếu bạn giết chết một người, thật ra bạn không làm hại người ấy trên
phương diện vui thú và hạnh phúc của y. Thường thường y lên một cơi và nơi đó
y sẽ hưởng một đại hạnh phúc mà y không hề được biết tại thế gian. Sau cùng,
sự hủy diệt xác thân chưa hẳn là một sự hung ác, v́ người bị giết chết th́nh
ĺnh không cảm biết được điều ấy. Điều tai hại mà bạn đă gây ra cho y là làm
cho y mất những cơ hội để tiến hóa do xác thân y cung cấp. Những cơ hội đó y
sẽ t́m lại được trong một xác thân mới, nhưng bạn đă làm mất th́ giờ của y.
Về sau đó, cũng v́ bạn mà các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu phải t́m cho người ấy một
môi trường tiến hóa khác và một lần nữa các Ngài phải lo cho y từ thời kỳ thơ
ấu đến tuổi thiếu niên trước khi y t́m lại được cơ hội để tiến bộ ở tuổi
trưởng thành. Đó cũng là lư do cho thấy giết một người tội nặng nề hơn giết
một con thú. Con người bị bắt buộc phải tạo lại một Phàm Nhơn hoàn toàn mới
mẻ. C̣n con thú trở về hồn khóm của nó và tự nơi đó nó đầu thai lại một cách
tương đối dễ dàng. Tuy nhiên, đối với con thú tiến hóa hơn và tượng trưng cho
một sự biểu lộ phức tạp hơn th́ sự sát sinh gây ra nhiều việc phiền phức cho
các Đấng Cao Cả coi về sự tiến hóa, nếu chúng ta có thể bày tỏ như thế với
tất cả tấm ḷng tôn kính của ḿnh. Chẳng hạn như giết chết một con muỗi, chỉ
gây một hậu quả hết sức nhỏ mọn, v́ nó nhập vào hồn khóm của nó rồi tái sinh
trong một thời gian rất ngắn. Việc xáo trộn do sự hủy diệt các loại côn trùng
này, dù cả trăm hoặc là hàng ngàn cũng không có ǵ đáng kể nếu so với hậu quả
của tội giết một con ngựa, một con ḅ, một con mèo hoặc một con chó.
Không thể tưởng tượng được một trường hợp giết người v́ lư do cá nhân, mà có
thể cho là chính đáng, trừ phi trong t́nh thế nguy cấp phải bảo vệ sinh mạng
ḿnh hoặc sinh mạng kẻ khác. Nhà Dô Ghi cũng không tự bảo vệ ḿnh. Y phó thác
cho tất cả bàn tay của Nhân Quả. Tuy nhiên tôi tin rằng chúng ta có quyền bảo
vệ sinh mạng của ḿnh trong trường hợp bị tấn công. Và tôi quả quyết rằng
chúng ta có lư do chánh đáng bảo vệ một người bạn hoặc một đứa trẻ, dù phải
giết chết kẻ bạo động ấy. Nguyên tắc này cũng áp dụng đối với tất cả loài
thú. Nếu một con thú tấn công bạn, gây nguy hiểm cho tánh mạng hoặc sự an
toàn của bạn, tôi tin rằng bạn có quyền giết con thú ấy, nếu cần. Tất cả đều
có thể thâu gọn vào câu này: "Đâu là tai hoạ to lớn hơn hết". Nếu bạn bị muỗi
quấy rầy, chúng đă bỏ thức ăn thiên nhiên của chúng để tấn công bạn, truyền
nọc độc vào máu huyết bạn và có thể làm hại một công việc quan trọng của bạn,
th́ việc giết muỗi có thể là một tội ác nhỏ mọn. Nếu bạn có thể ẩn tránh
trong mùng, hoặc đuổi chúng đi nơi khác càng hay hơn. Muỗi là giống ăn thảo
mộc, do bản chất và bản năng của nó. Có hàng triệu con muỗi, không hề nếm
máu. Nếu bạn để nó tiếp xúc với người, chúng có thể thưởng thức món ăn độc
hại và bạn sẽ biết kết quả của việc ấy. Đối với những loài vật nhỏ bé khác
cũng giống như thế. Chúng phải ở đúng chỗ của chúng, chứ không phải sống gần
con người. Không những chúng ta cảm thấy đau khổ khi bị chúng xâm nhập, mà
c̣n làm cho kẻ khác bị nhiễm độc; nếu không có chúng ta, họ sẽ tránh được
điều đó.
[8:11:20 PM] Thuan Thi Do:
https://www.theguardian.com/science/2015/sep/28/nasa-scientists-find-evidence-flowing-water-mars
[8:40:55 PM] Thuan Thi Do:
https://drive.google.com/drive/u/0/folders/0ByRebS4XzY7nZ0tFNW9wOGltdWc
[8:49:55 PM] Thuan Thi Do: Trong tác phẩm này, chúng ta nên tŕnh bày một
quan
niệm tổng thể về nguồn gốc và sự phát triển của thần thoại và
sự tôn thờ nguyệt cầu, vào thời xa xưa, ở phía bên này của
địa cầu. Khoa học chính xác vốn bác bỏ mọi truyền thuyết,
không thể nào truy nguyên được nguồn gốc xa xưa của nó;
trong khi đó, lịch sử xa xưa của nó vẫn c̣n là một bí mật đối
với Thần học. Dưới sự chỉ đạo của các vị Giáo Hoàng lắm xảo
thủ (the crafty Popes), Thần học đă đặt nhăn hiệu trên mọi
áng văn không hề mang dấu ấn hành (the imprimatur) của Giáo
hội La Mă. Dù là triết lư tôn giáo của người Ai Cập hay
người Ăryan Ấn có xưa hơn – Giáo lư Bí Nhiệm cho rằng triết
lư tôn giáo Ăryan Ấn xưa hơn – cũng chẳng thành vấn đề,
riêng trong trường hợp này, sự tôn thờ Nguyệt Tinh (Lunar)
và Nhật Tinh (Solar) thật là xưa nhất trên thế giới. Cả hai vẫn
c̣n tồn tại, và đến nay vẫn c̣n thịnh hành trên thế giới, một
số th́ công khai, một số - chẳng hạn như trong biểu tượng
học Thiên Chúa giáo – th́ lại bí mật. Con mèo, một biểu
tượng nguyệt tinh, lại linh thiêng đối với Isis, nàng vốn là
Mặt Trăng theo một nghĩa nào đó, cũng như Osiris là Mặt
Trời; người ta thường thấy Ngài ở trên đỉnh của chiếc Xi-Cầm
(Sistrum) mà Nữ Thần cầm trên tay. Ở thành phố Bubastis,
người ta rất tôn kính con vật này và thành phố trở nên tang
tóc thê lương khi các con linh miêu này chết hết, v́ Isis với tư
cách là Mặt Trăng được đặc biệt tôn thờ ở thành phố bí nhiệm
này. Chúng ta đă tŕnh bày biểu tượng kư thiên văn liên hệ
với nó trong Tiết 1, chẳng ai mô tả nó khá hơn ông Gerald
Giáo Lư Bí Nhiệm
188
Massey, trong các bài diễn văn và tác phẩm Sáng Thế Kư Tự
Nhiên (The Natural Genesis). Người ta bảo là mắt mèo h́nh
như tuỳ theo tuần trăng tṛn hay trăng khuyết, c̣n các nhăn
cầu lại sáng như sao trong đêm tối. V́ thế mới có chuyện thần
thoại ẩn dụ nói là Diana ẩn trong Mặt Trăng, dưới h́nh hài
một con mèo, khi nàng đang t́m cách trốn chạy con quái vật
Typhon, cùng với các vị thần linh khác. Trong tác phẩm Biến
H́nh (Metamorphoses) của Ovid có thuật lại điều này. Ở Ai
Cập, Mặt Trăng vừa là “Mắt của Horus”, vừa là “Mắt của
Osiris” tức Mặt Trời.
Con vật đầu chó cũng vậy (Cynocephalus). Con khỉ đầu
chó (the dog-headed ape) là một h́nh tượng để lần lượt
tượng trưng cho Mặt Trời và Mặt Trăng, mặc dù Con vật đầu
chó là một biểu tượng huyền bí hơn là một biểu tượng của tôn
giáo. V́ đó chính là chữ viết tượng h́nh của Thuỷ Tinh
(Mercury) và Thần Mercury của các Triết gia luyện kim đan;
họ cho rằng:
Thần Mercury bao giờ cũng phải ở gần bên Isis để giúp đỡ
nàng, v́ nếu không có Mercury, cả Isis lẫn Osiris đều không thể
hoàn thành bất cứ điều ǵ TRONG ĐẠI SỰ (the GREAT WORK).
Con vật đầu chó, bất cứ lúc nào được tŕnh bày tượng
trưng cùng với Dực Xà Trượng (the Caduceus) (cây gậy có
h́nh con rắn quấn quanh và có cánh - LND), Trăng lưỡi liềm
(Crescent), hay Hoa sen (Lotus) cũng đều là một h́nh tượng
của thần Mercury “triết lư”. Nhưng khi được tŕnh bày cùng
với một cây sậy hay là một cuộn giấy da, y lại tượng trưng
cho Hermes, thư kư và cố vấn (adviser) của Isis, chẳng khác
nào Hanumăn đi đôi với Răma.
Mặc dù chẳng có bao nhiêu tín đồ Bái Hoả giáo vốn
thường xuyên tôn thờ Mặt Trời, song không những phần lớn
(the bulk) thần thoại và lịch sử Ấn Độ đều dựa vào và lẫn lộn
104
189
Hoa Sen được dùng như là một biểu tượng đại đồng thế giới
với hai tục thờ cúng này, mà cả Thiên Chúa giáo cũng vậy
nữa. Từ lúc khởi đầu đến nay, nó đă tô điểm cho Thần học
của Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mă lẫn Giáo hội Tin Lành.
Thật ra nếu xét tới các ư niệm căn bản của cả hai, chúng ta
thấy là các tín ngưỡng của dân Ăryan Ấn và dân Ăryan Âu
chẳng khác nhau bao nhiêu. Dân Ấn Độ cứ hănh diện mà
khoe rằng ḿnh là các Sũryavamshas và Chandravamshas,
tức là thuộc về các Triều đại Thái Dương (Solar) và Thái Âm
(Lunar). Tín đồ Thiên Chúa giáo tự phụ nên mới cho rằng
như thế là tôn thờ h́nh tượng, song họ lại gắn bó (adhere) với
cái tôn giáo toàn là dựa vào sự tôn thờ Nhật Tinh (Solar) và
Nguyệt Tinh (Lunar). Tín đồ Tin Lành làm ǵ mà có quyền
lên mặt tố cáo ầm ĩ Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mă là cứ tôn
thờ Đức Mẹ Mary (vốn dựa vào các tập tục cổ truyền là tôn
thờ các nữ thần nguyệt tinh) khi mà chính họ lại tôn thờ
Jehovah, chủ yếu là một Thần nguyệt tinh; nhất là khi cả hai
giáo hội đều chấp nhận Đức Christ Thái Dương (Sun-Christ)
và Tam Nguyên Thái Âm (Lunar Trinity) trong các thuyết thần
học của ḿnh.
Người ta chẳng biết được bao nhiêu về sự Tôn thờ Mặt
Trăng của dân Chaldea, về thần Sin của dân Babylon mà
người Hy Lạp gọi là “Nguyệt Thần” (“Deus Lunus”), v́ thế
mà những môn sinh phàm tục mới bị lầm lẫn, họ không tài
nào lĩnh hội được ư nghĩa nội môn của các biểu tượng.
Những người đă được điểm đạo đều phải tuyên thệ bảo mật,
c̣n những triết gia và văn sĩ ngoại đạo thời xưa đều biết rơ
rằng những người dân Chaldea toàn là tôn thờ Mặt Trăng với
nhiều danh xưng nam, nữ khác nhau; người Do Thái lại cứ
theo đó mà đi.
Trong bản thảo chưa được xuất bản về thuật ngữ đă
được đề cập tới – nó tŕnh bày một ch́a khoá để giải cấu tạo
[9:15:52 PM] Thuan Thi Do:
https://www.pinterest.com/pin/209910032605799012/
[9:40:23 PM] Thuan Thi Do: Kỳ sau học trang 189 GLBN Tran Ngoc Loi
[10:23:49 PM] Thuan Thi Do:
https://www.google.com/search?q=hoa+xuong+rong&newwindow=1&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0ahUKEwiYv5Gv89nQAhWFr1QKHYJHCqQQ_AUICCgB&biw=1024&bih=589
[10:25:34 PM] Thuan Thi Do:
http://www.nytimes.com/interactive/2014/08/20/style/tmagazine/welcome-to-the-integratron.html