Họp Thông Thiên Học qua Skype ngày 28 tháng 5 năm 2016

[6:06:18 PM] *** Group call ***
[6:09:37 PM] Thuan Thi Do:
A.B.- Rất khó cho con người thoát hẳn sự dị đoan và không c̣n lấy sự phụ thuộc làm điều chánh yếu nữa (như thế cũng sự dị đoan). Trước khi được Điểm Đạo Lần thứ Nhứt, con người chưa ắt bỏ được hẳn Thói Dị Đoan. Điều này chứng tỏ rằng Sự Dị Đoan là một ư kiến sâu xa và tế nhị đă thấm nhuần trọn vẹn bản tính con người. Đức Thầy nói: “Ai để cho Thói Dị Đoan chi phối không thể tiến hóa được.” Lời tuyên bố rất rơ ràng, nhưng chúng ta hăy lưu ư đến chữ “chi phối.” Đức Thầy không nói một người tin Dị Đoan ít hoặc nhiều không thể tiến hóa được, mà Ngài nói kẻ nào bị Sự Dị Đoan chi phối mới không thể tiến hóa. Không có chi kéo con người lại đàng sau như Thói Dị Đoan. Chúng ta biết có lắm người tử tế, mộ đạo, nhân từ, sống một cuộc đời gương mẫu cho sự tốt lành và đúng đắn, thận trọng nhưng họ lại là những người Mê Tín. Họ chỉ cho những lễ bái, những nghi thức cùng cách hành động của họ là quan trọng, trong khi tất cả các thứ này không có ǵ là thiết yếu cả.

Ta hăy lấy việc làm nhằm trợ giúp những người quá văng làm thí dụ. Những người Công Giáo La Mă làm Lễ Cầu Hồn; cũng ư nghĩa đó, người Ấn Độ lại làm Lễ Shradda; mục đích của cả hai là muốn giúp người quá văng. Hai cách Hành Lễ đều công hiệu dù dưới h́nh thức rất khác nhau. Tuy nhiên, người Ấn Độ cũng như người Công Giáo, nếu bị lệ thuộc những h́nh thức này họ sẽ là người Mê Tín Dị Đoan. Ư muốn tốt đẹp và sự trang nghiêm cùng ḷng thương mến người quá văng mà cả hai đă biểu lộ trong Cuộc Hành Lễ, đó là điều qui định cái kết quả. Ư muốn tốt đẹp là căn bản, nhưng tính cách đặc biệt của h́nh thức bên ngoài là điều phụ thuộc, h́nh thức phản ảnh ư muốn bên trong có tính cách địa phương và không quan hệ ǵ. H́nh thức bên ngoài tùy thuộc Sinh Quán của bạn, bởi v́ bạn sinh vào một Tôn Giáo nào, một Chủng Tộc nào hay một nơi đặc biệt nào đó. Bạn phải thoát ra khỏi tất cả những Sự Mê Tín trong các Nghi Thức, trong các việc Lễ Bái, cũng như trong sự công hiệu của những h́nh thức thuần túy bên ngoài. Trong một thời gian rất lâu, sự tín ngưỡng đó đă tỏ ra rất quan trọng và có ích lợi thiết thực. Chỉ có nó mới diệt trừ được sự uể oải, tính cẩu thả và lănh đạm ở con người thôi. Những h́nh thức bên ngoài này chỉ là những chiếc nạng cần thiết cho những người c̣n chưa bước đi một ḿnh được. Khi bạn có thể không cần những nạng này nữa, bạn hăy dẹp chúng nó qua một bên.

Do đó con chớ nên vịn vào một tư tưởng nào đó chỉ v́ có nhiều người khác đă vịn vào nó, cũng đừng v́ thiên hạ đă tin nó hàng mấy thế kỷ rồi, hoặc v́ nó đă được ghi trong một quyển sách nào đó mà người đời cho là Thánh Kinh. Con phải tự ḿnh suy tưởng sự việc và tự ḿnh phán đoán xem nó có hợp lư không.

C.W.L.- Những lời này của Đức Thầy Kuthumi. Cách đây hai ngàn năm trăm năm chúng nó vốn là lời của Đức Phật Cồ Đàm, khi người ta hỏi Ngài: “Bạch Phật, có biết bao nhiêu Vị Giáo Chủ, biết bao Giáo Lư đă tŕnh bày cho chúng tôi! Tất cả dường như tốt đẹp hết, làm sao biết được cái nào hay nhất? Làm sao chọn lựa?” Kinh Kalama Sutta of the Anguttara Nikaya có chép câu trả lời của Phật như sau:

Đức Phật nói: “Không nên tin một điều nào chỉ v́ nó được xác nhận suông. Đừng tin những Tập Tục, v́ lẽ chúng nó từ ngàn xưa truyền lại cho chúng ta, đừng tin những lời đồn đăi, đừng tin sách vở của các vị Thánh Hiền bởi v́ lẽ các Ngài là Tác Giả mấy quyển đó, đừng tin những sự tưởng tượng mà chúng ta cho rằng do một vị Thần Minh đă giác ngộ chúng ta (nghĩa là phỏng đoán một sự Linh Cảm), cũng đừng tin những kết luận do chúng ta bất ngờ giả định, đừng tin cái ǵ do một sự cần thiết tương tợ bề ngoài, đừng tin chỉ v́ sự uy tín suông của các Vị Huấn Sư hoặc Tôn Sư của chúng ta. Nhưng chúng ta phải tin, khi sách vở, giáo lư hay câu châm ngôn được lư trí và lương tâm của chúng ta xác nhận. Đức Phật kết luận: Bởi v́ chính đó là điều ta dạy các con: Các con chớ nên tin điều chi chỉ v́ các con đă nghe nói suông. Nhưng nếu đức tin của các con căn cứ trên sự tin chắc riêng của các con th́ các con hăy hành động và hăy rán hết sức.”[28]

Một trong những việc thực tập mà Đức Thầy bắt buộc các Đệ Tử của Ngài phải làm là t́m xem điều ǵ mà họ thật biết và điều ǵ mà họ chỉ tin theo mà thôi. Một việc rất tốt là ghi chú phần kiến thức nào mà chúng ta được phép nói rằng nó thuộc về quyền sở hữu thật sự của chúng ta, c̣n phần nào thuộc về chúng ta chỉ v́ chúng ta đă hoàn toàn thấu hiểu và công nhận nó; cuối cùng phần nào mà chúng ta đă thu lănh của kẻ khác, gần như không kịp suy nghĩ. Con người luôn luôn sinh ra trong một Tôn Giáo cũng như họ sinh ra trong một Xứ nào đó. Đối với nhiều Phong Tục qui tắc vẫn giống in nhau. Chẳng hạn như muốn ăn cơm tối trong thành phố, phải ăn mặc một cách đặc biệt. Đó là một tập quán và không ai muốn vi phạm đến một vấn đề không quan trọng ǵ, mà trong đó cũng không có việc liên quan đến sự lành hay dữ.
[6:25:15 PM] Thuan Thi Do:
A.B.- Đây là một việc thực tập rất hữu ích cho bạn, nếu thỉnh thoảng bạn quan sát nội dung Thể Trí và trước hết ghi chú coi tất cả những điều mà bạn tin, v́ lẽ nhiều người đă tin như vậy; hai là, tất cả những điều bạn tin v́ lẽ chúng là những tín ngưỡng thuở xưa; ba là, tất cả những điều bạn tin, v́ lẽ chúng được ghi chép trong Thánh Kinh. Sau khi loại trừ ba loại này ra rồi, bạn hăy ghi nhận cái nào c̣n lại. Như thế bạn sẽ nhận thấy thật sự những tín ngưỡng của bạn căn cứ trên nền tảng nào? Chính đây là một trong những thắng lợi, đă trải qua trong giai đoạn tự do tư tưởng như tôi đă thực hiện điều đó. Phải có kinh nghiệm rồi mới thật hiểu thế nào là hy sinh tín ngưỡng đạo đức mà từ trước đến giờ ḿnh đă cho là chân thật; thế nào là sự đổ vỡ cuối cùng, khi mà miếng đất dưới chân ta sụp mất. Tôi suưt chết v́ việc đó; thân thể tôi đă rũ liệt trong nhiều tuần. Nhưng sau khi đă kinh nghiệm triệt để rồi, không cần một kinh nghiệm nào khác nữa. Do đó, khi tôi học hỏi Giáo Lư Thông Thiên Học, mặc dù trong thâm tâm tôi, tôi tuyệt đối tin chắc đi nữa, tôi cũng phải bắt Thể Trí tôi thí nghiệm lại tất cả những ư niệm mới mẻ này.

Con hăy nhớ rằng dù cho có cả ngàn người tán thành cho một sự việc, mà nếu họ không biết ǵ về sự việc đó th́ ư kiến của họ kể như vô giá trị.

C.W.L.- Đây là điều mà thế giới hiện tại khó ḷng hiểu được. Hiện giờ người ta tưởng rằng cứ tích lũy sự dốt nát, cuối cùng sự hiểu biết sẽ nảy sinh ra. Nghĩ như thế là sai lầm. Những kẻ dốt phải nhờ người hiểu biết dắt dẫn.

A.B.- Về vài phương diện, một số sách vở lớn lao của chúng ta là một điều bất tiện, tệ hại. Nó khuyến khích chúng ta đọc không suy nghĩ, khiến cho Thể Trí trở nên nông cạn và hay thay đổi. Do đó tôi luôn khuyên người ta nên đọc ít rồi mô phỏng lại đoạn đă đọc, chẳng phải bằng trí nhớ, nhưng bằng sự hiểu biết hoàn toàn vấn đề. Điều ǵ chỉ thuộc về bạn khi nào nó đă được Thể Trí của bạn đồng hóa. Muốn được như thế, bạn phải suy nghĩ và hiểu biết tường tận những ǵ bạn đă đọc hoặc đă nghe. Không vậy, bạn càng đọc nhiều chừng nào, bạn càng trở nên Dị Đoan nhiều chừng nấy. Bạn cứ thêm những tín ngưỡng mới vào những tín ngưỡng cũ của bạn mà không có cái nào được căn cứ trên một nền tảng vững chắc.

Tôi có một người giúp việc rất dở về kế toán. Mỗi lần y tính lộn, y bắt đầu làm lại một cuốn sổ mới với hy vọng sắp đặt lại cho có thứ tự. Hiện nay cũng thế, nhiều người luôn luôn đ̣i hỏi sự mới lạ v́ những sự hiểu biết nông cạn mà họ đă thu thập không làm cho họ thực sự thỏa măn. Những người trong nhóm Hội Viên chúng ta đi đâu cũng lấy những tác phẩm của Đức Giám Mục Leadbeater hoặc của tôi làm dẫn chứng cũng là những người mê tín dị đoan vậy. Những sự kiện họ kể ra có thể rất đúng, nhưng chúng không đúng đối với họ, v́ nếu họ thật hiểu chúng, họ không cần dựa vào uy tín của chúng tôi. Nếu họ muốn lấy chúng tôi làm dẫn chứng, họ phải xem lời nói của chúng tôi như là những ư kiến cá nhân và không nên t́m cách ép buộc ai phải nghe theo cả. Trên đời chỉ có một uy quyền mà thôi: Đó là sự Minh Triết.

Ai muốn bước đi trên Đường Đạo phải tập tự ḿnh tư tưởng, v́ dị đoan là một trong những tai hại lớn nhất trên Thế Gian, một trong những xiềng xích tự con phải hoàn toàn xa lánh nó.

C.W.L.- Sự dị đoan là một sức mạnh lớn lao và tế nhị. Nó hiển nhiên là chướng ngại thứ ba trên Đường Đạo mà con người cần phải dứt bỏ, sau khi đă được Điểm Đạo Lần thứ Nhứt; tiếng Nam Phạn (Pali) gọi nó là Silabbataparamasa, nghĩa là: “Đức tin căn cứ vào sự công hiệu của Nghi Thức hay là Lễ Bái bất cứ về loại nào.”

Tư tưởng của con về người khác phải chân thật; con không được nghĩ điều ǵ về kẻ khác mà con không biết rơ.

C.W.L.- Nếu điều của chúng ta nghĩ về kẻ khác chỉ là giả tưởng (ức đoán) th́ chắc chắn tư tưởng của chúng ta bất cứ về phương diện nào cũng là lư luận thuần túy. Thật ra, chúng ta biết rất ít về những người ở gần ḿnh nhất, và chúng ta c̣n biết ít hơn về những người mà chúng ta gặp gỡ một cách ngẫu nhiên; nhưng người ta không ngớt ngồi lê đôi mách, lắm chuyện lắm lời vô ích về những sự hành động, những lời nói và những tư tưởng của thiên hạ. May thay, một phần lớn những điều này vẫn hoàn toàn sai lạc.

A.B.- Những dư luận về kẻ khác thường sai lầm. Chúng ta chỉ có thể phán đoán chính xác về một người nào khi chúng ta thật biết y, thấy và hiểu được tư tưởng của y. Phần đông người đời chưa đạt được tŕnh độ hiểu biết đó. Tuy nhiên, ư kiến của họ về mấy kẻ khác đă quyết định rồi. Luôn luôn họ xét đoán mấy người này và không biểu lộ trong tư tưởng một chút nhân từ nào cả.

Sau đó một chút, Đức Thầy có nói rằng: “Con đừng bao giờ cho kẻ khác có ư muốn này hay ư muốn nọ.” Lời khuyên này hết sức quan trọng, nếu nó được người đời tuân theo, phân nửa sự thống khổ của Trần Gian sẽ bị tiêu diệt. Nếu có ai làm một việc mà bạn không hiểu được, bạn hăy để cho y làm, đừng bịa ra những lư do. Lư do hành động của y, tất nhiên bạn không hiểu được, nhưng bạn lại t́m một lư do, thường thường không mấy tốt đẹp rồi bạn kết nó vào sự hành động, và sau cùng bạn khiển trách kẻ khác về cái điều mà chính là bạn đă tưởng và đă làm ra. Khi qui cho kẻ khác những lư do như thế, con người tăng cường mănh lực xấu có thể đương hoạt động trong trí của kẻ bị chỉ trích, hoặc nếu kẻ ấy chưa có mầm xấu th́ họ lại làm cho nó nảy sanh. Đấng Christ có nói: “Chớ khá đương đầu với kẻ hung ác.” Lời này có thể đem áp dụng cho trường hợp kể ra đây. Không phải bổn phận của chúng ta là t́m điều xấu trong Trí thiên hạ để diệt trừ; hăy cô lập sự xấu, nó sẽ tự tiêu hủy.

Đừng tưởng rằng người ta luôn luôn nghĩ đến con.
[6:35:18 PM] Thuan Thi Do: C.W.L.- Điều này xảy ra măi măi: Tất cả những ǵ của kẻ khác làm hay nói, chúng ta cũng đều cho rằng liên hệ đến chúng ta cả. Bởi chúng ta luôn luôn nghĩ đến ḿnh nên chúng ta tưởng rằng kẻ khác cũng phải nghĩ đến chúng ta. Nếu chúng ta luôn luôn nghĩ đến ḿnh, muốn cho hợp lư, chúng ta phải tưởng rằng kẻ khác cũng luôn luôn nghĩ đến chính ḿnh họ vậy, chớ không phải nghĩ đến chúng ta. Con người tự đặt ḿnh vào trung tâm ṿng tṛn của họ, mọi tư tưởng, mọi cảm xúc của họ đều quay cuồng theo ṿng tṛn và họ xét đoán mọi sự theo sự phản ứng của chúng đối với họ. Họ cứ chạy theo ṿng tṛn chung quanh họ và v́ lẽ đó họ tưởng mỗi người cũng phải chạy như thế chung quanh họ. Nhưng không phải như thế. Mỗi người tự nhốt ḿnh trong ṿng tṛn của ḿnh – chắc chắn ṿng tṛn này cũng lẩn quẩn như những ṿng tṛn khác. Trong chín phần mười những trường hợp mà con người bất b́nh về hành vi và lời nói của kẻ khác có lẽ đều phát sinh từ ư niệm này.

Nếu có người nào làm một điều ǵ đó mà con nghĩ rằng sẽ có hại cho con, hay nói một điều ǵ đó mà con nghĩ rằng ám chỉ đến con th́ con chớ vội nghĩ rằng: “Y muốn hại con.” Rất có thể y chẳng hề nghĩ ǵ đến con cả, v́ mỗi tâm hồn đều có những lo lắng riêng của họ và chỉ suy nghĩ nhiều nhất về chính họ mà thôi. Nếu có ai nói giọng giận dữ với con, con chớ nghĩ: “Y ghét tôi, y muốn hại tôi.” Có thể là một người hay một việc nào khác đă làm y giận dữ, rồi t́nh cờ y gặp con nên trút cơn giận lên con. Y đang hành động điên cuồng, nhưng con không nên v́ vậy mà nghĩ quấy cho y.

C.W.L.- Chính đó là lẽ phải, nhưng rất ít người thực hành! Khi tôi c̣n là Mục Sư của Giáo Hội Anh Cát Lợi, có lần tôi thuyết pháp về sự thử ḷng hay sự cám dỗ mà tôi nghĩ rằng có thể xảy ra cho những Tín Đồ nông dân hay thợ thuyền, họ là những con chiên của tôi. Tôi tŕnh bày tại sao phương thức hành động nào có thể đem đến vài hậu quả tai hại. Sau thời Thuyết Pháp, một người nông dân giận dữ đă xông vào Thánh Đường và hỏi tôi v́ cớ ǵ tôi đưa y ra làm đối tượng cho bài Thuyết Giáo của tôi. Thật thế, kẻ bất hạnh tự bộc lộ tâm trạng của y tức khắc. Tôi không bao giờ ngờ y có thể phạm phải hành vi đặc biệt này, nhưng hiển nhiên, đó là một yếu điểm và sự quan sát của tôi đă chạm vào yếu điểm đó. Đến nay tôi vẫn c̣n tin rằng người đó quả quyết rằng tôi nhận rơ y trong đám thính giả và đưa y ra làm đề tài cho bài Thuyết Giảng của tôi.

Trong sự sống chung đông đúc này, không thể tránh khỏi được những sự đụng chạm đến một mức độ nào đó. Cho mấy điều này là quan hệ hay là trọng đại, thật là vô ích. Khi đi đường trong một đô thị lớn, chúng ta thấy hàng ngàn người đều bận rộn với công việc riêng của họ; họ đi đường họ, không nghĩ ǵ đến những kẻ khác đang qua lại. Đôi khi không thể tránh khỏi sự xô lấn, nhưng không ai tưởng rằng ḿnh bị xúc phạm nên nổi nóng, v́ thái độ đó thật buồn cười. Trên phương diện lư trí và t́nh cảm cũng xảy ra những sự đụng chạm như thế. Trong những đám đông đều luôn luôn có những sự va chạm về mặt lư trí và t́nh cảm. Chúng ta hăy xem những sự việc này như điều mới nói ra, tức là hiểu rằng kẻ đă giẵm chân trên Thể Trí của chúng ta không hề cố ư chút nào, và y chỉ đi theo con đường của y chớ không nghĩ đến chúng ta.

Chúng ta đừng quan trọng hóa những sự đụng chạm nhỏ nhen đó, cũng như những sự xô lấn hằng ngày ngoài đường phố.

Khi chúng ta để ư đến cách của những kẻ khác chăm chú vào những quyền lợi của họ, chúng ta cũng có bổn phận coi chừng, đừng cho chúng ta say mê những quyền lợi của chúng ta cho đến đỗi chúng ta quên những cử chỉ lễ độ, nhă nhặn làm cho đời thêm tươi đẹp.

Người Thông Thiên Học phải khác hơn người thường bởi sự lễ độ cũng như sự an tịnh và b́nh thản luôn luôn. Các bạn hăy ở cho dễ thương, hăy kiên nhẫn. Người ta rất vội vàng mà người ta cũng không hề thiếu th́ giờ để tỏ ra ḿnh là người tử tế và có t́nh huynh đệ. Chớ để cho những triều lưu nóng giận lôi cuốn chúng ta do những dây thần kinh quá căng thẳng và thường xảy ra trong thời buổi xáo trộn của chúng ta.
[6:52:21 PM] Thuan Thi Do: A.B.- Lời khuyên của Đức Thầy ở đây thật rất sáng suốt, khôn khéo. Chớ nên nghĩ rằng mọi người đều nhớ đến bạn v́ lẽ bạn vẫn nhớ đến họ. Mấy kẻ khác cũng nhớ tới họ chớ không hề nhớ đến bạn đâu. Họ lo lắng công việc riêng của họ cũng như bạn lo lắng công việc riêng của bạn. Nhiều nước sẽ được hạnh phúc hơn nếu người ta chịu chấp nhận và đem thực hành ư niệm này. Nếu một người kia chạm phải bạn trong cuộc sống náo nhiệt và xáo trộn này, bạn chớ tưởng rằng y t́m cách hại bạn, hoặc có tư ư ǵ đối với bạn. Trừ ra khi nào bạn chắc chắn rằng người ta muốn hại bạn, tốt hơn bạn nên nghĩ trái ngược lại là không có điều đó.

Một người nói với bạn giọng giận dữ, nếu lúc đó bạn nhớ đến điều cần thiết là đừng gán cho y thái độ thù nghịch và đừng nổi nóng như y, bạn sẽ tiến nhanh trong vấn đề tự chủ. Thường thường sau cơn giận người ta mới nhớ. Một người đă tự chủ sẽ không biểu lộ sự nổi nóng, nhưng nếu y đă tự chủ hoàn toàn, cho đến một t́nh cảm nóng giận cũng không nảy sinh ra nữa. Dù thừa nhận rằng kẻ đối thoại với bạn sái quấy, lỗi ấy chỉ do sự yếu đuối mà ra, kẻ chí nguyện làm Nhà Huyền Bí Học chớ nên quên bổn phận ḿnh phải nhân từ trước sự yếu đuối của kẻ khác. Ta nên nhớ rằng cử chỉ giận dữ hay câu trả lời cộc cằn và gay gắt của một người nào thường là dấu hiệu biểu lộ bộ thần kinh của y bị căng thẳng quá độ bởi sự xao xuyến, lo âu, y quá yếu đuối nên không thể chịu nổi một sự cố gắng mà không tỏ ra có phản ứng ǵ. Thần kinh của y căng thẳng cực độ; đó là lư do khiến y hành động như thế.

Theo lời Đức Thầy, người ấy hành động điên cuồng. Quả đúng như thế, nhưng chúng ta hăy khoan dung cho y. Chính v́ thế mà đa số những sự khó khăn nhỏ mọn nảy sinh. Một sự căng thẳng khó chịu khiến cho chúng ta nổi nóng trước hầu hết mọi việc. Bạn hăy nghĩ đến bao nỗi bận tâm đang chi phối Thế Gian, lo lắng về mọi thứ quấy nhiễu và hành hạ con người. Đành rằng chúng ta không biết được những nỗi khổ nhọc của những kẻ sống chung quanh chúng ta, v́ không người khôn ngoan nào lại thuật cho bất cứ là ai biết những nỗi khó khăn của ḿnh. Tư cách rất tầm thường cũng không cho phép người ta làm như thế. Nhưng nếu chúng ta nhớ đến những nỗi khó khăn này và quan tâm đến chúng, chúng ta sẽ đạt được sự yên tĩnh hoàn toàn, nó là mục tiêu của Đức Thầy trong những bài này.

Chừng nào con làm Đệ Tử của Thầy, luôn luôn con có thể thử xem tư tưởng của con có chân chính hay không bằng cách so sánh nó với tư tưởng của Thầy. V́ Đệ Tử đă hợp nhất với Thầy nên chỉ cần đặt tư tưởng của ḿnh kề bên tư tưởng của Ngài là thấy ngay có phù hợp hay không. Nếu nó không phù hợp, tư tưởng của Đệ Tử là sai, phải thay đổi nó ngay, v́ tư tưởng của Thầy vốn trọn lành, v́ Ngài hiểu biết tất cả.
[6:55:27 PM] Thuan Thi Do:
A.B.- Một Đệ Tử chính thức luôn luôn có thể xác định giá trị tư tưởng của y, khi y đặt nó cạnh tư tưởng của Đức Thầy. Nếu y cảm thấy một sự rung động không điều ḥa, y biết rằng tư tưởng của y chẳng có giá trị ǵ cả. Nếu lấy một sự tương tợ ở Cơi Trần mà nói, đó cũng như là một cung đàn lỗi nhịp. Người Đệ Tử không cần làm cho Đức Thầy chú ư đến ḿnh. Y chỉ để tư tưởng của y bên cạnh tư tưởng của Ngài. Nếu y thấy có dấu hiệu sai lệch, y liền vứt bỏ tư tưởng của y và tức khắc cố gắng lặp lại sự ḥa hợp giữa tư tưởng của y với tư tưởng của Đức Thầy. Người Đệ Tử không lư luận, không t́m cách cho rằng dù sao có lẽ tư tưởng của ḿnh cũng đúng; v́ nếu nó sái quấy, th́ sự sai lầm hiện ra tức khắc. Trước khi được Đức Thầy thu nhận làm Đệ Tử Chính Thức không thể hành động như thế được, và đối với nhiều người chí nguyện điều này là một sự khó khăn. Bởi Tâm Thức của Đệ Tử phải ḥa hợp làm một với Tâm Thức của Đức Thầy, cho nên Ngài không nhận một người nào mà tư tưởng của y buộc Ngài phải làm một tấm vách để ngăn nó với tư tưởng của Ngài.
[7:06:57 PM] Thuan Thi Do: audio so 5, 16:48



[7:10:30 PM] Thuan Thi Do: Giả thuyết sau chỉ đúng theo ư nghĩa được tŕnh bày
trong đoạn chót của Tiết trước, nhưng chúng ta vẫn chưa
đồng ư với nhau về bản chất và đặc tính của “Đấng Thiên
Khải” thiêng liêng (the divine “Revealer”). Đối với thế nhân,
giả thuyết trước, vốn liên quan tới sự ưu tiên, dĩ nhiên là sẽ
tùy thuộc vào (a) bằng chứng nội tại và ngoại tại của sự thiên
khải, và (b) các tiên đoán của cá nhân mỗi độc giả. Tuy nhiên,
điều này không thể cản trở tín đồ Do Thái Bí giáo theo thuyết
hữu thần hay là nhà Huyền bí học theo thuyết Phiếm Thần,
tin tưởng theo đường lối riêng của ḿnh; song cả hai đều
chẳng bên nào chịu bên nào. Các dữ kiện do lịch sử ghi lại
cũng quá ít ỏi và không đủ để cho bất cứ bên nào chứng tỏ
cho kẻ nghi ngờ của phe bên kia rằng ḿnh là đúng.
Mặt khác, các chứng cớ truyền thống thu lượm được
cũng rất thường được bác bỏ khiến ta không có hy vọng ǵ
giải quyết được vấn đề này trong thời đại hiện nay. Trong khi
đó khoa học duy vật sẽ thản nhiên nhạo báng cả tín đồ Do
Thái Bí giáo lẫn nhà Huyền bí học. Nhưng một khi mà vấn đề
sự ưu tiên – vấn đề đă gây nhiều tranh căi – đă được dẹp
sang một bên, th́ trong các bộ môn ngữ văn và Tôn giáo đối
chiếu, khoa học rốt cuộc sẽ phải nhận lănh nhiệm vụ và sẽ bắt
buộc phải nh́n nhận lời khẳng định chung.
Các lời khẳng định này sẽ dần dần được thừa nhận, khi
mà hết khoa học gia này đến khoa học gia khác sẽ bắt buộc
phải nh́n nhận các sự kiện do Giáo Lư Bí Nhiệm đưa ra; mặc
dù y hiếm khi, nếu không muốn nói là chẳng bao giờ, chịu
nh́n nhận rằng người ta đă tiên liệu được những phát biểu
của y. V́ thế, trong những ngày huy hoàng mà ông Piazzi
Smyth c̣n có thẩm quyền đối với vấn đề Kim tự tháp ở
Gizeh, ông chủ trương một thuyết như sau: cái quan tài bằng
vân ban thạch (the porphyry sarcophagus) tại Nội cung của
Vua chúa là “đơn vị đo lường dành cho hai quốc gia giác ngộ
nhất trên thế giới là Anh và Mỹ”, và cũng chẳng có ǵ khác
hơn là một cái “thùng để đựng lúa ḿ” (“corn-bin”). Trong bộ
Nữ Thần Isis Lộ Diện vừa được xuất bản vào lúc đó, chúng tôi
quyết liệt chối bỏ điều này. Lúc bấy giờ báo chí ở New York
(nhất là các báo Mặt trời Nữu Ước và Thế Giới) đă nổi lên đả
kích việc chúng tôi dám mạo muội t́m ra khuyết điểm (find
fault) của một ngôi sao Bắc đẩu trên ṿm trời học thuật như
thế. Trong tác phẩm này, chúng tôi đă nói rằng Herodotus,
khi bàn về Kim tự tháp này:
có thể nói thêm là, xét theo bề ngoài, nó là biểu tượng của
nguyên lư sáng tạo của Thiên nhiên, nó cũng minh họa các nguyên lư
của h́nh học, toán học, chiêm tinh học và thiên văn học. Xét về mặt nội
tại, nó là Thánh điện nguy nga, các Bí pháp được thi hành bên
trong các nơi sâu kín âm u của nó, c̣n các buổi lễ điểm đạo của các
hoàng thân quốc thích cũng đă diễn ra bên trong nó. Cái quan tài
bằng vân ban thạch – mà Giáo sư Piazzi Smyth, nhà thiên văn học
Hoàng gia xứ Tô Cách Lan, đă miệt thị coi như là một cái thùng
đựng lúa ḿ – chính là cái b́nh đựng nước rửa tội; khi ló lên từ cái
b́nh này, đạo sinh sơ cơ được tái sinh và trở thành một cao đồ. (1)
1 Sách đă dẫn, Quyển I, trang 519.

Vào thời đó, lời phát biểu của chúng tôi bị chế nhạo.
Người ta đă buộc tội chúng tôi là đă kế thừa các quan niệm
“điên rồ” của Shaw, một văn sĩ người Anh từng chủ trương
rằng cái quan tài dùng để cử hành các Bí pháp Osiris, mặc dù
chúng tôi chưa hề nghe nói tới văn sĩ này. Và nay, sáu, bảy
năm sau (1882), ông Staniland Wake lại viết như sau:
Cái gọi là Nội cung của Vua chúa – mà một nhà nghiên cứu
Kim tự tháp nhiệt thành nói là “Các bức tường bóng loáng, các vật
liệu tốt đẹp, các kích thước đồ sộ, và vị trí cao tột là những minh
chứng hùng hồn của các vinh quang c̣n nhiều hứa hẹn, “ nếu
không muốn nói đó là Nội cung tuyệt diệu của lăng vua Cheops,
có lẽ nơi mà điểm đạo đồ được nhận vào sau khi y đă đi qua các lối
đi hẹp tiến lên tới hành lang lớn có phần cuối rất tầm thường, nó
dần dần chuẩn bị cho y giai đoạn cuối cùng của các bí pháp thiêng
liêng.(1)
Nếu ông Staniland Wake là một nhà Minh Triết Thiêng
Liêng, có lẽ ông đă nói thêm là cái lối đi hẹp đưa ta tiến lên
Nội cung của Vua đúng thật là có một cái “cổng hẹp”, đó
chính là cái cổng hẹp đưa tới cuộc sống “tức là sự tái sinh
tinh thần mới mẻ mà Đức Jesus đă ám chỉ trong Thánh thư
Matthew; (2) tác giả vốn chỉ ghi lại những lời mà người ta
gán cho một Điểm đạo đồ, đang nghĩ tới cánh cổng trong
Thánh điện Điểm Đạo này.
Như thế, các học giả lỗi lạc nhất trong lănh vực khoa
học, thay v́ gạt phắt đi cái được coi như là “mớ lộn xộn các
điều mê tín dị đoan và các điều bịa đặt nực cười” – theo lối
diễn đạt thông thường của văn chương Bà La Môn giáo – lại
nỗ lực học hỏi ngôn ngữ biểu tượng đại đồng thế giới, với các
ch́a khóa h́nh học và số học của nó. Nhưng ở đây, họ sẽ lại
1 Nguồn gốc và Ư nghĩa của Kim tự tháp, trang 93, 1882.
2 Chương vii, 14.
khó ḷng mà thành công, nếu họ cũng tin tưởng rằng hệ
thống Do Thái Bí giáo có bao hàm ch́a khóa để giải toàn bộ bí
nhiệm, v́ họ làm sao mà có được. Hiện nay chẳng có Thánh
kinh nào khác có được toàn bộ ch́a khóa, v́ ngay cả bộ kinh
Vedas cũng c̣n chưa hoàn chỉnh. Mọi tôn giáo cổ chẳng qua
chỉ là một, hai chương của toàn bộ pho tài liệu về các bí
nhiệm bản sơ, chỉ Huyền bí học Đông phương mới có thể cao
rao là ḿnh có được toàn bộ bí mật với bảy ch́a khóa. Người ta
sẽ dùng cách so sánh đối chiếu, và sẽ giải thích cặn kẽ đến
mức tối đa trong tác phẩm này, phần c̣n lại th́ chính các
môn sinh phải dùng trực giác mà hiểu lấy. Khi tuyên bố rằng
Huyền bí học Đông phương có được bí mật, tác giả không hề có ư
tự cho là ḿnh biết hết hoặc “biết gần hết,” điều này thật là
vô lư. Tôi biết đến đâu th́ tŕnh bày đến đó, c̣n điều ǵ tôi
không giải thích được, môn sinh phải tự t́m hiểu lấy.
[7:30:42 PM] Thuan Thi Do: https://vi.wikipedia.org/wiki/Foot
[7:38:54 PM] Thuan Thi Do: https://www.google.com/search?q=the+porphyry+sarcophagus&newwindow=1&rlz=1C1CHFX_enUS597US597&tbm=isch&tbo=u&source=univ&sa=X&ved=0ahUKEwjh6vLCoP7MAhVOdlIKHSWrDB4QsAQIMA&biw=960&bih=525


[7:42:44 PM] Thuan Thi Do: Song, mặc dù chúng ta có thể giả sử là trong các thế kỷ
sắp tới, người ta sẽ chẳng thể thấu triệt được toàn bộ chu kỳ
của Ngôn Ngữ Bí Nhiệm đại đồng thế giới, chỉ cần một ít
những ǵ mà một vài học giả đă khám phá ra từ trước đến
nay trong Thánh kinh, cũng hoàn toàn đủ để minh chứng cho
lời tuyên bố - xét về mặt toán học. V́ Do Thái giáo đă sử
dụng được hai trong số bảy ch́a khóa, và v́ nay, người ta đă
t́m lại được hai ch́a khóa này, bây giờ, vấn đề không c̣n là
đưa ra các suy lư và các giả thuyết cá nhân – ít ra th́ cũng là
vấn đề ngẫu nhiên trùng hợp – mà vấn đề là phải thuyết
minh được chính xác các bản văn trong Thánh kinh, cũng
giống như bất cứ ai tinh thông số học, xem xét và kiểm lại
một tổng số của phép cộng. Thật vậy, nay người ta thấy là, tất
cả những ǵ chúng tôi đă tŕnh bày trong bộ Nữ Thần Isis Lộ
Diện đều được bổ chứng trong tác phẩm Bí Nhiệm Ai Cập
(Egyptian Mystery) hay Nguồn Gốc của Kích Thước, và được bổ
chứng bởi các lối thuyết minh Thánh kinh như thế với các ch́a
khóa h́nh học và số học.
Chẳng bao lâu nữa, hệ thống này sẽ thủ tiêu lối thuyết
minh Thánh kinh một cách chấp nê văn tự - đó chính là lối
thuyết minh của tất cả các tín ngưỡng ngoại môn khác – bằng
cách tŕnh bày các giáo điều theo ư nghĩa chân chính của
chúng. Lúc bấy giờ, ư nghĩa không thể chối căi được này –
mặc dù chưa hoàn chỉnh – sẽ làm bộc lộ bí nhiệm về Hiện
Tồn, thêm nữa, nó sẽ làm biến đổi hoàn toàn các hệ thống
khoa học hiện đại của Nhân loại học, Dân tộc học và nhất là
Niên đại học. Yếu tố sùng bái sinh thực khí – mà người ta
thấy có mặt trong mọi danh xưng của Thượng Đế và mọi câu
chuyện trong Cựu Ước, và trong một chừng mực nào đó trong
Tân Ước – cũng có thể chẳng sớm th́ muộn, sẽ làm thay đổi
một cách đáng kể các quan điểm duy vật hiện đại về sinh học
và sinh lư học.
Khi không c̣n vẻ thô thiển gớm ghiếc đó – dựa vào uy
lực của các thiên thể và các bí nhiệm của chúng – các quan
điểm như thế về Thiên nhiên và con người sẽ làm bộc lộ các
cuộc tiến hóa của trí người và sẽ chứng tỏ một tiến tŕnh tư
tưởng như thế tự nhiên biết chừng nào. Cái gọi là các biểu
tượng sinh thực khí đă đâm ra chướng tai gai mắt chỉ v́
chúng có yếu tố duy vật và thú tính. Vào lúc ban sơ, các biểu
tượng như thế cũng tự nhiên thôi, v́ chúng bắt nguồn từ các
giống dân cổ sơ – vốn kế thừa các hiểu biết của một tổ phụ
bán thư bán hùng - theo như họ thấy, đó là các giống dân đầu
tiên biểu lộ hiện tượng phân chia giới tính và tiếp theo đến
lượt bí nhiệm của sự sáng tạo. Nếu các giống dân sau này,
nhất là “dân tộc tuyển định” (chosen people), đă làm bại hoại
ư nghĩa của chúng, điều này không hề ảnh hưởng tới nguồn
gốc của các biểu tượng. Bộ lạc dân Semite bé nhỏ này, - một
trong các mảnh nhỏ từ khi có sự lai giống các phân chủng thứ
tư và thứ năm, tức phân chủng Mông Cổ - Turanian và cái
gọi là giống dân Ấn Âu, sau khi Đại lục địa bị ch́m – chỉ có
thể chấp nhận biểu tượng học của nó theo đúng tinh thần mà
các quốc gia khai sáng ra nó truyền lại. Vào buổi ban sơ thời
Moses, may ra th́ biểu tượng học không đến nỗi là thô thiển
như là sau này khi Ezra luận giải, ông đă sửa lại toàn bộ Năm
quyển đầu tiên của Cựu Ước. Chẳng hạn như h́nh chạm trổ
con gái của Pharaoh (người đàn bà), sông Nile (Thái Uyên và
Đại Thủy – the Great Deep and Water) và đứa bé trai ở trong
cái bè bằng bấc nổi lềnh bềnh trên sông, thoạt tiên không phải
là do Moses tạo ra hoặc được tạo ra cho ông ta. Nó đă được
tiên liệu trong các mảnh vụn mà người ta t́m thấy trên các
viên ngói ở thành phố Babylon, trong câu chuyện về vua
Sargon, ông đă sống trước thời Moses rất lâu.
[8:14:59 PM] Thuan Thi Do: trang 48 GLBN 2



[8:31:10 PM] Thuan Thi Do: Chúng ta nên hiểu rằng trong Kama - manas hay chitta của người Ấn Độ là một phần lớn của thể mà người Thông Thiên Học gọi là Cái Vía. Bà Blavatsky cũng đề cập đến bổn phận của Cái Trí. Trước hết là manas - taijasi, tức manas chiếu diệu rực rỡ, là buddhi thật sự hay ít ra là trạng thái của con người khi manas của y thấm nhuần trong buddhi lúc y từ khước mọi ư muốn tư kỷ. Kế đó là manas chính thực, tức manas cao siêu, là Cái Trí suy tư trừu tượng. Tiếp nữa là antahkarana, thuật ngữ được Bà Blavatsky dùng để chỉ sự liên lạc, con kinh hay chiếc cầu nối liền Thượng Trí ( higher manas ) và HạTrí (Kama-manas ) trong sự luân hồi. Sau cùng là Kama-manas, Hạ Trí, theo lư thuyết của chúng ta là tiểu ngă hay phàm ngă.
Đôi khi bà gọi manas ( Cái Trí ) là deva-ego, tức là Chơn Ngă thiêng liêng để phân biệt với phàm ngă ( the personal self ). Thượng Trí thiêng liêng v́ nó có tư tưởng tích cực hay kriyashakti, là năng lực thực hiện. Thật ra một việc làm của chúng ta đều là công nghiệp thuộc quyền năng của Cái Trí. Không phải nhờ bàn tay của nhà điêu khắc song nhờ sức mạnh tinh thần điều khiển bàn tay ấy mà tác phẩm chạm trỗ hoàn thành. Thượng Trí thiêng liêng v́ nó là kẻ suy tư tích cực, sử dụng những đức tính của chính đời sống nội tâm của nó chiếu diệu ra ngoài. Đó là ư nghĩa của của chữ thiêng liêng ( divine ), mà ngữ căn div có nghĩa là chiếu sáng. C̣n Hạ Trí, là một tấm gương phản chiếu tầm thường; như những vật bằng vật chất khác, tự nó chẳng có ánh sáng; đó là một vật trung gian để cho ánh sáng hay âm thanh xuyên qua; đó là chiếc mặt nạ, không hơn không kém.
Trong những tác phẩm Thông Thiên Học, antahkarana thường được xem như sự liên lạc nối liền Đại Ngă cao siêu hay Chơn Nhơn với tiểu ngă thấp thỏi hay phàm ngă. Trong tiểu ngă, chitta phải phục tùng tất cả, đến nỗi đời sống của chúng ta dưới thế gian có thể so sánh với kinh nghiệm của một người cố gắng lội trong vực thẳm. Hơn nữa, sau khi chết, sớm hay muộn ǵ y cũng tiếp tục sống một thời gian trên cơi Thiên Đường. Con người bị lung lay đủ mọi hướng, y thấy rất nhiều sự vật, nhưng thay v́ nghiên cứu chúng với Cái Trí an tịnh và trầm tĩnh, y lại làm việc ấy với Kama-manas ( Hạ Trí ), do đó y không nắm được những ǵ đă biểu lộ trước linh hồn. Ngược lại, trên cơi Trời, Chơn Nhơn có thể mở rộng antahkarana v́ bây giờ tất cả đều thanh tịnh ; không có kinh nghiệm mới nào cần phải gặt hái thêm ; rồi từ đó không có ǵ ngăn cản không cho nó nhớ lại một cách an tĩnh những kinh nghiệm xưa để sống lại với chúng một cách nhàn hạ và gặt hái vài thứ tinh hoa trong Chơn Nhơn (deva-ego ), v́ đó là sự lợi lạc của nó. Như thế, rất thường Chơn Nhơn thật sự bắt đầu chu kỳ đời sống của chính nó lúc nó bước vào cơi Thiên Đàng và trong thời kỳ thu thập những kinh nghiệm, nó chỉ chú ư đến phàm nhơn chút ít thôi.
Trong trường hợp nầy, trạng thái của Cái Trí ( theo bảng phân loại của Bà Blavatsky ) được gọi là antahkarana ít khi chuyển vận trước giai đoạn sống trên cơi Thiên Đường. Nhưng muốn trở nên thành thạo tại cơi Trung Giới và cơi Hạ Thiên trong khi sống bằng xác thân tại cơi trần, con người phải chuyển những năng lực mănh liệt của Chơn Ngă cao siêu xuống và xuyên qua con kinh ấy (antahkarana), bằng cách thực hành Dharana hay tập trung tư tưởng và hoàn toàn làm chủ phàm nhơn. Nói cách khác, y phải xóa bỏ những trốt xoáy của Thể Vía và Thể Trí. Người có nhiều tài trên một phương diện đặc biệt có thể tập trung tư tưởng dễ dàng bằng một năng lực vô cùng mănh liệt vào công việc riêng tư của y, nhưng khi nghỉ ngơi, đời sống b́nh thường của y rất có thể c̣n biểu lộ một số trốt xoáy. Đó là sự việc chúng ta không muốn, mục đích của chúng ta là hủy diệt hoàn toàn những trốt xoáy để thanh lọc những yếu tố bất hảo trong Hạ Trí, khiến cho nó an tịnh và trở nên kẻ phụng sự biết vâng lời Chơn Ngă cao siêu trong mọi lúc.
[9:06:58 PM] Thuan Thi Do: Những trốt xoáy nầy có thể kết tinh và thật ra chúng không những kết tinh thành những thành kiến vô định, tạo nên những sự cô động vật chất thật sự giống như nhiều mục cóc hiện trên thể trí. Vậy khi con người cố gắng nh́n ra ngoài, xuyên qua những điểm đặc biệt đó của Thể Trí, th́ cái nh́n của y không được rơ rệt ; tất cả đều bị biến thể, v́ trên những điểm đó vật chất tạo thành Thể Trí không c̣n sống động và lưu chuyển nữa mà ngưng đọng lại và bị biến đổi. Muốn chủ trị chứng nầy phải tự học hỏi, sắp xếp cho chất khí linh hoạt trở lại ; kế đó các thành kiến sẽ lần lượt bị cuốn theo ḍng và tiêu tán.
Nếu Cái Trí là kẻ đại phá hoại sự thật, chính v́ xuyên qua thể ấy chúng ta không thấy một đối tượng nào đúng thật là nó, nhưng chỉ là một h́nh ảnh mà chúng ta có thể tạo ra và những h́nh tư tưởng được chúng ta tạo tác nầy phải truyền đạt đến mọi vật màu sắc đặc biệt của chúng. Bạn hăy để ư đến hai người có những thành kiến khác nhau, đứng trước những hoàn cảnh như nhau và đều đồng ư về nguyên nhân của những biến cố, đă thuật lại sự kiện ấy hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên đó chính là điều xảy ra đối với những người thường. Chúng ta không biết rằng chúng ta đă làm biến thể mọi vật một cách vô lư như thế. Người đệ tử phải vượt qua điều đó ; y phải " tiêu diệt kẻ phá hoại ". Cố nhiên y không được hủy diệt Cái Trí của y, v́ y không thể không dùng đến nó, nhưng y phải chế phục nó. Cái Trí là vật sở hữu của y, chứ không phải là y. Cách tuyệt hảo để ngăn cản Cái Trí vẫn vơ là phải sử dụng đến ư chí. Thể Trí cũng như Thể Vía luôn luôn cố gắng t́m cách dẫn dụ cho bạn tin rằng những sự ham muốn của chúng là những sự ham muốn của bạn. Chúng ta phải làm chủ một cách chắc chắn cả hai.
Dù những trốt xoáy làm cho Cái Trí chứa đầy những thành kiến sai lầm đă biến mất, song vẫn c̣n nhiều ảo ảnh. Việc phiên dịch chữ Phạn avidya ra chữ " vô minh " có thể không thật xác đáng, dù chữ ấy vẫn thường được công nhận. Trong chữ Phạn có nhiều sắc thái tế nhị khó dịch ra chữ Anh. Vấn đề trong trường hợp nầy có thể là thiếu minh triết hơn là vô minh. Dù kiến thức vô cùng quảng bác cũng không thể sánh được với minh triết, v́ kiến thức liên hệ với vật thể lẫn thời gian và không gian, trong khi sự minh triết liên hệ đến linh hồn hay tâm thức tiềm nhập trong những vật thể nầy. Một nhà chính trị minh triết hiểu được nguyện vọng của dân chúng ; một bà mẹ sáng suốt hiểu được ư muốn của các con bà. Dù con người có tất cả những kiến thức liên hệ đến sự vật ở cơi trần, nếu y chỉ có nhăn quan có tính chất duy vật chớ không nh́n xuyên qua sự sống, th́ y c̣n trong ṿng vô minh hay thiếu sự minh triết. Bà Blavatsky có nói rằng :" Thường th́ trí thông minh hoạt động nhờ ở sự minh triết ". Từ sự thiếu sáng suốt hay vô minh, c̣n phát sinh ra bốn trở ngại lớn lao đối với sự tiến bộ tinh thần, tính chung tất cả là năm trở ngại được gọi là kleshas.
[9:09:23 PM] Thuan Thi Do: Nếu avidya là trở ngại đầu tiên, th́ trở ngại thứ nh́ là asmita, tức ư niệm" Ta là cái ấy " hay cái mà một ngày kia Đức Thầy gọi là " tư ngă " (self- personality). Dưới ảnh hưởng của đời sống, phàm ngă trở nên một nhân vật thật đặc biệt có một thể Xác, thể Vía và thể Trí hợp với y. Điều nầy không có ǵ bất lợi, nếu các thể đó tốt. Nhưng nếu đời sống nội tâm làm cho nó tin rằng nó chính là phàm nhơn đó, nó sẽ chạy theo tư lợi, thay v́ sử dụng chúng cho những cứu cánh tinh thần.
Từ hậu quả của sự sai lầm thứ hai nầy, con người khao khát sự giàu sang, quyền thế và tiếng tăm lẫy lừng. Khi kiểm điểm nhà cửa của họ ở đồng quê và thành thị, những du thuyền và xe hơi, sự giàu có khiến họ sinh ra kiêu căng và tưởng ḿnh quan trọng, v́ được tiếng chủ nhân ông ; hoặc khi nghe tên tuổi ḿnh được nhắc nhở khắp nơi, biết rằng hàng ngàn người tán dương ḿnh ( dù bằng lời lẽ nghiêm khắc, v́ sự hiển đạt làm cho kẻ vô danh khoái trá ), người ta tưởng rằng ḿnh là một nhân vật vĩ đại. Đó là " tư ngă ", một trong thói dị đoan to lớn nhất dưới thế gian, và đối với mọi người nó là nguồn gốc của không biết bao nhiêu sự đau khổ. Trái lại, con người duy linh cho rằng ḿnh sống hạnh phúc nếu có thể làm chủ xác thân và lư trí của y ; y thích nhớ trong trí h́nh ảnh của hàng ngàn kẻ khác để giúp đỡ họ, hơn là thấy một cách thích thú h́nh ảnh của ḿnh được đề cao và ca ngợi trong ư tưởng riêng tư của họ. Vậy tư ngă là một trở ngại lớn lao chống lại việc Chơn Ngă cao siêu sử dụng phàm ngă và do đó ngăn trở sự tiến bộ tinh thần.
Trở ngại thứ ba và thứ tư có thể t́m hiểu chung : đó là raga và dvesha, yêu và ghét, thu hút và đẩy lui ; hai chứng nầy cũng bắt nguồn từ chính tư ngă ấy. Không phải tư ngă biểu lộ những sự ưa thích của nó. Cũng giống như một chiếc ô tô có ư kiến riêng, nó tỏ ra bất măn khi chủ nó lái trên con đường xấu, hoặc lộ vẻ khoan khoái chạy trên con đường bằng phẳng. Đối với chiếc xe mặt đường có thể không tốt, nhưng đối với anh tài xế, điều quan trọng là phải có một con đường, v́ y có một mục tiêu và nếu không có đường giao thông th́ y khó đến đó được. Có nhiều ghế, ḷ sưởi, đèn điện và ḷ hơi thật là tiện lợi, nhưng muốn tiến bộ phải thấy trong xứ chẳng những về vật chất mà c̣n những ǵ luôn luôn liên hệ đến tâm tư và t́nh cảm. Người ta thích những vật thích hợp với sự tiện lợi thông dụng và thói quen của ḿnh ; tất cả những ǵ gây xáo trộn cho họ đều " xấu " ; những ǵ thuận lợi cho họ đều "tốt". Cách nhận xét đời sống như thế không thích hợp với sự tiến bộ tinh thần. Chúng ta không từ chối hạnh phúc khi nó đến với ḿnh, nhưng phải xem thường nó và chấp nhận một đời như tất cả những việc xảy đến cho ḿnh. Chúng ta không quan tâm đến những ǵ ḿnh ưa thích hoặc không ưa thích. Cái ǵ tốt hay xấu chỉ nên để cho Chơn Ngă cao siêu phán xét trong sự b́nh tĩnh của nó.
Kế đó sự trở ngại thứ năm là abhinivesha : đó là trạng thái của con người chú tâm, thiết lập, bị ràng buộc vào h́nh hái nầy hay h́nh thái khác của sự sống hoặc phàm ngă. Hậu quả của sự trở ngại nầy là việc sợ già và sợ chết. Con người thật sự quên đi lẽ đương nhiên nầy, nhưng khi ngày giờ đă điểm phàm nhơn không thể nào thoát khỏi. Chướng ngại thứ năm cũng có thể thật sự làm tê liệt đời sống của chúng ta ; con người dùng tuổi thanh xuân của ḿnh để bảo toàn hạnh phúc và sự an ổn cho tuổi già ; khi trở về già, họ muốn t́m lại thời hoa niên đă mất hoặc ngại dùng xác thân của họ, v́ sợ tổn thọ. Họ giống như người mua chiếc xe ô tô đẹp rồi cứ ngồi trong xe, khoái trá v́ của mới tạo đó, nhưng không muốn sử dụng nó, v́ sợ hư hỏng. Bổn phận của chúng ta là tuân theo ư chí của Chơn Ngă cao siêu, nếu cần chúng ta phải sẵn sàng chết để phụng sự nó.
Tất cả những trốt xoáy đều phát sinh từ năm chướng ngại nầy; sự định trí và tham thiền là phương tiện xóa bỏ chúng hoàn toàn. Khi kama- manas không c̣n hướng đến sự thấp kém nữa, th́ manas mới có thể vươn lên và trở thành manas - ­taijasi (Thượng Trí ).
Một chữ Phạn khác được dùng để chỉ cái tư ngă ấy là chữ mana mà đôi khi người ta dịch là " kiêu căng " hay hơn nữa là " tự măn ". Chúng ta c̣n thấy ngữ căn của chữ ấy trong chữ nirmanakaya, có nghĩa là một sinh linh đă vượt qua ảo ảnh đó -nirmana. Theo Bà Blavatsky th́ có ba loại hay ba cách hóa thân : trước hết là hóa thân của những vị avataras là những vị từ các hành tinh cao hơn chúng ta giáng lâm, các vị ấy đă đạt được mục đích trong một chu kỳ tiến hóa trước chu kỳ của chúng ta; cách thứ hai là loại b́nh thường, khi một người đă trải qua cơi Thiên Giới, lấy một xác thân mới; loại thứ ba là cách của những người nirmanakayas tái sinh không gián đoạn, đôi khi chỉ sinh lại trong vài ngày sau. Trong bộ Giáo Lư Bí Truyền, tác giả có nêu lên một thí dụ nói về Đức Hồng Y Giáo Chủ de Cusa tái sinh lại rất nhanh chóng và chính là Copernicus ; bà cho biết thêm rằng sự hóa thân mau chóng nầy không hiếm. Bà gọi các vị nầy là đệ tử ( adepts ), song không gán cho chữ ấy hoàn toàn giống như chúng ta hiểu hiện nay, ư bà muốn nói rằng họ là những đệ tử hay là bậc đă thành thạo trên các cơi Trung Giới và Hạ Thiên ; bà c̣n quả quyết rằng các vị ấy đôi khi xuất hiện trong những buổi cầu cơ và những huynh đệ trong bóng tối thường hay chống đối họ, có lẽ v́ sự tiến bộ riêng của họ cũng như sự tiến bộ chung của nhân loại.
[9:30:34 PM] Thuan Thi Do: http://theosophicalme.blogspot.com/2012/07/first-principals-of-theosophy_18.html
[9:33:09 PM] Thuan Thi Do: http://www.theosophy.ph/onlinebooks/The%20Early%20Teachings%20of%20the%20Masters%20of%20the%20Wisdom.html
[9:38:29 PM] *** Call ended, duration 3:32:03 ***