Họp Thông Thiên Học qua Skype ngày 28 tháng 11 năm 2015

Xin bấm vào đây để download âm thanh

 

[11/28/2015 5:52:27 PM] *** Group call ***
[11/28/2015 5:57:49 PM] Thuan Thi Do: http://thongthienhoc.net/
[11/28/2015 6:00:39 PM] Thuan Thi Do: 2.− Những kẻ trong hàng ngũ của các nhà tiên tri. Những
người này tiếp xúc với Thiên cơ vào những lúc trực giác dâng
137
170 Ảo Cảm, Một Vấn Đề Thế Giới
cao và biết được những ǵ mà tương lai cận kề đang nắm giữ.
Ở đây tôi không đề cập đến các nhà tiên tri Do Thái, rất quen
thuộc với Phương Tây, mà đề cập đến tất cả những ai nh́n
thấu suốt những ǵ cần làm để dẫn dắt nhân loại ra khỏi bóng
tối, đi vào ánh sáng, bắt đầu với t́nh trạng như hiện nay, nh́n
đến một tương lai có sự thành toàn thánh thiện. Những người
này có được một minh họa rơ ràng trong trí về những ǵ có thể
thành tựu được và có khả năng nêu điều đó ra cho con người
cùng thời với ḿnh. Tất nhiên những nhà tiên tri này thuộc
mọi tŕnh độ, từ những kẻ có được nhăn quang tương đối rơ
ràng về h́nh ảnh và các mục đích của vũ trụ, đến những kẻ
chỉ thấy được giai đoạn kế tiếp trước mắt cho nhân loại hoặc
quốc gia. Chỉ có Isaiah và Ezekiel là hai nhà tiên tri Do Thái có
được nhăn quang vũ trụ và có tài tiên tri đúng mà thôi.
Những kẻ khác thấp kém hơn, nhưng là những người sáng
suốt, do phân tích và suy diễn, họ thẩm định được tương lai
trước mắt và nêu ra các điều có thể xảy ra. Họ không mở được
trực giác một cách trực tiếp. Trong Tân Ước, John, một đệ tử
thân thiết, có đặc ân thu nhận được h́nh ảnh vũ trụ và một
nhăn quang tiên tri đúng thực mà Ngài đă diễn tả trong Sách
Khải Huyền (Apocalypse), nhưng Ngài là người duy nhất đă
thành công như thế, và thành công v́ Ngài vô cùng từ bi, bác
ái, rất minh triết và rất uyên bác. Trực giác của Ngài được
khơi hoạt nhờ ḷng bác ái sâu xa và mănh liệt của Ngài – giống
như Sư Phụ của Ngài, là Đức Christ.
3. Những kẻ là các nhà tu hành chân chính. Đây là những
nhà tu hành do tiếng gọi tâm linh chớ không do sự lựa chọn.
Chính việc hiểu sai về quyền hạn và trách nhiệm của nhà tu
hành đă đưa mọi giáo hội (ở Tây Phương và Đông Phương)
138 đến vị thế độc đoán tai hại của họ. Ḷng bác ái của Đấng Tối
Các Nguyên Nhân Của Ảo Cảm 171
Cao và sự thôi thúc tâm linh đích thực giúp nhận biết được
Thượng Đế hiện hữu trong vạn vật và đặc biệt biểu lộ thiên
tính nơi con người, tiếc thay lại thiếu mất trong đa số các nhà
tu hành thuộc mọi tôn giáo trên thế gian. Không có sự dẫn
dắt, chỉ đường và giải thích bằng t́nh thương. V́ vậy chủ
nghĩa giáo điều của nhà thần học, các đảm bảo vô lư và mù
mờ của nhà thần học để giải thích cho phù hợp và sự độc ác
thường thấy của y được che phủ bằng sự đ̣i hỏi các nguyên
tắc công chính và các ư định tốt lành của nhà thần học. Nhưng
trong mọi tôn giáo đều có người tu hành chân chính. Vị này là
bạn và huynh đệ của tất cả mọi người, và v́ có ḷng bác ái
thâm sâu, nên vị ấy cũng có được minh triết và (nếu là mẫu
người thiên về trí tuệ và có luyện tập) trực giác của vị này sẽ
được khơi hoạt và phần thưởng cho ông ta là có được sự thiên
khải (revelation). Hăy suy gẫm về điều này. Người tu hành
chân chính rất hiếm và không phải chỉ có trong cái được gọi là
“đẳng cấp thánh thiện” mà thôi.
[11/28/2015 6:12:38 PM] Thuan Thi Do: 4.− Những người là các nhà thần bí hay nhà huyền linh
học thực tiễn. Nhờ một đời sống biết giữ giới luật, nhờ đạo
tâm nhiệt thành và một thể trí có luyện tập, những người này
đă thành công trong việc khơi hoạt trực giác và do đó, về mặt
cá nhân, họ tiếp nhận được đúng nguồn minh triết thiêng
liêng. Chức năng của họ chính là để diễn dịch và đưa ra
những hệ thống hiểu biết tạm thời. Ngày nay, trên thế giới có
nhiều người như thế, họ đang làm việc một cách nhẫn nại mà
những người thiếu suy xét không thể nhận ra và không biết
t́m kiếm. Ngày nay, họ cần phải “tự tập hợp” vào lúc cần
thiết của thế gian để cho tiếng nói của họ được nghe thấy rơ
ràng. Những người này đang làm tan ḥa ư thức nhị nguyên
thành sự hợp nhất trong hiểu biết. Việc họ mê mải với thực tại
172 Ảo Cảm, Một Vấn Đề Thế Giới
và t́nh thương sâu xa của họ đối với nhân loại đă làm nảy
sinh trực giác. Khi xảy ra việc phát sinh trực giác, người ta
không c̣n bị một bức rào chắn nào nữa, rồi sự hiểu biết đích
thực, do kết quả của minh triết được khai mở, là món quà mà
những người như thế có được, để cống hiến cho nhân loại và
thời đại của họ.
Trên đây là bốn nhóm người đang chuyển đổi ảo tưởng
thành trực giác. Đây là cách dung giải (làm tan ḥa) đầu tiên
trên các cặp đối hợp, v́ không có việc dung giải nào như thế,
mà không có sự trợ giúp của trí tuệ, bởi v́ qua sự phân tích,
sự phân biện và lập luận đúng đắn – trí tuệ cho thấy những ǵ
nên làm.
b. Tương phản giữa ảo cảm với giác ngộ.
Một trong các biểu tượng thích hợp nhất nhờ đó người ta
có thể gom lại một số h́nh ảnh về bản chất của ảo cảm là phác
họa lại cơi cảm dục ở ba trong số các phân cảnh của nó (phân
cảnh hai, ba và bốn đếm từ trên xuống) giống như vùng đất bị
che khuất trong đám sương mù dày với các mật độ khác nhau.
Ánh sáng thông thường của kẻ thường nhân, tương tự như
đèn pha xe hơi có độ sáng vừa đủ cho chúng, chỉ dùng để làm
rơ thêm nỗi khó khăn và không thể đi sâu vào đám sương mù.
Nó chỉ phóng ánh sáng vào để làm nổi rơ độ dày của sương
mù và rồi hiệu quả ngăn chận của sương mù trở nên rơ ràng
thêm. T́nh trạng sương mù lộ rơ ra – nhưng chỉ có thế. Sự việc
cũng giống như thế trên cơi cảm dục có liên quan đến ảo cảm;
ánh sáng vốn có sẵn trong con người, tự gây ra và tự phát
sinh, bao giờ cũng không thể đi sâu vào hay xua tan được cái
tranh tối tranh sáng và t́nh trạng khí độc của sương mù. Ánh
sáng duy nhất có thể xua tan sương mù ảo cảm và đưa sự
139
Các Nguyên Nhân Của Ảo Cảm 173
sống thoát khỏi các hậu quả bệnh hoạn là ánh sáng của linh
hồn, mà – giống như tia sáng thuần khiết có tính tẩy rửa – ánh
sáng này có được tính chất kỳ lạ và độc đáo của sự thiên khải,
của việc làm tiêu tan tức th́ và của sự giác ngộ. Sự thiên khải
được ban xuống đó khác hẳn với sự thiên khải nhờ trực giác v́
đó là sự thiên khải về những ǵ mà ảo cảm che lấp, ẩn giấu,
vốn là sự thiên khải độc đáo cho cơi cảm dục và được chi phối
bằng các định luật của cơi ấy. Việc sử dụng đặc biệt ánh sáng
linh hồn này khoác h́nh thức của sự tập trung ánh sáng (phát
ra từ linh hồn, xuyên qua thể trí) dựa vào t́nh trạng ảo cảm –
riêng biệt hay đặc thù, hay tổng quát và khắp nơi – để cho bản
chất của ảo cảm được khai mở, tính chất và nền tảng của nó
được t́m ra và sức mạnh của nó đi đến chỗ tàn tạ nhờ giai
đoạn định trí lâu dài, bền bĩ vốn được đưa ra để xua tan t́nh
huống đó.
Trong đoạn kế tiếp, chúng ta sẽ bàn kỹ về phương pháp
dùng ánh sáng một cách khoa học này, do đó tôi sẽ không
thảo luận tỉ mỉ chủ đề ở điểm này. Tôi chỉ sẽ bàn những ǵ
giúp cho bạn, với tư cách một nhóm, bắt đầu công việc chờ
đợi từ lâu của bạn về vấn đề xua tan ảo cảm hiện có trên thế
giới – ít nhất ở một số khía cạnh của nó. Tôi không xác định ảo
cảm ở chỗ này hoặc đưa ra cho bạn các trường hợp về sự hoạt
động của nó như tôi đă làm trong trường hợp ảo tưởng và sự
tương đồng trái ngược của nó, tức trực giác, bởi v́ tôi đă đề
cập đến lĩnh vực một cách rất kỹ lưỡng trong tiết kế trước, và
bạn chỉ phải tham khảo tiết đó để hiểu tất cả những ǵ tôi
chuẩn bị đưa ra cho bạn vào lúc này. Tuy nhiên, tôi sẽ định
nghĩa một cách ngắn gọn về sự giác ngộ, yêu cầu bạn ghi nhớ
rằng ở đây chúng ta không bàn đến sự giác ngộ vốn dĩ tiết lộ
Thực Tại hay bản chất của linh hồn hay sự giác ngộ giúp cho
140
174 Ảo Cảm, Một Vấn Đề Thế Giới
cái nh́n của bạn được sáng tỏ về giới linh hồn, mà là bàn đến
h́nh thức giác ngộ vốn do linh hồn đưa xuống vào lănh vực
hoạt động của cơi cảm dục. Sự giác ngộ này bao gồm việc sử
dụng ánh sáng một cách có ư thức, trước tiên, dùng nó như
ngọn đèn pha, quét vào chân trời của cơi cảm dục và xác định
vị trí của ảo cảm đang tạo ra khó khăn, và sau đó dùng nó như
là nơi phân phối ánh sáng có tập trung, với chủ đích rơ rệt,
chuyển lên lănh vực của cơi cảm dục trong đó nó được dự trù
tạo ra một cố gắng nào đó để làm tan biến sương mù đang tập
trung nơi đó.

[11/28/2015 6:26:20 PM] Thuan Thi Do: https://en.wikipedia.org/wiki/Nostradamus#Seer
[11/28/2015 6:33:54 PM] Thuan Thi Do: Do đó, một vài tiền đề căn bản, theo thứ tự có thể được
đưa ra như sau :
1.− Tính chất và đặc điểm chủ yếu của linh hồn là ánh
sáng. Do đó, nếu ánh sáng đó được dùng đến và tính chất đó
được biểu lộ nơi vị đệ tử và hành giả, th́ trước tiên, y phải đạt
được sự tiếp xúc nhận biết với linh hồn nhờ việc tham thiền.
2.− Tính chất của cơi cảm dục, mà đặc tính chính của nó
là ảo cảm. Đó là lănh vực mà nơi đó trận chiến lớn lao của các
cặp đối hợp phải xảy ra v́ trong một trường hợp chúng là
biểu hiện của dục vọng xa xưa – thuộc ảo cảm, có tính phỉnh
lừa và giả dối, c̣n trong trường hợp khác là khát vọng tâm
linh cao cả về những ǵ đích thực và chân chính. Ở đây, cần
nhớ rằng, ham muốn ở cơi cảm dục, xúc cảm sai lầm và ích kỷ
và các phản ứng ở thể cảm dục đối với các sự kiện trong đời
sống hằng ngày, đều không xảy ra tự nhiên đối với linh hồn
và sau rốt tạo ra một t́nh trạng dùng để che giấu một cách
thành công bản chất đích thực của con người tâm linh.
3.− Kế đó một mối liên hệ phải được thiết lập giữa linh
hồn với cơi cảm dục, xuyên qua thể cảm dục của đệ tử. Thể
141
Các Nguyên Nhân Của Ảo Cảm 175
cảm dục này phải được vị đệ tử xem như bộ máy đáp ứng với
thế giới cảm giác và như là vận cụ duy nhất nhờ đó linh hồn
có thể tiếp xúc với phân cảnh biểu hiện đó – tạm thời và
không kéo dài như nó có thể làm. Do đó, vị đệ tử phải lập sự
tiếp xúc với linh hồn và làm điều này một cách có ư thức và
với tầm quan trọng cần có, và như thế đưa ánh sáng linh hồn
vào thể cảm dục của riêng ḿnh, học cách tập trung nó ở đó
trong bí huyệt nhật tùng, và từ mức thành tựu đó, tiếp tục tác
động lên cơi cảm dục và với nhiệm vụ khó khăn là xua tan ảo
cảm.
4.− Khi đường lối tiếp xúc này được tạo ra, và linh hồn,
thể cảm dục và cơi cảm dục đă được liên kết chặt chẽ như thế,
th́ vị đệ tử phải mang ánh sáng có tập trung từ bí huyệt nhật
tùng (nơi mà ánh sáng tạm thời nằm ở  đó) lên bí huyệt tim. Y
phải giữ cho ánh sáng ổn định nơi đó, rồi bền bĩ, kiên nhẫn
làm việc từ bí huyệt cao đó. Ở đây, tôi có thể diễn đạt lại một
giáo huấn cổ xưa cho các đệ tử. Giáo huấn này có trong Văn
Khố của Thánh Đoàn và có đề cập đến tiến tŕnh đặc biệt này.
Tôi đang đưa ra cho bạn một diễn giải ngắn và có phần không
thích hợp về cách diễn tả cổ xưa có tính cách tượng trưng này:
“Vị đệ tử đứng lên, lưng quay về phía sương mù ảo cảm, nh́n
về Phương Đông từ đó ánh sáng tuôn tràn. Đệ tử gom mọi ánh sáng
có được vào tim ḿnh và từ điểm sức mạnh đó giữa hai bă vai, ánh
sáng tràn ra”.
  5.− Vị đệ tử phải từ bỏ hết mọi ư thức về sự khẩn trương
hay căng thẳng và phải học cách làm việc với niềm tin và ḷng
yêu thương trong sạch. Y càng ít cảm nhận (feel) th́ càng ít
bận tâm với các xúc cảm (feelings) hay cảm giác (sense) về sự
thành đạt hay không thành đạt, y càng có khả năng từ bỏ th́
176 Ảo Cảm, Một Vấn Đề Thế Giới
công việc sẽ tiến hành một cách có hiệu quả và ảo cảm dần
dần bị xua đi. Trong công việc này không cần phải vội vàng.
Những ǵ rất lâu đời đều không thể bị xua đi mau chóng cho
dù có ư định tốt đẹp hay hiểu được phương pháp cần thiết
chính xác ra sao đi nữa.
Điều rơ rệt đối với bạn là có các yếu tố nguy hiểm trong
việc này. Trừ phi các thành viên của nhóm rất cảnh giác và trừ
phi họ tập được thói quen quan sát kỹ càng, họ có thể đau đớn
do bí huyệt nhật tùng quá bị kích thích, cho đến khi họ đă chế
ngự được tiến tŕnh chuyển đổi nhanh chóng ánh sáng của
linh hồn, được tập trung ở nhật tùng và ánh sáng nội tại của
thể cảm dục, cũng nằm tại bí huyệt đó, đi vào bí huyệt tim và
nằm giữa hai vai. Do đó, tôi muốn nhắc nhở mỗi một và tất cả
các bạn là hăy tiến hành công việc với sự thận trọng tối đa và
tôi muốn nhắc nhở bạn rằng nếu bạn không thấy có sự xáo
trộn nào ở bí huyệt nhật tùng hay ngẫu nhiên gặp trong chính
bạn bất cứ bất ổn về t́nh cảm nào tăng lên, cũng đừng lo lắng
quá mức. Tôi muốn bạn xem hiện tượng xáo trộn chỉ là một
khó khăn tạm thời, chỉ xảy đến khi bạn t́m cách phụng sự.
Nếu bạn chú tâm vào vấn đề này một cách sáng suốt, không
quan tâm đến ǵ khác nữa, không để cho bị buồn phiền hay bị
lo lắng, th́ sẽ không có hậu quả xấu nào xảy đến.
 Éliphas Lévi c̣n tŕnh bày thêm như sau:
Đại Tác Nhân Pháp Thuật (the great Magic Agent)
là phân thân thứ tư của nguyên sinh khí [theo chúng tôi
đó là phân thân thứ nhất trong nội giới và phân thân thứ
nh́ nơi ngoại giới] c̣n Mặt Trời là dạng thứ ba của
nguyên sinh khí (life principle)… ấy là v́ nhật tinh (daystar)
[Mặt Trời - the Sun] chỉ là phản ánh và h́nh bóng
vật chất của Mặt Trời chân lư Trung Ương (Central Sun
of truth) vốn soi sáng thế giới trí tuệ (vô h́nh) Tinh Thần
và bản thân nó chẳng qua chỉ là ánh sáng chập chờn vay
mượn của TUYỆT ĐỐI (ABSOLUTE) (1).
1 Như trên (Mysteries of Magic), trang 70.
668
GIÁO LƯ BÍ NHIỆM
Đến đây th́ ông vẫn c̣n có lư. Tuy nhiên, khi nhà
Do Thái Bí giáo Tây phương có nhiều thẩm quyền ấy nói
thêm rằng “đó không phải là tinh thần bất tử như các
bậc Đạo Trưởng Ấn Độ thường lầm tưởng, th́ chúng ta
xin đáp rằng ông đă nói xấu các bậc Đạo Trưởng nêu
trên, v́ các vị ấy đâu có quan niệm như vậy, ấy là v́
ngay cả các kinh Puranas ngoại môn cũng cực lực bác bỏ
điều khẳng định này. Chẳng có người Ấn Độ nào đă
từng lầm lẫn Prakriti [Vật Chất] - Tinh Tú Quang ở trên
cảnh giới Vật Chất thấp nhất, Vũ Trụ vật chất - với “Tinh
Thần bất tử”. Vật Chất bao giờ cũng bị gọi là Hăo Huyền
và có số phận là phải bị diệt vong cùng với những thứ
khác, kể cả chư Thần Linh, khi chu kỳ Qui Nguyên đă
tới. V́ người ta đă chứng tỏ là Tiên Thiên Khí chẳng phải
là Dĩ Thái nên chúng ta càng không được lầm tưởng
rằng có thể là Tinh Tú Quang. Những kẻ không thể hiểu
kinh Puranas theo lối “ư tại ngôn ngoại” đôi khi đă lẫn
lộn. Tiên Thiên Khí với Vật Chất, với Dĩ Thái, thậm chí
với cả Bầu tṛi xanh ngắt nữa ! Cũng đúng là những kẻ
cứ luôn luôn dịch từ ngữ Tiên Thiên Khí (Akasha) là “Dĩ
Thái”- chẳng hạn như Wilson – khi thấy bảo “nguyên
nhân vật chất của âm thanh” lại c̣n có thêm tính chất
đơn giản duy nhất này, liền tưởng tượng một cách ngu
dốt rằng nó có tính cách “vật chất” theo ư nghĩa hồng
trần. Cũng đúng là v́ không có một thứ ǵ có tính cách
vật chất (và do đó có tính cách hữu hạn và phù du) mà
lại có thể bất diệt – theo siêu h́nh học và triết học – nên
suy ra rằng Tiên Thiên Khí chẳng vô hạn mà chẳng bất
300
669
Lời b́nh luận về Bảy đoạn Thánh Kinh
diệt. Nhưng tất cả những điều này đều sai lầm, v́ người
ta đă hiểu lầm cả từ ngữ Pradhana (Hồng Mông Nhất
Khí) lẫn Âm Thanh với vai tṛ là một tính chất; từ ngữ
Hồng Mông Nhất Khí chắc chắn là đồng nghĩa với Hỗn
Nguyên Khí (Mulaprakriti) và Tiên Thiên Khí (Akasha),
c̣n Âm Thanh đồng nghĩa với Ngôi Lời (Verbum),
Huyền Âm (Word) tức Thiên Đạo (Logos). Muốn chứng
tỏ điều này th́ cũng dễ thôi, v́ nó đă được nêu ra trong
câu sau đây của kinh Vishnu Puranas (1): “Chẳng có ngày
mà chẳng có đêm, chẳng có trời mà chẳng có đất, chẳng
có ánh sáng mà chẳng có bóng tối, chẳng có bất cứ thứ
nào khác, ngoại trừ Đấng Duy Nhất (One) bất khả tư
nghị hoặc Phạm Thiên (Brahma), Pums [Tinh Thần] và
Pradhana [Hồng Mông Nhất Khí].
 Nay, nếu Hồng Mông Nhất Khí không phải là Hỗn
Nguyên Khí (Cội nguồn của Vạn vật – the Root of All)
dưới một h́nh dạng khác th́ nó là cái ǵ? Ấy là v́ mặc
dù nghe nói Hồng Mông Nhất Khí c̣n hoà nhập vào
Đấng Thánh Linh (Deity) như vạn hữu để ĺa khỏi
NHẤT NGUYÊN (ONE) trong chu kỳ Hỗn Nguyên,
song nó lại được coi là vô hạn và bất diệt. Câu dịch sát
nghĩa như sau: “CÁI ĐÓ là Tinh Thần Phạm Thiên Hồng
Mông Nhất Khí” (“One Pradhanika Brahma Spirit:
THAT was”); nhà b́nh giải chú thích từ ngữ kết hợp này
là một từ ngữ thực thể, chứ không phải là một chuyển
hoá từ được dùng như một thuộc từ, nghĩa là như một
1 Wilson, I, trang 23.
670
GIÁO LƯ BÍ NHIỆM
điều ǵ “có liên hệ với Hồng Mông Nhất Khí” (1). Vả lại
môn sinh phải lưu ư rằng hệ thống Puranas có tính cách
nhị nguyên chứ không hề có tính cách tiến hoá và xét về
phương diện này, chúng ta sẽ thấy nhiều điều hơn nữa
(xét theo một quan điểm nội môn) trong phái Số Luận
(Sankhya), thậm chí trong cả Manava-Dharma-Shastra
(Luật Bàn Cổ) nữa, mặc dù Luật Bàn Cổ khác hẳn phái
Số Luận. V́ thế, ngay cả trong kinh Puranas, Hồng Mông
Nhất Khí cũng là một dạng của Thái Cực Thượng Đế
(Parabrahman) chứ không phải là một cuộc tiến hoá và
phải giống như Hỗn Nguyên Khí của phái Phệ Đàn Đà
(Vedanta). Một học giả Vedanta dạy: “Trong trạng thái
nguyên sơ, Vật Chất chính là Tiên Thiên Khí” (2). Nó hầu
như Vũ Trụ trừu tượng (abstract Nature).
Thế th́ Tiên Thiên Khí (Akasha) chính là Hồng
Mông Nhất Khí dưới một dạng khác và chính nó chẳng
phải là Dĩ Thái, tác nhân vô h́nh mà cả vật lư học cũng
phải ao ước, qụy lụy (court). Nó cũng không phải Tinh
Tú Quang. Như chúng ta đă nói, nó là bản thể của Vật
Chất biến phân bảy lần (3) – “Bà Mẹ” hằng trinh nguyên
của “Đứa Con” không có cha, nó biến thành “Cha” trên
cơi biểu lộ thấp. Ấy là v́ Toàn Linh Trí là sản phẩm đầu
1 Như trên, trang 24.
2 Năm năm của Theosophy, trang 169, ấn bản 1885.
3 Trong triết hệ Số Luận, bảy Prakritis (tức “sản phẩm tạo tác”) là
Toàn Linh Trí (Mahat), Ngă Thức (Ahamkara) và năm Thức biến
(Tanmatras). Xem Sankhya Karika III và Giảng Lư.
301
671
Lời b́nh luận về Bảy đoạn Thánh Kinh
tiên của Hồng Mông Nhất Khí, tức Tiên Thiên Khí, và
Mahat – Toàn Linh Trí, “có đặc tính là Bồ Đề”- chẳng có
ǵ khác hơn là Thiên Đạo (Logos), v́ Ngài được tôn xưng
là Huyền Thiên Thượng Đế (Ishvara), Brahma, Bhava
v..v…(1) Tóm lại, Ngài là “Đấng Sáng Tạo” hay Thiên Trí
(Divine Mind) đang hoạt động sáng tạo, “Nguyên nhân
của vạn vật”. Ngài là “Đấng Bản Lai” (“First Born”) mà
kinh Puranas đă cho rằng “Đất là Toàn Linh Trí là các nội
biên và ngoại biên của vũ trụ”, hoặc theo lối nói của
chúng ta, cực âm và cực dương của Vũ Trụ lưỡng phân
(trừu tượng và cụ thể) v́ kinh Purana có thêm rằng:
Như thế, - nghĩa là bảy dạng [nguyên khí] Vật Chất
tính từ Toàn Linh Trí xuống tới Thổ (Earth)- vào lúc tan
hoà nguyên tố (pratyahara); bảy dạng này lần lượt tái
thâm nhập vào nhau. Thiên Noăn (Sarvamandala) bị tiêu
tan cùng với bảy châu (dvipa) bảy đại dương, bảy vùng
v..v…(2)
 ---------------

 1 Xem Linga Purana, Tiết trước, lxx, 12 và tiếp theo và Vayu
Purana, chương iv, nhưng đặc biệt là Purana, Tiết trước, viii, 67 –
74.
2 Vishnu Purana, quyển v, tập vi, chương iv, trang 199. Chẳng cần
bảo người Ấn Độ - v́ họ thuộc ḷng kinh Puranas của họ - nhưng
nên nhắc các nhà Đông phương học và những người Tây phương
(vốn coi bản dịch của Witson là có thẩm quyền) rằng trong bản dịch
Anh ngữ của kinh Vishnu Purana, Wilson đă mắc phải những điều
sai lầm và những mâu thuẫn tức cười nhất. Cũng vậy, hai bản
tường thuật về cùng một đề tài “Bảy Prakritis”, tức bảy vùng của
Thiên Noăn (Brahman’s Egg) khác hẳn nhau. Trong quyển I, trang
[11/28/2015 7:29:46 PM] Thuan Thi Do: 1 Xem Linga Purana, Tiết trước, lxx, 12 và tiếp theo và Vayu
Purana, chương iv, nhưng đặc biệt là Purana, Tiết trước, viii, 67 –
74.
2 Vishnu Purana, quyển v, tập vi, chương iv, trang 199. Chẳng cần
bảo người Ấn Độ - v́ họ thuộc ḷng kinh Puranas của họ - nhưng
nên nhắc các nhà Đông phương học và những người Tây phương
(vốn coi bản dịch của Witson là có thẩm quyền) rằng trong bản dịch
Anh ngữ của kinh Vishnu Purana, Wilson đă mắc phải những điều
sai lầm và những mâu thuẫn tức cười nhất. Cũng vậy, hai bản
tường thuật về cùng một đề tài “Bảy Prakritis”, tức bảy vùng của
Thiên Noăn (Brahman’s Egg) khác hẳn nhau. Trong quyển I, trang
40, người ta bảo rằng Thiên Noăn có bảy lớp vỏ bao bọc bên ngoài.
Wilson chú giải: các lớp vỏ bằng Thuỷ, Phong, Hoả, Dĩ Thái và
Ngă Thức (Ahamkara) – trong kinh điển tiếng Bắc Phạn, không hề
có từ ngữ Ngă Thức. Và trong quyển v, tập vi, chương iv, trang
198 của kinh Vishnu Purana, ông lại viết: “Thế là bảy dạng vật
chất tính từ Toàn Linh Trí xuống tới Địa” (?) Toàn Linh Trí tức
Đại Bồ Đề (Mahat-Buddhi) và “Nước v.v…” hẳn là phải khác
nhau đáng kể.
1 Cũng theo siêu h́nh gia lỗi lạc Hégel. Đối với ông, Thiên Nhiên
biến dịch không ngừng. Thật là một quan niệm nội môn thuần tuư.
Người ta hoàn toàn khổng thể quan niệm được sự Sáng tạo hay
Nguồn gốc theo nghĩa Thiên Chúa giáo. Tư tưởng gia vừa nêu trên
đă cho rằng: “Thượng Đế (Tinh Thần Vũ Trụ) biểu lộ ra ngoại
cảnh thành Thiên Nhiên và lại xuất lộ từ đó
 Các nhà Huyền bí hẳn cũng có nhiều lư do khi
không chịu gọi Tiên Thiên Khí là Tinh Tú Quang hay Dĩ
Thái. Câu “Nhà Cha ta có nhiều căn” có thể mâu thuẫn
với câu châm ngôn huyền bí “Nhà Mẹ ta có bảy căn” tức
bảy cơi, cơi thấp nhất ở bên trên và xung quanh ta, đó là
Tinh Tú Quang (the Astral Light).
Những Nguyên Tố, dù đơn thuần hay phối hợp,
không thể giữ măi trong trạng thái giống y như trước kể
từ lúc bắt đầu cuộc tiến hoá của Dăy Hành Tinh hiện tại.
Vạn vật trong Vũ Trụ đều tuần tự tiến hoá trong Đại
Chu Kỳ, trong khi chúng vẫn không ngừng tiến hoá theo
nhịp độ khi thăng khi giáng trong những Chu Kỳ nhỏ
hơn. Thiên Nhiên không bao giờ ngưng đọng một chỗ
trong một Chu Kỳ Khai Nguyên (Manvantara), nó luôn
luôn tiến hoá trường kỳ bất tận (1). Sự sống của khoáng
 thạch, cây cỏ, loài người cũng luôn luôn làm cho cơ thể
chúng thích ứng với những Nguyên Tố đương thời, và
bởi vậy, các Nguyên Tố của những thời kỳ trước được
thích ứng với các loài trong thời kỳ đó, cũng như chúng
đang thích ứng với đời sống nhân loại trong thời kỳ hiện
tại. Trong cuộc tuần hoàn tới là cuộc Tuần Hoàn thứ
Năm, một Nguyên Tố thứ Năm là chất Dĩ Thái (Ether),
tức là cái thể nặng trược của Akasha, sẽ xuất hiện và trở
nên một sự kiện thông thường trong Thiên Nhiên cũng
như Không Khí của chúng ta bây giờ. Chừng đó, nó sẽ
không c̣n là một giả thuyết mơ hồ như ngày nay nữa,
mà sẽ là một khí cụ có tác dụng hữu hiệu trong nhiều
lănh vực. Và cũng trong Cuộc Tuần Hoàn tới đây, những
khả năng siêu đẳng của con người có thể nảy nở và phát
triển hoàn toàn để thích ứng với tác động của Akasha
trong cơi thiên nhiên. Như đă nói ở trên, một đặc tính
thứ sáu của vật chất là đặc tính Thấm nhập
(Permeability) cũng sẽ xuất hiện đồng loạt với sự phát
triển giác quan thứ sáu và con người cũng sẽ một phần
nào quen thuộc với đặc tính mới ấy vào một giai đoạn
thích nghi trong Cuộc Tuần Hoàn thứ Năm tới đây.
Nhưng khi một Nguyên Tố mới xuất hiện trong cuộc
Tuần Hoàn thứ Năm th́ đặc tính Thấm nhập của vật chất
sẽ trở nên rơ rệt đến nỗi những h́nh thức vật chất nặng
  trược nhất sẽ hiện ra dưới nhăn quan con người như
đám sưong mù dày đặc thế thôi chứ không có ǵ hơn.
Bây giờ, chúng ta hăy quay về Chu Kỳ Sinh Hoạt
(Life-Cycle). Không nói dài ḍng về SỰ SỐNG trên các
Cơi cao (the Higher LIVES), chúng ta chỉ tạm thời chú ư
đến Địa Cầu và các sinh vật sống trên đó. Chúng tôi
được biết rằng trong Cuộc Tuần Hoàn thứ Nhất, Địa Cầu
được cấu tạo bởi những “Hoả Tinh Quân” (“Devourers”)
những vị này làm tiêu huỷ và phân hoá những mầm
mống khác trong các Nguyên Tố ngũ hành. Đại khái
cũng giống như trong giai đoạn tiến hoá hiện tại, những
loại vi khuẩn làm rời rạc, tan ră cơ cấu hoá chất trong
một cơ thể sinh vật, làm biến đổi thể chất động vật và
tạo ra những chất với những thành phần khác nhau.
Như vậy, Huyền bí học đă dẹp tan được cái gọi là Thời
Đại Vô Sinh (Azoic Age) của khoa học, v́ nó đă chứng tỏ
rằng trên Địa Cầu chẳng có lúc nào mà lại không có sự
sống. Bất cứ chỗ nào có một phân tử hay nguyên tử vật
chất, dù trong trạng thái khinh thanh của chất hơi, là có
sự sống trên đó, tuy rằng c̣n tiềm ẩn và vô thức.
  Vật Chất là sự phân hoá đầu tiên của Tinh Thần. Cái không
phải là Tinh Thần hay Vật Chất, chính là CÁI ẤY (IT) – cái
NGUYÊN NHÂN Vô nguyên nhân (the Causeless CAUSE)
của Tinh Thần và Vật Chất, là Nguyên nhân của Vũ Trụ. Và
CÁI ẤY (THAT), chúng ta gọi là SỰ SỐNG DUY NHẤT
(ONE LIFE) hay luồng Khí Vận Nội Tại của Vũ Trụ (the
Intra-Cosmic Breath) (1).
Một lần nữa, chúng ta nói vạn vật đồng nhất lư và
cũng đồng nhất tính (like must produce like). Sự Sống Tuyệt
Đối không thể tạo ra một nguyên tử vô cơ phận
(inorganic atom), dù đơn thuần hay phức tạp và thậm
chí trong “Trung hoà điểm” (Laya) cũng có sự sống,
cũng như một người trong trạng thái hôn mê, bề ngoài
coi như xác chết, nhưng vẫn là một người sống.
Khi những “Kẻ Huỷ Diệt” (“Devourers”) - nếu
muốn (v́ các nhà Huyền bí không hề phản đối điều
này), các khoa học gia, cứ tự tiện xem xét thấy các
nguyên tử Sương Lửa (Fire-Mist) nơi các kẻ “huỷ diệt”
này với một lư do nào đó – đă phân hoá những “Nguyên
Tử Lửa” (Fire Atoms”) bằng một phương pháp phân tích
lạ lùng, những nguyên tử này trở thành những Mầm
Sống (Life-Germs) kết hợp với nhau theo định luật hấp
dẫn và tương cầu (the laws of cohesion and affinity). Kế
đó, các Mầm Sống (Life Germs) tạo ra những Sinh Vật
  thuộc một loại khác, loại này góp sức vào việc cấu tạo
nên các Bầu Thế Giới.
Như vậy, trong Cuộc Tuần Hoàn thứ Nhất, Địa Cầu
được tạo tác bởi các Hoả Tinh Quân sơ khai (the
primitive Fire-Lives) chỉ mới h́nh thành như một bầu
tṛn, hăy c̣n lỏng sệt chưa đông đặc, không có tính chất,
h́nh dáng hay màu sắc ngoài tính chất chói sáng và
lạnh. Chỉ vào cuối Cuộc Tuần Hoàn thứ Nhất, nó mới
phát triển thành một Nguyên Tố lửa trong cuộc tuần
hoàn hiện tại và phổ cập khắp nơi trong toàn Thái
Dương Hệ. Trái Đất có h́nh tướng đầu tiên (first Rupa)
với bản thể là Nguyên Khí Tiên Thiên Khí được mệnh
danh là ***. Đó chính là cái nay được biết và được gọi
một cách rất sai lầm là Tinh Tú Quang, mà Éliphas Lévi
gọi là “Trí Tưởng Tượng của Thiên Nhiên”
(“Imagination of Nature”). Có lẽ để tránh việc tŕnh bày
danh hiệu chính xác của nó như những người khác
thường làm.
Trong Lời tựa của quyển Lịch Sử Pháp Thuật, khi đề
cập đến nó, Éliphas Lévi đă cho rằng :
Mọi trung khu thần kinh liên giao với nhau một
cách bí mật thông qua Thần Lực này, thiện cảm và ác
cảm nảy sinh từ nó, các giấc mơ của ta cũng bắt nguồn
từ nó, hiện tượng linh thị siêu nhiên cũng phát nguyên
từ nó… Khi tác dụng dưới ảnh hưởng của các ư chí
mạnh mẽ, Tinh Tú Quang huỷ hoại, đông đặc
(coagulate), tách rời, phá vỡ và tụ tập vạn vật lại…
677
Lời b́nh luận về Bảy đoạn Thánh Kinh
Thượng Đế đă tạo ra nó khi Ngài phán: “Hăy có lấy ánh
sáng” (“Fiat Lux”)!... Nó được điều khiển bởi các Đấng
Egregores, nghĩa là kẻ đứng đầu của các linh hồn vốn là
các chơn linh của năng lượng và tác động” (1).
  Éliphas Lévi nên nói thêm rằng Tinh Tú Quang, tức
Chất Liệu Nguyên Thuỷ (Primordial Substance), (nếu cái
gọi là ánh sáng, Lux, giải thích theo bí giáo, là thể của
chính các Chơn Linh ấy và chính là bản thể của họ. Ánh sáng
vật chất là biểu lộ trên cơi hồng trần và là phản ánh của
Linh Quang (the Divine Light) xạ ra từ thể tập hợp của
các Đấng được gọi là “CÁC ÁNH SÁNG” (“LIGHTS”)
và “CÁC NGỌN LỬA” (“FLAMES”). Nhưng Éliphas
Lévi hơn hẳn bất cứ nhà Do Thái Bí giáo nào khác về cái
tài chồng chất mâu thuẫn này lên mâu thuẫn kia, tŕnh
bày hết nghịch lư này đến nghịch lư khác trong cùng một
câu văn lưu loát. Ông đă dẫn dắt độc giả của ḿnh đi
xuyên qua những thung lũng yêu kiều với muôn cánh
hoa tươi thắm, để rồi sau đó lạc bước tới sa mạc khô cằn
và một ḥn đảo lởm chởm những đá.
Giảng lư dạy:
Bảy Đại Lượng rời rạc [Nguyên Tố] mà sự Chuyển
Động (Motion) và sự Kết Hợp hài hoà (harmonious Union)
tạo ra Vũ Trụ Vật Chất biểu lộ, đă được sinh ra xuyên qua và
từ bức xạ của bảy Thể (the seven Bodies) của Bảy Đẳng Cấp
Tinh Quân (the Seven Orders of Dhyanis).
1 Trang 19.
678
GIÁO LƯ BÍ NHIỆM
Cuộc Tuần Hoàn thứ Hai làm biểu lộ Nguyên Tố
thứ hai, tức KHÔNG KHÍ (AIR), là nguyên tố mà sự
thuần khiết bảo đảm sự sống liên tục cho người sử dụng
nó. Ở Âu Châu, chỉ có hai nhà Huyền bí đă khám phá ra
nó và thậm chí phần nào áp dụng nó vào thực hành, mặc
dù các Điểm Đạo đồ Đông phương cao cấp nhất đều
luôn luôn biết rơ thành phần cấu tạo của nó. Khí Ozone
của hoá học hiện đại chỉ là chất độc so với Dung Môi Vũ
Trụ (Universal Solvent) thực sự, nó thật là bất khả tư
nghị trừ phi tồn tại trong Thiên Nhiên.
Từ Cuộc Tuần Hoàn thứ Hai trở đi, quả Địa Cầu từ
trước vẫn là một bào thai kết tụ trong ḷng của Không Gian,
mới bắt đầu cuộc sống thực của nó, đó là sự phát triển Sự
Sống hữu thức cá biệt là cái Khí Thể thứ nh́ của nó. Khí thể
thứ hai tương hợp với khí thể thứ sáu và cái thứ nh́ là Sự
Sống liên tục, cái kia là Sự Sống tạm thời.
Cuộc Tuần Hoàn thứ Ba phát triển Nguyên Tố thứ
ba (third Priciple) là NƯỚC: trong khi Cuộc Tuần Hoàn
thứ Tư biến đổi những chất lỏng bốc hơi và h́nh thể
mềm dẻo của Trái Đất thành một Bầu vật chất đông đặc,
cứng rắn như địa cầu ngày nay. Trái Đất đă đạt tới
Nguyên Khí thứ tư của nó, và sẽ đạt tới cái chân tướng
rốt ráo cùng tột của nó, tức cái vô cùng đông đặc, vào
cuối Cuộc Tuần Hoàn thứ Bảy là lúc chấm dứt Chu Kỳ
Sáng Tạo (Manvantara). Về vấn đề này, người ta có thể
phản đối là luật tương đồng (law of analogy) vốn đă
được nhấn mạnh biết bao, đă bị vi phạm. Tuyệt nhiên
304
679
Lời b́nh luận về Bảy đoạn Thánh Kinh
không phải như thế đâu. Eugenius Philalethes thật là chí
lư khi “lấy danh dự” mà bảo đảm với quí độc giả rằng
chưa có ai đă từng thấy được “Trái Đất”, nghĩa là VẬT
CHẤT dưới dạng bản thể. Đến nay Trái Đất vẫn c̣n ở
trong trạng thái cảm dục (Kamarupic state) - Thể Vía
(Astral Body) với các Dục Vọng của Ngă Thức u mê, sản
phẩm của Toàn Linh Trí trên hạ giới.
[11/28/2015 8:09:20 PM] Thuan Thi Do: for it is shown in the following sentences in Vishnu Purana: “In the beginning there was neither day nor night, nor sky, nor earth, nor darkness, nor light. . . . . Save only One, unapprehensible by intellect, or that which is Brahma and Pums (Spirit) and Pradhana (primordial matter).” . . . . (Book I., ch. ii.).

Now, what is Pradhana, if it is not Mulaprakriti, the root of all, in another aspect? For Pradhana, though said further on to merge into the Deity as everything else does, in order to leave the one absolute during the Pralaya, yet is held as infinite and immortal. The Commentator describes the Deity as: “One Pradhanika Brahma Spirit: that, was,” and interprets the compound term as a substantive, not as a derivative word used attributively, i.e., like something conjoined with Pradhana.* Hence Pradhana even in the Puranas is an aspect of Parabrahmam, not an evolution, and must be the same as the Vedantic Mulaprakriti. “Prakriti in its primary state is Akasa,” says a Vedantin scholar (see “Five Years of Theosophy,” p. 169). It is almost abstract Nature.

Akasa, then, is Pradhana in another form, and as such cannot be Ether, the ever-invisible agent, courted even by physical Science. Nor is it Astral Light. It is, as said, the noumenon of the seven-fold differentiated Prakriti† — the ever immaculate “Mother” of the fatherless Son, who becomes “Father” on the lower manifested plane. For Mahat is the first product of Pradhana, or Akasa, and Mahat — Universal intelligence “whose characteristic property is Buddhi” — is no other than the Logos, for he is called “Eswara” Brahma, Bhava, etc. (See Linga Purana, sec. lxx. 12 et seq.; and Vayu Purana, but especially the former Purana — prior, section viii., 67-74). He is, in short, the “Creator” or the divine mind in creative operation, “the cause of all things.” He is

Footnote(s) ———————————————
* The student has to note, moreover, that the Purana is a dualistic system, not evolutionary, and that, in this respect, far more will be found, from an esoteric standpoint, in Sankhya, and even in the Manava-dharma-Sastra, however much the latter differs from the former.

† In the Sankhya philosophy, the seven Prakritis or “productive productions” are Mahat, Ahamkara, and the five tanmatras. See “Sankhya-karika,” III., and the Commentary thereon.

Vol. 1, Page 257 AKASA IS NOT ETHER.
the “first-born” of whom the Puranas tell us that “Mahat and matter are the inner and outer boundaries of the Universe,” or, in our language, the negative and the positive poles of dual nature (abstract and concrete), for the Purana adds: “In this manner — as were the seven forms (principles) of Prakriti reckoned from Mahat to Earth — so at the time of pralaya (pratyahara) these seven successively re-enter into each other. The egg of Brahma (Sarva-mandala) is dissolved with its seven zones (dwipa), seven oceans, seven regions, etc.” (Vishnu Purana, Book vi., ch. iv.)*

These are the reasons why the Occultists refuse to give the name of Astral Light to Akasa, or to call it Ether. “In my Father’s house are many mansions,” may be contrasted with the occult saying, “In our Mother’s house there are seven mansions,” or planes, the lowest of which is above and around us — the Astral Light.

The elements, whether simple or compound, could not have remained the same since the commencement of the evolution of our chain. Everything in the Universe progresses steadily in the Great Cycle, while incessantly going up and down in the smaller cycles. Nature is never stationary during manvantara, as it is ever becoming,† not simply being; and mineral, vegetable, and human life are always adapting their organisms to the then reigning Elements, and therefore those Elements were then fitted for them, as they are now for the life of present humanity. It will only be in the next, or fifth, Round that the fifth Element, Ether — the gross body of Akasa, if it can be called even that —

Footnote(s) ———————————————
* No use to say so to the Hindus, who know their Puranas by heart, but very useful to remind our Orientalists and those Westerns who regard Wilson’s translations as authoritative, that in his English translation of the Vishnu Purana he is guilty of the most ludicrous contradictions and errors. So on this identical subject of the seven Prakritis or the seven zones of Brahma’s egg, the two accounts differ totally. In Vol. 1, page 40, the egg is said to be externally invested by seven envelopes — Wilson comments: “by Water, Air, Fire, Ether, and Ahamkara” (which last word does not exist in the Sanskrit texts); and in vol. v., p. 198, of the same Vishnu Purana it is written, “in this manner were the seven forms of nature (Prakriti) reckoned from Mahat to Earth” (?). Between Mahat or Maha-Buddhi and “Water, etc.,” the difference is very considerable.
[11/28/2015 8:10:03 PM] Thuan Thi Do: will, by becoming a familiar fact of Nature to all men, as air is familiar to us now, cease to be as at present hypothetical, and also an “agent” for so many things. And only during that Round will those higher senses, the growth and development of which Akasa subserves, be susceptible of a complete expansion. As already indicated, a partial familiarity with the characteristic of matter — permeability — which should be developed concurrently with the sixth sense, may be expected to develop at the proper period in this Round. But with the next element added to our resources in the next Round, permeability will become so manifest a characteristic of matter, that the densest forms of this will seem to man’s perceptions as obstructive to him as a thick fog, and no more.

Let us return to the life-cycle now. Without entering at length upon the description given of the higher lives, we must direct our attention at present simply to the earthly beings and the earth itself. The latter, we are told, is built up for the first Round by the “Devourers” which disintegrate and differentiate the germs of other lives in the Elements; pretty much, it must be supposed, as in the present stage of the world, the aerobes do, when, undermining and loosening the chemical structure in an organism, they transform animal matter and generate substances that vary in their constitutions. Thus Occultism disposes of the so-called Azoic age of Science, for it shows that there never was a time when the Earth was without life upon it. Wherever there is an atom of matter, a particle or a molecule, even in its most gaseous condition, there is life in it, however latent and unconscious. “Whatsoever quits the Laya State, becomes active life; it is drawn into the vortex of MOTION the alchemical solvent of Life); Spirit and Matter are the two States of the ONE, which is neither Spirit nor Matter, both being the absolute life, latent.” (Book of Dzyan, Comm. III., par. 18). . . . “Spirit is the first differentiation of (and in) SPACE; and Matter the first differentiation of Spirit. That, which is neither Spirit nor matter — that is IT — the Causeless CAUSE of Spirit and Matter, which are the Cause of Kosmos. And THAT we call the ONE LIFE or the Intra-Cosmic Breath.”

Once more we will say — like must produce like. Absolute Life cannot produce an inorganic atom whether single or complex, and there is life

Vol. 1, Page 259 ATOMS ARE INVISIBLE LIVES.
even in laya just as a man in a profound cataleptic state — to all appearance a corpse — is still a living being.

When the “Devourers” (in whom the men of science are invited to see, with some show of reason, atoms of the Fire-Mist, if they will, as the Occultist will offer no objection to this); when the “Devourers,” we say, have differentiated “the fire-atoms” by a peculiar process of segmentation, the latter become life-germs, which aggregate according to the laws of cohesion and affinity. Then the life-germs produce lives of another kind, which work on the structure of our globes.

Thus, in the first Round, the globe, having been built by the primitive fire-lives, i.e., formed into a sphere — had no solidity, nor qualifications, save a cold brightness, nor form nor colour; it is only towards the end of the First Round that it developed one Element which from its inorganic, so to say, or simple Essence became now in our Round the fire we know throughout the system. The Earth was in her first rupa, the essence of which is the Akasic principle named “that which is now known as, and very erroneously termed, Astral Light, which Eliphas Levi calls “the imagination of Nature,” probably to avoid giving it its correct name, as others do.
[11/28/2015 8:11:18 PM] Thuan Thi Do: The Second Round brings into manifestation the second element air, that element, the purity of which would ensure continuous life to him who would use it. There have been two occultists only in Europe who have discovered and even partially applied it in practice, though its composition has always been known among the highest Eastern Initiates. The ozone of the modern chemists is poison compared with the real universal solvent which could never be thought of unless it existed in nature. “From the second Round, Earth — hitherto a foetus in the matrix of Space — began its real existence: it had developed individual sentient life, its second principle. The second corresponds to the sixth (principle); the second is life continuous, the other, temporary.”

The Third Round developed the third Principle — Water; while the Fourth transformed the gaseous fluids and plastic form of our globe into the hard, crusted, grossly material sphere we are living on. “Bhumi” has reached her fourth principle. To this it may be objected that the law of analogy, so much insisted upon, is broken. Not at all. Earth will reach her true ultimate form — (inversely in this to man) — her body shell — only toward the end of the manvantara after the Seventh Round. Eugenius Philalethes was right when he assured his readers on his word of honour that no one had yet seen the Earth (i.e., Matter in its essential form). Our globe is, so far, in its Kamarupic state — the astral body of desires of Ahamkara, dark Egotism, the progeny of Mahat, on the lower plane. . . .

It is not molecularly constituted matter — least of all the human body (sthulasarira) — that is the grossest of all our “principles,” but verily the middle principle, the real animal centre; whereas our body is but its shell, the irresponsible factor and medium through which the beast in us acts all its life. Every intellectual theosophist will understand my real meaning. Thus the idea that the human tabernacle is built by countless lives, just in the same way as the rocky crust of our Earth was, has nothing repulsive in it for the true mystic. Nor can Science oppose the occult teaching, for it is not because the microscope will ever fail to detect the ultimate living atom or life, that it can reject the doctrine.

(c) Science teaches us that the living as well as the dead organism of both man and animal are swarming with bacteria of a hundred various

Vol. 1, Page 261 THE OCCULT CHEMISTRY.
kinds; that from without we are threatened with the invasion of microbes with every breath we draw, and from within by leucomaines, aerobes, anaerobes, and what not. But Science never yet went so far as to assert with the occult doctrine that our bodies, as well as those of animals, plants, and stones, are themselves altogether built up of such beings; which, except larger species, no microscope can detect. So far, as regards the purely animal and material portion of man, Science is on its way to discoveries that will go far towards corroborating this theory. Chemistry and physiology are the two great magicians of the future, who are destined to open the eyes of mankind to the great physical truths. With every day, the identity between the animal and physical man, between the plant and man, and even between the reptile and its nest, the rock, and man — is more and more clearly shown. The physical and chemical constituents of all being found to be identical, chemical science may well say that there is no difference between the matter which composes the ox and that which forms man. But the Occult doctrine is far more explicit. It says: — Not only the chemical compounds are the same, but the same infinitesimal invisible lives compose the atoms of the bodies of the mountain and the daisy, of man and the ant, of the elephant, and of the tree which shelters him from the sun. Each particle — whether you call it organic or inorganic — is a life. Every atom and molecule in the Universe is both life-giving and death-giving to that form, inasmuch as it builds by aggregation universes and the ephemeral vehicles ready to receive the transmigrating soul, and as eternally destroys and changes the forms and expels those souls from their temporary abodes. It creates and kills; it is self-generating and self-destroying; it brings into being, and annihilates, that mystery of mysteries — the living body of man, animal, or plant, every second in time and space; and it generates equally life and death, beauty and ugliness, good and bad, and even the agreeable and disagreeable, the beneficent and maleficent sensations. It is that mysterious Life, represented collectively by countless myriads of lives, that follows in its own sporadic way, the hitherto incomprehensible law of Atavism; that copies family resemblances as well as those it finds impressed in the aura of the generators of every future human being, a mystery, in short, that will receive fuller attention elsewhere. For the present, one instance may be cited in illustration. Modern science begins to find out that ptomaine (the alkaloid poison generated by decaying matter and corpses — a life also) extracted
[11/28/2015 8:20:38 PM] Thuan Thi Do: Phạm Thiên (Brahma), Pums [Tinh Thần] và
Pradhana [Hồng Mông Nhất Khí].
[11/28/2015 8:36:09 PM] Thuan Thi Do: http://thongthienhoc.net/rounds/rounds%20002.jpg
[11/28/2015 9:01:29 PM] Thuan Thi Do: http://thongthienhoc.net/rounds/
[11/28/2015 10:03:45 PM] *** Call ended, duration 288965:52:22 ***