Họp Thông Thiên Học qua Skype ngày 30 tháng 4 năm 2016

[4/30/2016 6:20:04 PM] Thuan Thi Do:


: “Đi làm ǵ? Tôi có tiến bước đâu.” Dưới Cơi Trần, ai lại không thấy cái tư cách như thế lố bịch biết bao, và tư cách kia nó cũng giống như vậy. Sự tham thiền tạo ra những kết quả, đó là cưỡng bách, không khác nào sự đi bộ sẽ đưa bạn đến một quăng đường, điều này chắc chắn như vậy. Những Luật Khoa Học tác động một cách bất biến (không thay đổi), như thế mọi năng lực của bạn tạo ra phải mang lại kết quả. Nếu bạn chưa thu thập được kết quả tức khắc theo ư muốn, chính v́ cái nguyên tắc đối lập chưa hoàn toàn bị hàng phục, năng lực của bạn c̣n bám chắc lấy nó để trung ḥa nó, để rồi chinh phục nó một cách triệt để. Bạn chớ bận tâm đến kết quả. Hăy chú định tư tưởng của bạn vào đức kiên nhẫn hoặc những đức tính nào khác mà bạn muốn mở mang. Rồi kết quả tự nó sẽ đến, khỏi cần ai trợ giúp.

C.W.L.- Tóm lại, với sự luyện tập một ít lâu, không khó ǵ để chúng ta biết rằng xác thân không phải là chúng ta, nó chỉ là cái áo khoác ngoài. C̣n thể vía – những cảm xúc và dục vọng của chúng ta – lại khó biết hơn, v́ dường như nó là thành phần của bản ngă sâu kín hơn của chúng ta. Mỗi ngày, ở đâu người ta cũng gặp những người có cảm tưởng rằng họ là những t́nh cảm, dục vọng của họ. Ở vài người bị t́nh cảm, dục vọng choán đầy cả tâm hồn cho đến nỗi nếu cố gắng dùng trí tưởng tượng tách biệt chúng riêng ra, họ không c̣n lại cái ǵ cả; trọn cả con người họ chỉ là dục vọng và cảm xúc mà thôi. Một người như thế thật khó tách riêng ra khỏi thể vía; nhưng đó là điều phải thực hiện. Thể vía luôn luôn thay đổi trạng thái của nó và sự kiện này giúp con người hiểu rằng nó không phải là chân ngă, cái “Tôi chân thật.” Chính linh hồn không bao giờ thay đổi, ước vọng của nó vốn bất di bất dịch, tiến hóa để có thể giúp đỡ những người khác theo đuổi con đường đạo do các đấng Chân Sư của chúng ta đă vạch ra. Vậy thật rơ ràng và chắc chắn rằng thể t́nh cảm này không phải là chân ngă.

Sở dĩ tinh chất thể vía đạt được ít nhiều sự liên tục, v́ những hạt nguyên tử trường tồn thu hút chung quanh chúng nó loại chất liệu mà chúng ta đă có ở kiếp trước; bởi thế thật khó mà th́nh ĺnh đương đầu và kiềm chế nó. Tuy nhiên, không phải điều đó không làm được và phương tiện hay nhất là nhờ sự quan sát kỹ lưỡng để khám phá ra những loại hoạt động xấu xa nào mà thể vía muốn theo đuổi. Mỗi người đều có những khó khăn riêng. Người th́ tỏ ra nóng nảy, khó chịu; người có tính đố kỵ, ganh ghét; người khác lại tham lam. Nhận biết như thế rồi ta phải chuyên tâm khắc phục tật xấu đặc biệt ấy một cách cương quyết. Giả sử vấn đề ở đây là tính nóng nảy, nó thường xảy ra bởi v́ những t́nh trạng căng thẳng ghê gớm và những tiếng động ồn ào của đời sống hiện đại. Người ta phải quyết định không nổi nóng nữa. Lấy nó làm một đề tài tham thiền rất tốt, nhưng đừng chiến đấu với tật xấu bằng cách chống cự với nó. Điều hay hơn hết là tham thiền về đức tính đối lập với nó, nghĩa là đức kiên nhẫn. Đừng nghĩ đến tính xấu và việc cần phải đối phó với nó, v́ như thế sẽ khơi dậy thêm sức mạnh của nó.
Nếu bạn cố gắng giúp kẻ khác bằng tư tưởng của bạn, cũng nên theo phương pháp đó. Khi bạn giúp một người có tật xấu nói trên đây, thay v́ chú trọng đến tính nóng nảy của họ và thương hại họ – như thế sẽ tăng cường tính nóng nảy đó – bạn hăy nghĩ rằng: “Tôi muốn thấy người ấy b́nh tĩnh và kiên nhẫn.” Như vậy tất cả năng lực tinh thần của bạn giúp cho người ấy b́nh tĩnh và kiên nhẫn. Lúc đầu, khi gặp một người không nhẫn nại, chúng ta sẽ nóng nảy theo, v́ chúng ta cũng có thói quen đó, nhưng sau đó, chúng ta lại nhớ rằng, “Tôi không muốn như thế.” Dù nhớ muộn như thế cũng tạm được. Lần sau, hay lần thứ hai mươi, chúng ta sẽ nhớ ngay tức th́ chớ không phải sau khi phạm lỗi. Trong giai đoạn thứ ba, ta sẽ nhớ ngay trước khi thốt ra lời phẫn nộ; sự nóng giận vẫn có, nhưng chúng ta không để nó bộc lộ ra. Tiến thêm một bước nữa, chúng ta không c̣n cảm thấy sự nóng nảy nào. Chúng ta đă hàng phục được sự nóng nảy và chúng ta sẽ không c̣n bận tâm v́ nó nữa, trong kiếp này, cũng như trong những kiếp sắp tới.
[4/30/2016 6:26:53 PM] Thuan Thi Do: Cũng cần phải làm thuần thục bản tính của thể vía, để cảm giác cá nhân của chúng ta không dễ bị làm tổn thương hoặc phiền nhiễu. Những t́nh cảm cao thượng như thiện cảm và t́nh thương phải tràn ngập trong ḷng chúng ta, để không c̣n chỗ cho những cảm giác bực bội hay phiền hà. Người nào c̣n những t́nh cảm này là c̣n nghĩ đến ḿnh, chúng ta không có quyền làm như thế, nếu chúng ta đă tự hiến ḿnh cho đức Thầy. Có thể có những người tŕ độn, họ bị mắng mà không biết; sự vô ư thức như thế không tốt. Đối với bạn, một khi nhận thấy bị nhục mạ, hăy tỏ ra khôn ngoan, đừng chú ư đến, đó là cách hay nhất. Người ta đă nói xấu bạn, điều này không quan trọng mấy. Người ta đă nói xấu lẫn nhau từ thuở khai thiên lập địa, và ngày nào chúng ta chưa tiến đến gần quả vị Chân Tiên, ngày đó sự nói hành này cũng vẫn c̣n măi. Tóm lại, những điều kẻ khác nói không quan trọng; đó là những làn rung động thoáng qua làm xao xuyến không khí và chỉ có thế thôi, trừ ra khi nào chúng ta quyết định làm trái ngược lại. Một người nào đó nói những điều không tốt về bạn, nếu bạn không hay biết th́ chẳng có sao cả. Nhưng nếu bạn nghe được những lời đó, bạn đùng đùng nổi giận, bạn kinh hăi, bạn thất vọng và c̣n nhiều phản ứng khác nữa, đó không phải lỗi ở kẻ thủ phạm đầu tiên, mà chính bạn đă tự hại ḿnh. Hăy nh́n sự việc một cách thật kiên nhẫn và nói rằng: “Tội nghiệp, chị ấy không biết chi hơn điều đó.” Bạn hăy giữ lấy thái độ dịu dàng và nhân hậu. Những điều kẻ khác nói không quan trọng mấy, v́ họ thiếu sự hiểu biết. Hăy nhớ mấy lời này: “Tấm ḷng tự biết những nỗi đắng cay của nó.” Trong mỗi trường hợp, người ta luôn luôn có những lư lẽ để biện minh cho lời nói, hành động hoặc suy tư của họ. Từ bên ngoài không thể biết tất cả những lư do của họ, v́ bạn chỉ quan sát chúng một cách nông cạn và thường nhiều sai lạc. Chỉ khi nào tâm thức lên tới cơi bồ đề mới biết rơ. Bây giờ bạn chỉ xem như là một nghi vấn, hoặc hơn nữa, đừng gán cho người khác những lư lẽ này hay những động cơ nọ. Nếu bạn cảm thấy một hành vi nào đó là sái quấy, sự phê phán nhân từ hơn hết là nói rằng: “Tôi sẽ không làm điều này; theo ư tôi như thế là sái quấy. Có thể người ấy có những lư lẽ riêng của họ, mặc dù tôi không biết chúng như thế nào.”
[4/30/2016 6:58:08 PM] Thuan Thi Do: Khi một người kia tỏ ra khiếm nhă, chúng ta nên nghĩ rằng nhiều khi có điều ǵ bất thường đă xảy đến cho anh ta và bởi vậy anh ta không ở trong trạng thái b́nh thường nữa, và người đầu tiên nói chuyện với anh ta lại chính là bạn. Thật ra, không phải người ấy giận bạn; sự mất quân b́nh của anh ta có lư do khác; có thể bữa cơm tối của anh ta bị mất ngon. Chúng ta hăy tập lấy đức khoan dung đối với kẻ khác và nói rằng: “Tội nghiệp cho bạn ấy, có lẽ bạn ấy không thể nào được luôn luôn khả ái và dễ mến như tôi.” Có lẽ sau đó người này sẽ hối hận về những lời khiếm nhă của anh ta, hoặc anh ta cũng không nhận thấy điều ǵ khác thường do anh ta đă thốt ra. Những cảm giác bị xúc phạm hay tổn thương phát sinh từ tư tưởng của bản ngă, của cái ta. Chính tư tưởng cá nhân này cần phải được nhổ tận gốc rễ. Không bận rộn về bản ngă sẽ không c̣n đố kỵ. Nếu người thứ nhất thương người thứ nh́ thật ḷng và không ích kỷ, th́ có quan hệ ǵ khi người thứ nh́ thương một người nào khác. Ảo ảnh về bản ngă riêng rẽ là căn nguyên của hầu hết mọi đau khổ.
Người ích kỷ hiện nay đă lỗi thời, họ vẫn c̣n giữ lại loại t́nh cảm mà 20 ngàn năm về trước hữu ích và cần thiết cho họ trong sự tiến hóa, nhưng giờ đây chúng không c̣n hữu ích và cần thiết nữa, có thể nói người ích kỷ là người cổ hủ, đi sau thời đại. Chúng ta có bổn phận phải theo kịp thời thế. Chúng ta đang sống và hướng về tương lai, cho nên phải bỏ lại sau lưng tất cả những tư tưởng lỗi thời ấy.
Trong khi t́m kiếm những lỗi lầm để chủ trị chúng, bạn đừng để tư tưởng sai lầm về sự ăn năn và hối hận lưu vết tích trong ḷng bạn. Bạn hăy nhớ chuyện bà vợ của ông Lot7 và đừng nh́n về phía sau; điều đó chẳng có ích lợi ǵ cả. Sau khi phạm một lỗi nặng nào đó, bạn có thể nói một cách thật b́nh tĩnh rằng: “Tôi đă làm chuyện điên rồ, chẳng bao giờ tôi tái phạm nữa.” Người ta cho rằng ông Talleyrand đă nói những lời này: “Ai cũng có thể lầm lỗi – tất cả chúng ta đều có lầm lỗi – nhưng mà người phạm cùng một lỗi hai lần là kẻ khờ dại.” Có vị Chân Sư nói rằng: “Sự hối hận chỉ có chút ít giá trị là khi nào quyết định không tái phạm nữa.” Bạn cũng nên nhớ câu này: “Kẻ nào không bao giờ lầm lỗi là kẻ không làm ǵ cả.” Bạn đừng lo lắng về những ǵ mà bạn đă làm trong những kiếp trước; tại sao lại bận tâm đến ngày hôm qua? Cả hai đều thuộc về quá khứ. Sự hối hận làm mất th́ giờ và năng lực; và tệ hơn nữa, nó là một h́nh thức ích kỷ.
Thật dễ cho chúng ta tử tế và dễ thương đối với những người đă đối xử với chúng ta cũng giống như thế, nhưng khi chúng ta đă thực sự có chút ít tiến bộ, chúng ta ban rải t́nh thương ra chung quanh, mà không màng đến cách cư xử của người khác đối với
7 Vợ của Lot ngó lại đàng sau liền hóa ra một cái h́nh bằng muối. (Sáng Thế Kư 19,26).
chúng ta. Đấng Christ đă nói: “Nếu con thương những kẻ yêu con th́ có ǵ đáng được ban thưởng? Những kẻ thu thuế kia lại không làm được như thế sao?”
8 Ngài c̣n dạy rằng: “Con hăy thương yêu kẻ nghịch của con và cầu nguyện cho những người hành hạ con.”9 Đă đến lúc người đệ tử của Chân Sư chứng tỏ giá trị thật sự của ḿnh, khi mà họ có thể hành động như Ngài; khi họ đáp lại sự nói xấu và sự ngược đăi bằng những tư tưởng nhân từ và t́nh thương, bào chữa và khoan hồng đối với sự rồ dại của kẻ nghịch. Thương yêu và tử tế đối với những người thương yêu và tử tế với ta vẫn chưa đủ, phải có khả năng ban rải t́nh thương của chúng ta đến những kẻ chưa biết rơ t́nh thương là ǵ. Người ta nói đấng Christ khi bị nguyền rủa, Ngài không nguyền rủa lại; khi bị hành hạ, Ngài không hăm dọa, mà chỉ phó thác mọi việc cho Đấng xét đoán công bằng.10 Chúng ta cũng có lúc bị kẻ khác làm hại, bị đối xử bất công, bị người ta hiểu lầm. Đừng bận tâm về những điều đó, v́ luật nhân quả luôn luôn đem lại lẽ phải. Đức Chúa Trời nói: “Hăy để cho Ta trả thù. Hăy để cho Ta phân phát mọi việc.”11 Chúng ta hăy phó thác mọi việc cho Ngài. Luôn luôn sự công bằng sẽ được tái lập;
8 Matthieu, V.46.
9 Luke, VI.27-29.
10 Peter, II.23.
11 Romans, XII.19.

 
những điều xấu xa một ngày kia sẽ được điều chỉnh. Những người nào ngày nay hiểu lầm, một ngày kia sẽ biết và sẽ hối hận. Không có sự bất công nào tồn tại được. Tất cả mọi sự sẽ được thực hiện đúng như đă dự định.
[4/30/2016 7:03:34 PM] Thuan Thi Do: Chính đức Thượng Đế luôn luôn biểu lộ gương bác ái. Nhiều người nói xấu Ngài; v́ không hiểu biết, nên họ đă nhạo báng Ngài. Ngài vẫn không hề trả lời, nhưng t́nh bác ái thiêng liêng không ngừng tuôn ra. Nếu chúng ta muốn biểu hiện sự sống thiêng liêng, chúng ta phải có đặc tính giống như Ngài vậy.
Thể trí của con ưa thích thói kiêu căng chia rẽ, chú trọng nhiều về ḿnh mà ít khi nghĩ đến kẻ khác.
C.W.L.- Một lần nữa, đừng lầm lẫn ư muốn của thể trí với ư muốn của chúng ta và nên biết rằng chúng ta không phải là thể trí. Chúng ta có thói quen hay nói: “Tôi nghĩ thế này hay thế kia,” nhưng trong 10 lần hết 9 lần không phải là chúng ta nghĩ mà chính là thể trí nghĩ. Nhiều người trong chúng ta cố gắng chủ trị và uốn nắn tư tưởng theo kỷ luật. Nếu kiểm điểm lại, chúng ta nhận thấy những tư tưởng đáng coi là thuộc về của ta, nghĩa là của chân ngă thật hiếm hoi, và những tư tưởng thuộc về hạ trí th́ rất nhiều.
Hạ trí nghĩ từ chuyện này qua chuyện khác, lướt qua nhiều vấn đề khác nhau, nhưng thường thường nó không chăm chú sâu xa vào một vấn đề nhất định. Nó không có thói quen xem xét tường tận một điều nào, mà chỉ lướt qua vấn đề này đến vấn đề khác để có những rung động luôn luôn thay đổi. Nếu b́nh tâm nhớ lại trong một khoảng thời gian rất ngắn vừa trải qua, chúng ta sẽ thấy rằng thể trí của chúng ta nghĩ đến nhiều thứ chuyện khác nhau, lộn xộn và không quan trọng. Chẳng hạn khi đi đường bạn sẽ nhận thấy rằng tuy bạn không có chủ đích suy nghĩ điều ǵ cả, nhưng tư tưởng không chịu dừng lại, đó chính là thể trí của bạn. Nếu bạn không chú ư kiểm soát thể trí, nó sẽ bay nhảy qua hàng loạt những chuyện vô ích đối với bạn, không phải toàn là chuyện xấu, trừ khi chúng nó có tính cách ích kỷ. Sự liên tưởng là thói quen của thể trí, đôi khi nó biến đổi tư tưởng tốt đẹp nhất của con người rồi dẫn đến những chuyện tầm thường khác. Chúng ta phải kiểm soát và đổi lại tất cả. Kiểm soát những sự hoạt động của thể trí trong mọi lúc quả là khó khăn, nhưng chúng ta phải thực hiện điều đó, v́ tư tưởng có một năng lực rất mạnh mẽ, nó là quyền năng lớn nhất mà chúng ta có. Nếu ư chí có thể điều khiển thể trí, th́ ít có việc ǵ mà chúng ta không hoàn thành nổi. Chúng ta có thể hoạch đắc sức mạnh phi thường này, dù chúng ta giàu hay nghèo, già hay trẻ, nó là một dụng cụ quí báu để phụng sự trong công việc của đức Thầy. Cần phải chú ư và liên tục thực hành cho tới lúc sự kiểm soát thể trí trở thành một thói quen. Tư tưởng có thể hoàn thành được nhiều việc, mà những phương tiện khác không thể thành công. Một tư tưởng thương yêu gởi đến cho một người – đang cần được giúp đỡ – có thể hữu ích hơn là một số tiền, v́ trọn đời người ấy có thể nhờ ảnh hưởng tốt đẹp đó, tuy kết quả đó có thể không nh́n thấy được ở cơi vật chất. Đó là một trong những công việc làm thực sự cho đức Thầy.
[4/30/2016 7:06:40 PM] Thuan Thi Do: Tư tưởng hướng về Chân Sư phải thường trực ở hậu nền của trí năo, để mỗi khi không có điều ǵ cần phải chú ư hay suy nghĩ, th́ chúng ta có thể trở lại với tư tưởng ấy. Tư tưởng đó phải hết sức rơ rệt, đối với nhiều người, tư tưởng về đức Thầy chỉ là một thứ phúc lạc mơ hồ, một sự xuất thần nửa vời, một trạng thái hôn mê về tôn giáo; trong những lúc đó họ không thực sự chủ động suy nghĩ về điều ǵ cả. Thay v́ đắm ch́m một cách mơ hồ trong tư tưởng mập mờ, chúng ta phải để cho việc sùng mộ đức Thầy của ḿnh thành một h́nh tư tưởng rơ rệt, chẳng hạn như: “Tôi có thể làm ǵ để phụng sự Ngài? Tôi có thể dùng sức mạnh tư tưởng của tôi theo đường hướng nào?”
Trong quyển sách này bạn thường thấy tác giả nhấn mạnh rằng, chúng ta chỉ có một tư tưởng duy nhất, một ư chí duy nhất, một phận sự duy nhất mà thôi. Tư tưởng duy nhất là phụng sự đức Thầy; ư chí duy nhất là làm việc cho Ngài; phận sự duy nhất là tận tụy với Ngài và v́ nhân danh Ngài mà tận tâm với nhân loại. Mặc dù những công việc có tính cách hết sức phức tạp đang chờ đợi chúng ta đi nữa, chúng ta cũng phải đảm đương để phụng sự Ngài và nhân loại. Trong trí đức Thầy chỉ có một tư tưởng duy nhất là phụng sự; nếu chúng ta muốn hợp nhất với Ngài, tư tưởng duy nhất đó cũng phải là tư tưởng của chúng ta.
Điều đó có hàm ư là chúng ta phải tự huấn luyện cho thích ứng với công việc phụng sự, bằng cách đó, chúng ta sẽ đạt được tiến bộ. Không phải chúng ta mong muốn thành những bậc vĩ nhân, mà v́ chúng ta muốn thành những trợ thủ tốt cho đức Thầy.
[4/30/2016 7:08:05 PM] Thuan Thi Do: Nhiều người đang mở trí, như những nhà bác học dùng trí năo để t́m hiểu, mở rộng sự hiểu biết của họ. Đôi khi họ cũng có thể có ư muốn được nổi danh do kết quả của một phát minh vĩ đại, nhưng đó không phải là trường hợp của đa số những nhà khoa học. Thường thường trong thâm tâm họ đều có ư muốn dùng kiến thức để giúp ích cho đời, nhưng trên tất cả, là ḷng nhiệt thành mong muốn hiểu biết. Đó là một môi trường hoạt động tốt đẹp; nhiều tâm hồn cao quí làm việc trong phạm vi này đă giúp ích rất nhiều cho nhân loại.
Chúng ta cũng vậy, phải tinh luyện thể trí của ḿnh để nó trở nên minh mẫn, linh hoạt và hữu ích. Tại sao thế ? Tại sao người thợ mộc mài cái bào? Chẳng phải để có một cái bào sắc bén hơn cái bào của một anh thợ mộc khác, nhưng để bào cây cho láng, để việc làm hoàn thành tốt. Đó là lư do mà chúng ta phải tập luyện thể trí. Nhưng luôn luôn hăy nhớ tư tưởng này: “Tôi đang tạo một khí cụ cho công việc của đức Thầy.” Lư tưởng này sẽ ngừa được sự kiêu căng của trí thức, nó giúp cho chúng ta tránh khỏi nhiều cạm bẫy, do chỉ thuần phát triển trí thông minh.



[4/30/2016 8:27:05 PM] Thuan Thi Do: Nay, ta thử giải thích các biểu tượng và biểu hiệu chính,
bởi v́, nếu không chuẩn bị làm quen với ít ra là các biểu
tượng siêu h́nh, chúng ta sẽ khó ḷng hiểu được các Quyển 3
và 4 là hai quyển bàn về nguồn gốc con người.
Cũng chẳng công b́nh chút nào nếu bước vào lănh vực
nghiên cứu biểu tượng kư, mà lại không tôn vinh đúng mức
người đă phụng sự nhiều nhất trong lănh vực đó vào thế kỷ
này, bằng cách t́m ra ch́a khóa chính để giải biểu tượng học
Cổ Do Thái, biểu tượng này đă lẫn lộn lung tung với khoa đo
lường, một trong các ch́a khóa để giải cái đă từng một thời là
Ngôn Ngữ Bí Nhiệm Vũ Trụ Đại Đồng. Chúng ta phải mang
ơn ông Ralston Skinner, ở thành phố Cincinnati, tác giả của
quyển Ch́a khóa để giải Bí Nhiệm Ai Cập Cổ Do Thái trong
Nguồn gốc của Kích thước (The Key to the Hebrew-Egyptian
Mystery in the Source of Measures). Vốn có bản chất là một nhà
huyền học và một tín đồ Do Thái Bí giáo, ông đă bỏ ra nhiều
công sức theo chiều hướng này trong nhiều năm và chắc chắn
1 Như thế, một người Nhật chẳng hiểu một từ ngữ nào của
Trung Quốc, gặp một người Trung Quốc chẳng thể hiểu ngôn ngữ
người Nhật, sẽ giao tiếp với y bằng chữ viết và họ sẽ hiểu nhau
một cách hoàn toàn, v́ chữ viết của họ đều có tính cách biểu
tượng.

là ông đă được thưởng công với một thành công rực rỡ. Ông
viết:
Tác giả đă hoàn toàn chắc chắn rằng đă có một ngôn ngữ cổ
truyền mà hiện nay và đến nay, h́nh như là đă thất truyền; tuy
nhiên hăy c̣n đầy dẫy các di tích của nó…. Tác giả đă khám phá ra
rằng tỷ số h́nh học này (tỷ số toàn phần của đường kính đối với
một chu vi của một ṿng tṛn) rất xưa cũ và có lẽ đó là nguồn gốc
thiêng liêng của…các số đo đường thẳng …Hầu như có vẻ là người
ta đă chứng minh được rằng trên lục địa Bắc Mỹ người ta cũng biết
tới và sử dụng cùng một hệ thống h́nh học, số học, tỷ số và số đo,
ngay cả trước khi hậu duệ Semite biết tới cũng hệ thống đó ….
Ngôn ngữ này kỳ dị ở chỗ là nó có thể được bao hàm
trong một ngôn ngữ khác, ẩn tàng mà không ai nhận ra được,
trừ phi người ta được huấn luyện chuyên môn; các chữ và các
kư hiệu âm vận đồng thời cũng có được các quyền năng hay
ư nghĩa của các con số, của các h́nh thể h́nh học, các bức
họa, các biểu ư tự và các biểu tượng; tầm mức ấn định của
chúng nhất định là sẽ được trợ lực bởi các ngụ ngôn dưới
h́nh thức các câu chuyện hoặc là một phần câu chuyện; trong
khi mà nó cũng có thể được tŕnh bày một cách riêng biệt, độc
lập và biến thiên, bằng các bức họa, nơi các công tŕnh bằng
đá và các công tŕnh kiến tạo bằng đất.
Ta hăy minh giải một điều tối nghĩa về từ ngữ ngôn
ngữ: từ ngữ này chủ yếu có nghĩa là việc biểu lộ các ư tưởng
bằng ngôn từ của con người; theo ư nghĩa thứ yếu, nó cũng
có thể có nghĩa là việc biểu lộ các ư tưởng bằng một phương
tiện nào đó. Trong bản văn cổ Do Thái, ngôn ngữ này được
cấu tạo sao cho, bằng cách dùng các chữ viết, - khi chúng
được phát thanh, chúng sẽ là ngôn ngữ theo định nghĩa thứ
nhất - người ta có thể cố ư truyền thụ một loạt các ư tưởng
riêng biệt khác hơn là các ư tưởng được biểu lộ bằng cách đọc
các kư hiệu âm thanh (sound-signs). Ngôn ngữ thứ yếu này
tŕnh bày, dưới một bức màn, hàng loạt ư tưởng, mô phỏng
theo trí tưởng tượng các vật rơ rệt vốn có thể được họa ra và
các vật có thể được coi như là có thực mặc dù không rơ rệt;
chẳng hạn như: con số 9 có thể được coi như là một thực tại,
mặc dù nó không tồn tại một cách rơ rệt; cũng thế sự quay
của mặt trăng, khi xét tách rời khỏi mặt trăng vốn đă tạo ra
sự quay này, có thể được coi như là tạo ra một ư tưởng thực
sự, mặc dù một sự quay như thế không có thực chất. Ngôn
ngữ ư tưởng này có thể gồm có các biểu tượng được giới hạn
vào các từ ngữ và các kư hiệu độc đoán có một phạm vi quan
niệm rất hạn chế và hoàn toàn vô giá trị, hoặc nó có thể là sự
nghiên cứu thiên nhiên trong một vài biểu lộ có một giá trị
hầu như là không thể đo lường được, xét về nền văn minh
của nhân loại. Một bức họa về một điều ǵ tự nhiên có thể tạo
ra các ư tưởng phối hợp vấn đề lệ thuộc, túa ra theo nhiều
hướng khác nhau và ngay cả các hướng đối nghịch nhau,
giống như là những chiếc căm của một bánh xe và tạo ra các
thực tại tự nhiên trong các bộ môn rất xa lạ với khuynh
hướng bề ngoài của việc xem bức tranh khởi đầu. Ư niệm có
thể sản sinh ra ư niệm liên hệ, nhưng nếu quả thực như thế,
bấy giờ, dù xét theo bề ngoài có vẻ không tương hợp, mọi ư
tưởng hệ quả phải xuất phát từ bức họa nguyên bản và có
liên hệ hài ḥa với nhau. Như thế, với một ư tưởng được
minh họa đến mức căn bản cần thiết, ta có thể tạo ra việc
tưởng tượng bản thân vũ trụ; ngay cả tới các chi tiết kiến tạo.
Ngày nay, người ta không c̣n dùng ngôn ngữ thông thường
như thế nữa, nhưng tác giả vẫn thắc mắc không biết là vào
một thời kỳ xa xưa, liệu nó hoặc cái đó có phải là ngôn ngữ
của thế giới và được dùng phổ biến hay chỉ có một giai cấp
chọn lọc sử dụng nó khi nó ngày càng khoác lấy các h́nh
thức bí hiểm. Tôi muốn nói là ngôn ngữ b́nh dân hoặc ngôn
ngữ địa phương, ngay từ lúc bắt đầu, đă được dùng làm
chuyển ngữ của cách thức truyền thụ ư tưởng đặc thù này. Về
điều này, bằng chứng không thiếu ǵ, và thật vậy, h́nh như là
trong lịch sử nhân loại, do những nguyên nhân mà hiện nay
ta không tài nào truy nguyên ra được, đă có một sự thất
truyền của một ngôn ngữ bản sơ hoàn hảo và một hệ thống
khoa học hoàn hảo - ta ắt sẽ nói là chúng hoàn hảo v́ chúng
có nguồn gốc và được du nhập từ Đấng Thiêng Liêng.(1)
[4/30/2016 8:27:37 PM] Thuan Thi Do: Ở đây, “nguồn gốc Thiêng liêng” (“Divine origin) không
có nghĩa là một điều thiên khải phát xuất từ một Thượng Đế
nhân h́nh ngự trên một ngọn núi giữa sấm sét; nhưng theo
như ta hiểu, đó là một ngôn ngữ và một hệ thống khoa học
được truyền thụ cho nhân loại sơ khai bởi một giống người
tiến hóa hơn, họ tiên tiến đến đỗi mà họ được nhân loại ấu trĩ
coi như là thiêng liêng; nói tóm lại là một nhân loại xuất phát
từ các lănh vực tiến hóa khác. Một ư tưởng chẳng có ǵ là siêu
nhiên, nhưng nó sẽ được chấp nhận hay bác bỏ tùy theo
đương sự kiêu căng ngạo mạn đến mức nào. V́ chỉ cần các
giáo sư hiện đại thú nhận rằng, mặc dù họ chẳng biết ǵ về
tương lai của kẻ đă bỏ xác - hoặc đúng hơn là sẽ chẳng chấp
nhận điều ǵ - song đối với họ, tương lai này sẽ đầy dẫy
những điều kỳ lạ và những điều thiên khải bất ngờ, một khi
mà Chơn Ngă của họ đă thoát khỏi các thể xác thô trực - th́
bấy giờ thuyết duy vật vô thần cũng ít có cơ may thành tựu
hơn. Trong số các giáo sư đó, ai biết hay dám bảo rằng điều
ǵ sẽ xảy ra một khi chu kỳ sống của Địa Cầu chấm dứt và
chính bà mẹ Địa Cầu của chúng ta cũng ch́m vào giấc hôn
1 Trích từ một bản thảo, từ trang 1 đến trang 6. Xem chú thích ở
cuối trang, Quyển 1, trang 72

thụy tối hậu (our mother Earth herself falls into her last
sleep)? Ai dám bảo rằng các Chơn Ngă (the divine Egos) của
nhân loại chúng ta - ít nhất là các phần tử ưu tú được tuyển
lựa ra từ đám đông đang chuyển sang các lănh vực tiến hóa
khác - đến lượt họ sẽ chẳng trở thành các đạo sư ”thánh
linh”(“divine”) của một nhân loại mới do họ sản sinh ra trên
một Bầu hành tinh mới, được các nguyên khí đă thoát xác của
Địa Cầu chúng ta cấp cho nguồn sống và sự hoạt động? Tất
cả mọi điều này có thể là kinh nghiệm của QUÁ KHỨ (the
PAST), và các tài liệu lưu trữ kỳ diệu này đều ẩn tàng trong
“Ngôn Ngữ Bí Nhiệm” (“Mystery Language”) của các thời
đại tiền sử, ngôn ngữ này được gọi là BIỂU TƯỢNG KƯ.


GLTVT
[4/30/2016 8:49:06 PM] Thuan Thi Do: http://m.vietnamnet.vn/vn/giao-duc/295314/nguoi-viet-tranh-an-dai-su-quan-vn-cui-dau-xin-loi.html
[4/30/2016 8:52:57 PM] Thuan Thi Do: Kinh Gnyaneshwari (viết là Dhyaneshwari trong lần xuất bản thứ nhứt) không phải là một tác phẩm bằng tiếng Bắc Phạn .Nó được viết bằng tiếng Marathi vào thế kỷ thứ 13 thuộc kỷ nguyên chúng ta.
Ở trang kế đó, chúng ta thấy trường phái Yoyacharya (đúng hơn là Yogachara ) thuộc phái Đại Thừa ( Mahayana ) được đề cập đến. Tôi có nói đến ư đồ của Đức Aryasanga, nhưng chúng ta nên bàn vài lời về điểm thật rắc rối là vấn đề Thừa ( Yanas ), tưởng không vô ích. Giáo Hội Phật Giáo hiện đại chia ra làm hai tông phái là Bắc Tông và Nam Tông. Bắc Tông bao gồm trong các nước Trung Hoa, Nhật Bản và Tây Tạng. Nam Tông thịnh hành ở Tích Lan, Miến Điện, Kampuchia. Phật Giáo Bắc Tông chọn Đại Thừa ( Mahayana ) và Nam Tông theo Tiểu Thừa ( Hinayana ), nhưng muốn xác nhận điều ấy phải hiểu nghĩa của danh từ gây ra nhiều sự tranh luận. Yana ( Thừa ) có nghĩa là cổ xe mà người ta đồng ư rằng đó là nghĩa áp dụng vào Pháp (Dhamma) hay bổn phận hay Luật , như chiếc thuyền chở chúng ta xuyên qua biển đời để đến Niết Bàn (Nirvana). Tuy nhiên có năm lư thuyết liên quan đến nghĩa thật của chữ Yana chúng ta đang xét :
1. Đó là sự thích hợp với thổ ngữ của vùng viết ra bài Pháp (the Law ). Theo giả thuyết th́ Đại Thừa dùng tiếng Bắc Phạn ( Sa­nskrit ), Tiểu Thừa dùng tiếng Nam Phạn ( Pali ). Theo tôi, lư thuyết nầy dường như không đứng vững.
2. Hina dường như có nghĩa là trung b́nh, hoặc dễ dàng hay nhỏ. Vậy người ta có thể xem Hinayana như con đường bậc trung, hoặc dễ dàng hơn để đưa đến giải thoát, có kiến thức tối thiểu và hạnh kiểm tốt cũng đạt được mục đích. Đại Thừa (Mahayana ) là giáo lư toàn diện và có tính cách triết lư hơn, bao gồm thêm nhiều kiến thức liên quan với những loại cao cả trong thiên nhiên. Dĩ nhiên là sự giải thích nầy bắt nguồn từ Đại Thừa.
3. Đạo Phật luôn luôn tôn trong các Tôn giáo khác, xem tất cả như những con đường đưa đến giải thoát, mặc dù nó cho rằng phương pháp do Đấng Giáo Chủ khai sáng là con đường ngắn nhất và vững chắc nhất. Vậy Phật giáo được coi như Đại Thừa ; và Tiểu Thừa gồm có Bà La Môn Giáo
( Brahmanism ), Hỏa Giáo ( Zoroastrianism ), Kỳ Na Giáo ( Jainism ) và tất cả những Tôn giáo khác trong thời đó được định nghĩa theo công thức ấy.
4. Hai lư thuyết chỉ là hai tŕnh độ của một chủ thuyết duy nhất - Tiểu Thừa ( Hi­nayana ) dành cho hạng Shravakas hay Thinh Văn và Đại Thừa
( Mahayana ) dành cho những sinh viên tiến bộ hơn.

5. Không nên hiểu chữ Yana một cách rơ rệt theo nghĩa thứ nhứt là "cổ xe", nhưng nên hiểu theo nghĩa thứ hai gần tương đương với tiếng Anh là chữ “career” (sự nghiệp). Theo sự giải thích nầy, Đại Thừa ( Mahayana ) đề nghị với con người thực hiện "sự nghiệp vĩ đại" và trở nên một vị Bồ Tát ( Bodhisattva ) và hy sinh cho hạnh phúc của thế gian. Trái lại Tiểu Thừa(Hinayana ) chỉ chứng tỏ một "tiểu sự nghiệp" là điều chỉnh đời sống thế nào để đạt đến mục đích của ḿnh tức cơi Niết Bàn (Nirvana ).
[4/30/2016 9:31:05 PM] Thuan Thi Do: GLTVT audio 1; phút 28:58