Họp Thông Thiên Học qua Skype ngày 22 tháng 8 năm 2015

Xin bấm vào đây để download âm thanh

[6:04:17 PM] *** Group call ***
[6:14:31 PM] Thuan Thi Do: Bây giờ ḿnh học Ảo Cảm trang 99
 

[6:14:58 PM] Thuan Thi Do: Ngày nay, ảo cảm về tính duy vật ít rơ rệt hơn. Nhiều người trên thế giới đang tiếp nhận vô vàn kinh nghiệm và sẽ t́m thấy trong mớ kinh nghiệm đó, loại kinh nghiệm đúng đắn và hạnh phúc thực sự cần cho cách sống hoàn măn, hiếm hoi biết bao. Ham muốn có được của cải không c̣n được xem như là một ham muốn đáng tôn trọng như ngày trước nữa, và ḷng ham muốn giàu sang không c̣n tạo ra những cánh tay bám chặt như trước kia trong lịch sử nhân loại. Của cải, tài sản đang tuột ra khỏi những bàn tay mà trước đây đă giữ chặt chúng và chỉ khi nào con người trụ lại với bàn tay không và hiểu được tiêu chuẩn giá trị mới th́ họ lại mới có quyền sở hữu tài sản. Khi ḷng ham muốn không c̣n nữa và khi con người không c̣n t́m kiếm ǵ nữa cho bản ngă chia rẽ, th́ trách nhiệm về tài sản vật chất có thể lại được trao trở lại cho con người, nhưng lúc bấy giờ quan điểm của họ sẽ thoát khỏi ảo cảm đặc biệt đó và đám sương mù của dục vọng cơi cảm dục sẽ giảm bớt đi. Ảo tưởng dưới nhiều h́nh thức có thể vẫn c̣n chế ngự, nhưng ảo cảm về tính duy vật sẽ tan biến. Đó là ảo cảm đầu tiên được dự tính làm cho tan biến. Các đạo sinh nên nhớ kỹ rằng mọi h́nh thức của cải và mọi món đồ bằng vật chất, dù đó là tiền bạc, hay nhà cửa, tranh ảnh hay xe cộ, đều có sự sống bên trong của riêng chúng, có sự phóng phát / bức xạ (emanation) của riêng chúng và có hoạt động mà về căn bản vốn là hoạt động của các cấu trúc nguyên tử có sẵn của riêng chúng (v́ một nguyên tử là một đơn vị năng lượng linh hoạt). Điều này tạo ra các đối thể / đối phần (counterpart) trong cơi của sự sống dĩ thái và cảm dục, mặc dù không có trong cơi trí. Các h́nh thể tinh anh này và các phóng phát riêng biệt làm tăng thêm sức mạnh của dục vọng trên thế gian; chúng góp phần vào ảo cảm thế gian và tạo thành một phần của một thế giới đầy khí độc mạnh mẽ và phong phú, vốn đang ở trên ṿng cung tiến hóa hướng hạ, nhưng trong đó nhân loại dầu đang ở trên ṿng cung tiến  hóa hướng thượng lại bị nhận ch́m. Do đó các Đấng Dẫn Dắt Nhân Loại cảm thấy cần phải ở thế chờ đợi, trong khi các mănh lực do chính con người tạo ra tiếp tục làm hư hỏng con người và như vậy để cho con người bước vào chỗ hoang sơ.

Ở đó, với các hoàn cảnh thiếu thốn, con người có thể điều chỉnh lại cuộc sống của ḿnh và thay đổi cách sinh hoạt, như vậy họ khám phá ra rằng việc thoát ra khỏi của cải vật chất lại đưa tới cái đẹp đẽ và phần thưởng riêng của nó, cùng với niềm vui và sự vinh quang riêng của nó. Như thế con người được tự do để sống cuộc sống bằng tâm trí.

Ảo cảm về t́nh cảm đang cầm giữ người lương thiện trên thế gian trong ṿng nô lệ và trong đám sương mù dày đặc của các phản ứng t́nh cảm. Nhân loại đă đạt đến tŕnh độ mà những kẻ có chủ đích tốt lành, có một hiểu biết chân chính nào đó và có được tŕnh độ không c̣n ưa thích bạc vàng (cách nói tượng trưng về ảo cảm của t́nh trạng vật chất) đang hướng sự ham muốn của họ vào nhiệm vụ, trách nhiệm và của cải của họ lên trên kẻ khác và dành sự cảm thông bằng t́nh cảm của họ vào bản chất bác ái. Đối với nhiều người, thực ra đối với đa số, ḷng bác ái không thực sự là t́nh thương, mà là một sự pha trộn của việc ham muốn yêu thương và ham muốn được yêu thương, cộng với sự tự nguyện làm bất cứ điều ǵ để chứng tỏ và gợi ra t́nh cảm này, và tất nhiên là muốn được thuận tiện hơn trong cuộc sống nội tâm riêng của ḿnh. Ḷng ích kỷ của những kẻ muốn trở thành không ích kỷ th́ rất lớn. Rất nhiều người đang đóng góp các t́nh cảm tập hợp chung quanh t́nh cảm hay ước muốn để chứng tỏ các đặc điểm khả ái và dễ chịu này, chúng sẽ gợi ra được đáp ứng hỗ tương hướng về kẻ muốn trở thành kẻ yêu thương (would−be lover) hay kẻ muốn trở thành người phụng sự, tức là những người vẫn c̣n hoàn toàn bị bao quanh bằng ảo cảm về t́nh cảm.

Chính t́nh thương giả tạo này, trước tiên dựa vào thuyết lư của t́nh thương và phụng sự, vốn tiêu biểu cho rất nhiều mối liên hệ của con người, thí dụ t́nh thương hiện có giữa vợ chồng, giữa cha mẹ với con cái. Bị mê hoặc do t́nh cảm của họ đối với con cái và v́ ít hiểu biết về t́nh thương của linh hồn, t́nh thương này không lệ thuộc vào chính nó đồng thời cũng để cho kẻ khác được tự do, họ lạc vào đám sương mù dày đặc, thường lôi kéo theo họ những người mà họ muốn phụng sự ngơ hầu thu hút được sự đáp ứng bằng cảm t́nh. Hỡi huynh đệ, hăy nghiên cứu thuật ngữ “cảm t́nh” này và xem ư nghĩa đích thực của nó như thế nào. Cảm t́nh (affection) không phải là t́nh thương (love). Đó là sự ước muốn mà chúng ta biểu lộ qua một nỗ lực của thể cảm dục và hoạt động này có ảnh hưởng đến các giao tiếp của chúng ta, đó không phải là sự không ham muốn tự phát của linh hồn, vốn không đ̣i hỏi điều ǵ cho cái ngă thích chia rẽ. Ảo cảm về t́nh cảm này giam nhốt và làm bối rối tất cả những người tử tế trên thế gian, áp đặt vào họ các nghĩa vụ vốn không có thật, tạo ra một ảo cảm mà sau rốt phải được xua tan bằng việc tuôn đổ t́nh thương chân chính và không ích kỷ.

Tôi chỉ đề cập một cách vắn tắt đến các ảo cảm này để mỗi người trong các bạn có thể thảo chi tiết ra cho chính bạn, và khi làm như thế, bạn sẽ khám phá ra ḿnh đứng nơi nào trong thế giới sương mù và ảo cảm. Như vậy, với sự hiểu biết, bạn có thể bắt đầu tự ḿnh thoát ra khỏi ảo cảm của thế gian.  

 Ảo cảm về sùng tín làm cho nhiều đệ tử dự bị đi quanh co chung quanh cơi dục vọng. Trước tiên đây là một ảo cảm đang tác động đến người thuộc cung sáu, và vào lúc này nó đặc biệt mạnh do bởi hoạt động lâu đời của cung sáu, Cung Sùng Tín, trong khi Kỷ Nguyên Song Ngư đang trôi qua nhanh chóng. Ngày nay đó là một trong các ảo cảm mạnh mẽ của người t́m đạo thực sự sùng tín. Họ tận tụy v́ một sự nghiệp, với một vị thầy, với một tín điều, với một con người, với một nghĩa vụ hay với một trách nhiệm. Hăy suy gẫm điều này. Ước muốn vô tổn hại này đi theo một đường lối nào đó của chủ nghĩa duy tâm vốn đang đương đầu với họ trở nên có hại rơ rệt cả cho chính họ lẫn cho những người khác, bởi v́ do ảo cảm sùng tín này mà họ dao động trong nhịp điệu của ảo cảm thế gian mà bản thể vốn là sương mù của dục vọng. Ḷng ham muốn mạnh mẽ theo bất cứ đường lối nào, khi nó xóa bỏ tầm nh́n rộng răi và khép con người trong cái ṿng tṛn nhỏ bé của ước muốn riêng của ḿnh cốt thỏa măn t́nh cảm tôn sùng của ḿnh, điều đó cũng chỉ có tính cách ngăn cản như bất cứ ảo cảm nào khác, và thậm chí c̣n nguy hại hơn v́ cái màu sắc đẹp đẽ mà đám sương mù khoác lên đó. Con người bị cuốn hút trong đám sương mù cuồng nhiệt do chính ḿnh tạo ra, sường mù này vốn tỏa ra từ thể cảm dục của y, nó được tạo nên do việc lăng mạn hóa bản chất riêng của y về ước muốn của riêng y và ḷng tôn sùng dành cho đối tượng lôi cuốn sự chú ư của y.

Đối với người t́m đạo chân chính, nhờ sức mạnh ngày càng tăng của tần số rung động của họ, t́nh cảm tôn sùng này có thể trở nên đặc biệt khó khăn và đưa đến sự giam nhốt lâu dài. Điều này được giải thích là t́nh cảm tôn sùng đang tuôn ra trong trạng thái xuất thần do ảo cảm của các đệ tử dự [6:40:59 PM] Thuan Thi Do: bị dựa vào các Chân Sư Minh Triết. Chung quanh tên gọi của các thành viên của Thánh Đoàn và chung quanh công việc của các Ngài và công việc của các đệ tử điểm đạo và các đệ tử tuân giới luật (hăy để ư câu này) một ảo cảm phong phú được tạo ra đang ngăn chận các Chân Sư không cho đến được đệ tử hay không cho đệ tử đến gần được Chân Sư. Không thể nào xâm nhập vào ảo cảm dày đặc của ḷng tôn sùng, đang rung động với sự sống ngây ngất mănh liệt, đang tỏa ra từ năng lượng có tập trung của đệ tử, vẫn đang hoạt động qua bí huyệt nhật tùng.

 Đối với ảo cảm này có một số qui luật cổ xưa: Hăy giao tiếp với Đại Ngă qua trung gian của Chân Ngă và như thế quên đi phàm ngă, cùng các phản ứng, các ham muốn và các ư định của phàm ngă. Hoặc là ḷng bác ái của linh hồn không bị phàm ngă hóa bằng bất cứ cách nào và không t́m kiếm sự thừa nhận nào, lúc bấy giờ mới có thể tuôn đổ vào cơi ảo cảm đang bao quanh kẻ sùng tín và đám sương mù của ḷng sùng tín của y (mà y lấy làm hănh diện v́ đó) mới tan biến được.

Trên Con Đường Dự Bị sẽ có lúc xảy ra sự dao động rơ rệt giữa các cặp đối hợp cho đến khi t́m được con đường trung dung. Hoạt động này tạo ra ảo cảm về các cặp đối hợp, vốn có bản chất trọng trược, tối tăm, đôi khi đượm vẻ vui tươi, phúc lạc, đôi khi có vẻ ảm đạm, gây thất vọng, khi vị đệ tử bị dao động giữa các nhị nguyên tính này. T́nh huống này tiếp tục tồn tại (persists) khi nào c̣n đặt nặng vào t́nh cảm (feeling) – mà t́nh cảm này sẽ diễn ra trên cung bậc giữa sự vui mừng mănh liệt khi vị đệ tử t́m cách đồng nhất hóa chính ḿnh với đối tượng tôn sùng của ḿnh hay đạo tâm, hoặc không làm được những điều đó, do đó, ngă quỵ trước thất vọng đen tối nhất và nhận chịu sự thất bại. Tuy nhiên, tất cả những điều này có bản chất cảm dục và có tính chất dục vọng chớ không có tính chất linh hồn một chút nào. Trong nhiều năm và đôi khi trong nhiều kiếp sống, người t́m đạo vẫn c̣n bị giam nhốt trong ảo cảm này. Việc thoát ra khỏi thế giới xúc cảm và việc đệ tử an trụ vào thế giới của trí giác ngộ sẽ xua tan ảo cảm này, nó vốn gắn liền với đại tà thuyết chia rẽ. Thời điểm mà con người tách sự sống của ḿnh ra làm ba (tất nhiên y phải đối phó với các cặp đối hợp và tự đồng hóa ḿnh với một trong các cặp đó) y sẽ không chống nỗi với ảo cảm chia rẽ. Có lẽ quan điểm này có thể giúp ích hay là có lẽ nó vẫn c̣n là một bí nhiệm đối với bí mật của ảo cảm thế gian, ẩn giấu trong ư tưởng rằng sự phân chia làm ba này đang che giấu cái bí mật sáng tạo. Chính Thượng Đế đă tạo ra các cặp đối hợp – tinh thần và vật chất− và Ngài cũng tạo ra con đường trung dung, đó là con đường của trạng thái ư thức hay trạng thái linh hồn. Hăy suy gẫm kỹ về ư tưởng này.

  Bộ ba của các cặp đối hợp và của con đường nhỏ hẹp quân b́nh giũa chúng, tức con đường trung dung cao quư là phản ảnh trên cơi cảm dục đối với hoạt động của tinh thần, linh hồn và thể xác; của sự sống, ư thức và h́nh tướng, ba trạng thái của thiên tính – tất cả đều thiêng liêng như nhau. Khi người t́m đạo học được cách để tự ḿnh thoát ra khỏi ảo cảm mà chúng ta đă nói đến, th́ y lại khám phá ra một thế giới sương mù khác qua đó Thánh Đạo dường như đạt tới và qua đó y phải thấu nhập vào và như vậy tự ḿnh thoát khỏi ảo cảm của Thánh Đạo. Hỡi huynh đệ, các ảo cảm này là ǵ? Nếu bạn muốn biết rơ các ảo cảm đó là ǵ hăy nghiên cứu ba cám dỗ của Đức Jesus. Hăy nghiên cứu ảnh hưởng mà các trường phái xác định vốn nhấn mạnh về thiên tính (áp dụng về mặt vật chất) đặt vào tư tưởng của thế gian; hăy t́m ṭi về sự thất bại của các đệ tử do sự kiêu hănh, phức cảm của Đấng Cứu Thế, phức cảm của việc phụng sự và tất cả các lệch lạc khác đối với thực tại mà một người hay gặp phải trên nẻo Đạo, đang ngăn cản sự tiến bộ của y và đang làm hỏng việc phụng sự cho kẻ khác mà y sẽ đem lại. Hăy nhấn mạnh vào thể trí của riêng bạn, tính tự phát của đời sống linh hồn và đừng làm hư nó bằng ảo cảm của đạo tâm cao siêu được giải thích một cách ích kỷ, quá tập trung vào bản ngă, tự ḿnh làm vật hy sinh, sự quá hiếu thắng của bản ngă và sự tự đề cao trong công tác tâm linh – đó là một số ảo cảm trên Thánh Đạo.

[7:10:40 PM] Thuan Thi Do: http://www.jba.gr/Vietnamese/Ch%C3%BAa-Gi%C3%AA-xu-b%E1%BB%8B-c%C3%A1m-d%E1%BB%97.htm

[7:22:55 PM] Thuan Thi Do: Ảo cảm: giữa trang 105; bây giờ qua GLBN

[7:46:04 PM] Thuan Thi Do: Nên nhớ rằng Lửa, Nước, Không Khí của Huyền bí học hay cái gọi là “Các Nguyên Tố của Kỳ Tạo Lập Đầu Tiên”, không phải là những nguyên tố kết hợp trên cơi trần, mà là những nguyên tố đồng tính của Bản Thể - là Linh Hồn của cái trước. Rồi tiếp theo là những Nhóm hoặc những Đoàn Thất Nguyên (Septenary). Trong những đồ h́nh, người ta sắp đặt những nhóm này song song với những nguyên tử, những bản chất của sinh vật này được xem như là tương ứng với những nguyên tố kết hợp theo một cách giống hệt về mặt toán học như là tương đồng (trên nấc thang đi xuống của sự phát triển). Dĩ nhiên, điều này chỉ nhằm nói tới các đồ h́nh của những nhà Huyền bí học bí mật phác hoạ; v́ nếu nấc thang của những Thiên Thần được đặt song song với nấc thang của những nguyên tử của khoa học - từ chất Helium theo giả thuyết (hypothetical Helium) cho đến chất Uranium – dĩ nhiên là người ta thấy chúng có khác nhau, v́ những nguyên tử chỉ có bốn hạng thấp nhất với vai tṛ là các phần tương ứng trên cơi giới Cảm dục (cơi trung giới – The Astral Plane), nên ba nguyên khí cao trong một nguyên tử hay đúng hơn là trong phân tử, hay là trong nguyên tố hoá học, th́ chỉ có con mắt giác ngộ (Dangma’s eys) của bậc đắc đạo mới nhận thức được mà thôi. Nhưng rồi, nếu hoá học muốn ở trên con đường ngay thẳng, th́ nó phải sửa chữa theo bảng sắp hạng do các nhà Huyền bí học thực hiện, đó là điều ắt nó không chịu làm. Theo Triết học Bí truyền, mỗi phần tử vật chất đều tương ứng với và tuỳ thuộc vào bản thể cao hơn - Hữu thể (Being) mà bản chất của nó tuỳ thuộc vào; và trên sao dưới vậy, Linh Hồn do cái thiêng liêng sinh ra,


[7:58:35 PM] Thuan Thi Do: As seen above, the very first group of the Rupa Angels is quaternary, an element being added to each in descending order. So are the atoms, adopting the phraseology of chemistry, monatomic, diatomic, and tetratomic, progressing downwards. Let it be remembered that Fire, Water, and Air, or the “Elements of primary Creation” so-called, are not the compound Elements they are on Earth, but noumenal homogeneous Elements — the Spirits thereof. Then follow the septenary groups or hosts. Placed on parallel lines in a diagram with Atoms, the Natures of those Beings would be seen to correspond in their downward scale of progression to composite elements in a mathematically identical manner, as to analogy. This refers, of course, only to diagrams made by the Occultists; for were the scale of Angelic Beings to be placed on a parallel line with the scale of the chemical atoms of Science — from the hypothetical Helium down to Uranium — they would of course be found to differ. For these have, as correspondents on the Astral plane, only the four lowest orders — the higher three principles in the atom, or rather molecule or chemical element, being perceptible only to the initiated Dangma’s eye. But then, if Chemistry desired to find itself on the right path, it would have to correct its tabular arrangement by that of the Occultists — which it may refuse to do. In Esoteric Philosophy, every physical particle corresponds to and depends on its higher noumenon — the Being to whose essence it belongs; and above as below, the Spiritual evolves from the Divine, the psycho-mental from the Spiritual — tainted from its lower plane by the astral — the whole animate and (seemingly) inanimate Nature evolving on parallel lines, and drawing its attributes from above as well as from below.

† The number seven does not imply only seven Entities, but seven groups or Hosts, as explained before. The highest group, the Asuras born in Brahma’s first body — [[Footnote continued on next page]]
[8:17:10 PM] Thuan Thi Do: lần sau học trang 594 GLBN
[8:29:08 PM] Phuc: có bạn hỏi các vị trong h́nh này như thế nào ? link: https://scontent-hkg3-1.xx.fbcdn.net/hphotos-xtp1/v/t1.0-9/10653847_1572343049653440_1199864179857914811_n.jpg?oh=9b6fcd350405d93eead198c9e5582e5e&oe=567CF995
[8:31:19 PM] Phuc: ngoài ra TTH có khái niệm twin flame (tiếng Việt tạm dịch là linh hồn sinh đôi)
[8:31:46 PM] Phuc: link nói về việc này: https://www.youtube.com/watch?v=LZeUEULgGf8
[8:38:38 PM] Phuc: Elizabeth Clare ở web http://www.summitlighthouse.org/
[8:43:52 PM] Thuan Thi Do: Of course, she’s got to recognize you, too, so that’s an important reason to decree also. Because you can tell her all day, “You’re my twin flame,” and she can say, “Get lost,” you know.
[8:56:28 PM] Thuan Thi Do: http://minhtrietmoi.org/Bailey/Tham%20Thien%20Huyen%20Mon.htm
[8:56:55 PM] Thuan Thi Do: Ngày 9-6-1920.
Trọng lượng riêng và Dung tích của Thể nguyên nhân.
Vấn đề thể nguyên nhân bao gồm nhiều điều để các nhà tư tưởng suy ngẫm. Không thể nêu rơ h́nh dạng và kích thước của nó được, v́ đó la một bí mật điểm đạo, nhưng tôi có thể gợi lên vài ư tưởng để cho những ai quan tâm có thể xem xét.
Vậy thể nguyên nhân là ǵ? Đừng nói ngay rằng đó là thể của những nguyên nhân, v́ nói như thế có vẻ mơ hồ, không rơ ràng. Giờ đây, chúng ta hăy xem xét thể này và t́m ra những thành phần cấu tạo nó.
Trên con đường tiến hóa giáng hạ chúng ta có cái gọi là Hồn khóm, thường được mô tả (theo ngôn từ thế gian) là một tập hợp các tam nguyên ở trong một bọc có ba lớp làm bằng chất tinh hoa của Chân thần. Trên con đường tiến hóa thăng thượng, có những nhóm thể nguyên nhân tương ứng cũng được cấu tạo tương tự, với ba yếu tố xen vào. [30]
Thể nguyên nhân là tập hợp của ba hạt nguyên tử trường tồn, ở trong một bọc làm bằng tinh chất của cơi trí….Điều ǵ xảy ra khi người thú trở thành một con người thực sự, một sinh linh biết suy nghĩ? Đó là cái ngă tiến đến gần cái phingă nhờ phương tiện trí tuệ, v́ con người là “sinh linh mà trong đó tinh thần cao nhất và vật chất thấp nhất được liên kết bằng trí thông tuệ.” Câu này có ư nghĩa ǵ? Tức là: khi người thú tiến đến tŕnh độ thích hợp, khi xác thân y đă điều hợp đúng mức, khi t́nh cảm hay dục tính đă đủ mạnh để tạo cơ bản cho sự sinh tồn và hướng dẫn cuộc sống bản năng, và khi mầm trí năng đă ăn sâu đến mức giúp y có được kư ức của bản năng và sự liên hợp các ư tưởng, là điều có thể thấy ở một con thú nhà mức trung b́nh, th́ bấy giờ Tinh thần đang giáng thế (đă thu nạp một nguyên tử trên cơi trí) xét rằng đă đến lúc chiếm hữu các hạ thể. Các Hỏa Chân quân được vời đến, các Ngài giúp chuyển sự phân cực từ nguyên tử thấp nhất của Tam nguyên đến nguyên tử thấp nhất của Phàm nhân. Ngay cả lúc này, Ngọn Lửa nội tại cũng không thể xuống thấp hơn cơi phụ thứ ba của cơi trí. Ở đó hai bên gặp nhau, nhập một và tạo thành thể nguyên nhân. Trong thiên nhiên tất cả đều tùy thuộc lẫn nhau, và Chủ thể tư tưởng ở nội tâm không thể chế ngự được tam giới nếu không có sự giúp đỡ của phàm ngă. Sự sống của Thượng Đế Ngôi một phải ḥa hợp với sự sống của Ngôi hai và phải dựa vào hoạt động của Ngôi ba.

V́ thế, vào thời điểm biệt lập ngă tính (từ dùng để diễn tả giờ phút tiếp xúc này) ở cơi phụ thứ ba của cơi trí chúng ta thấy một điểm sáng bao bọc ba hạt nguyên tử và tất cả đều [31] được bọc trong một lớp vật chất cơi trí. Sau đó, những việc phải làm gồm có:
1. Khiến cho điểm sáng ấy bùng lên thành ngọn lửa bằng cách quạt đều và cho thêm chất đốt.
2. Làm cho thể nguyên nhân tăng trưởng và mở rộng từ một khối bầu dục không màu (giữ Chân nhân trong đó như ḷng đỏ ở trong vỏ trứng) thành một khối đẹp đẽ hiếm có, gồm trong đó tất cả những màu sắc của cầu vồng. Đây là một sự kiện huyền môn. Đến đúng lúc thể nguyên nhân sẽ rung chuyển với sự chói sáng bên trong và ngọn lửa nội tại đang tỏa sáng sẽ dần dần chiếu từ trung tâm ra ngoại vi. Sau đó, ngọn lửa sẽ xuyên thủng chu vi, dùng thể này (là sản phẩm của vô số kiếp đau khổ và cố gắng) làm mồi cho nó. Nó đốt tan tất cả, và cháy leo lên tận Tam nguyên. Khi đă hợp nhất với Tam nguyên, nó sẽ được tái hấp thu vào tâm thức tinh thần, mang về cho Chân thần (hăy dùng sức nóng làm biểu tượng) một nhiệt lượng cường liệt, hay phẩm tính của màu sắc hoặc rung động mà trước đó c̣n thiếu.
V́ chúng ta phải nh́n mọi việc theo quan điểm của Phàm ngă cho đến khi đạt được tầm nh́n của Chân ngă, nên công việc của Phàm nhân trước hết là tô điểm, xây dựng và mở rộng thể nguyên nhân. Kế đến là thu sự sống của phàm ngă vào trong đó, rút hết những ǵ tốt đẹp của cuộc sống phàm ngă đem chứa vào thể của Chân nhân. Chúng ta có thể gọi việc thu hút sự sống này là Ma cà rồng Thiêng liêng, v́ luôn luôn ác là mặt trái của thiện. Khi đă hoàn tất việc này rồi, ngọn lửa bèn đốt ngay thể nguyên nhân, lặng nh́n một cách hoan hỉ trong khi việc thiêu hủy tiếp diễn. Rồi Ngọn Lửa – là con người đang sống ở nội tâm, là tinh thần của sự sống thiêng liêng – được cháy tự do và leo lên đến tận nguồn của nó.
Trọng lượng riêng của thể nguyên nhân ấn định thời điểm giải thoát và đánh dấu mức hoàn tất công việc xây dựng và tô [32] điểm, khi Ngôi đền Solomon đă xây xong và trọng lượng (hiểu theo nghĩa huyền bí) của thể nguyên nhân đă đạt được tiêu chuẩn mà Đ.Đ.C.G. mong muốn. Bấy giờ việc tiêu hủy xảy ra và sự giải thoát gần kề. Khi mùa xuân đă qua, cuối mùa hạ cây cối đă xanh tốt rườm rà, th́ giờ đây phải cảm được sức tan ră của mùa thu, – chỉ có điều lần này sức mạnh ấy được cảm thấy và áp dụng ở các cấp trí tuệ chứ không ở cấp hồng trần. Lưỡi ŕu đă đặt vào gốc cây (sắp đốn nó), nhưng tinh hoa của sự sống đă được chứa vào kho thiêng liêng.
Dung tích của thể nguyên nhân là sự tích lũy những ǵ tốt đẹp của mỗi kiếp sống qua tiến tŕnh tuần tự và chậm chạp. Việc xây dựng lúc đầu tiến hành rất chậm, nhưng gần cuối cuộc luân hồi, – trên Con đường Dự bị và trên Con đường Điểm đạo – th́ diễn tiến nhanh hơn. Công tŕnh đă được dựng lên và mỗi viên đá đều được thu góp từ cuộc sống cá nhân. Trong mỗi giai đoạn này trên Đường Đạo, việc tô điểm và hoàn thành Ngôi Đền được tiến hành nhanh chóng hơn nữa…
Nói chung, chu vi của thể nguyên nhân thay đổi tùy theo loại và tùy theo cung. Một vài thể Chân nhân có h́nh dáng tṛn hơn các thể khác. Một số thể giống h́nh bầu dục, c̣n những thể khác lại dài hơn. Nhưng dung tích và khả năng thích ứng mới là vấn đề quan trọng, và quan trọng nhất là khả năng thẩm thấu huyền bí của noăn hào quang thấp khiến nó có thể tiếp xúc được với các Chân nhân khác mà đặc tính vẫn giữ nguyên; có thể ḥa hợp với các thể nguyên nhân khác mà vẫn giữ được cá tính; và có thể hấp thu những ǵ cần thiết mà vẫn giữ được nguyên h́nh.
[9:16:47 PM] Thuan Thi Do: Ngày 16-6-1920.
4. Điều kiện của Thể nguyên nhân.
Hôm nay chúng ta đề cập đến yếu tố thứ tư trong việc [33] chọn lựa phương pháp thiền, tức là điều kiện của thể nguyên nhân.
Chúng ta đă bàn đến sự liên hệ của thể nguyên nhân với Phàm nhân hay phàm ngă, cho thấy sự tương tác và tùy thuộc lẫn nhau của cả hai. Nhờ hành thiền huyền môn một cách đều đặn, liên tục, nhờ dần dần định tĩnh hạ trí bằng cách tập trung và khôn ngoan theo lối thiền của cung Chân ngă, cũng như tham thiền theo cung của phàm ngă để lập thế thăng bằng, mối liên hệ kết hợp thể nguyên nhân và phàm ngă ngày càng trở nên trong sáng và đầy đủ hơn. Sự liên hệ đó rốt cuộc đă chuyển sự phân cực từ phàm ngă đến Chân ngă và về sau sự phân cực c̣n cao hơn cả hai để tập trung vào tâm thức của Chân thần. Chúng ta đă bàn về vấn đề này theo quan điểm thấp, nh́n từ lập trường của một người trong tam giới.
Hôm nay chúng ta bàn đến vấn đề theo quan điểm của Chân ngă, ở tầm mức của Chân nhân, và xem xét sự liên hệ của Chân nhân với Đ.Đ.C.G., với các Chân nhân ở chung quanh, và với Chân thần. Thật khó làm ǵ hơn là đưa ra vài nét khái quát, v́ tôi có thể nói nhiều nhưng các bạn chỉ hiểu được chút ít, và nhiều điều c̣n quá huyền bí, chưa thích hợp để phổ biến cho đại chúng.
Tôi có thể truyền đạt ba điều, nếu lấy đó mà tham thiền một cách chín chắn, khôn ngoan bạn có thể được soi sáng:
Chân nhân ở trên cảnh giới của ḿnh hữu thức nhận ra được sự liên hệ với Chân sư, và t́m cách chuyển tâm thức đó cho Phàm nhân.
Chân nhân ở trên cơi của ḿnh, không vướng bận với không gian và thời gian và (v́ biết cả tương lai cũng như quá khứ) nên t́m cách làm cho cứu cánh mong muốn ấy mau chóng trở thành hiện thực.
[34] Chân nhân ở trên cơi của ḿnh liên hệ trực tiếp với các Chân nhân khác có cùng một cung, cùng một cung cụ thể hay cung trừu tượng tương ứng. V́ các Chân nhân đều biết rằng sự tiến bộ càng nhanh khi cùng hoạt động trong nhóm, nên t́m cách trợ giúp nhau trên cảnh giới đó. Những sự kiện này, các môn sinh đă hiểu được phân nửa. Tôi sẽ tŕnh bày thêm vài điều để làm sáng tỏ hơn.
Sự liên hệ của Chân nhân với Đ.Đ.C.G.
Sự liên hệ của Chân nhân với một vị Chân sư được hữu thức nhận ra trong giai đoạn này, tuy nhiên đây chính là sự phát triển trên đường tiến hóa. Như chúng ta đă biết, có sáu mươi tỷ đơn vị tâm thức (hay tinh thần) trong các đẳng cấp tiến hóa của nhân loại. Họ đang ở cấp Chân nhân, dù hiện nay con số này hơi ít đi v́ thỉnh thoảng lại có những người đạt mức điểm đạo thứ tư. Các Chân nhân này ở trong những giai đoạn phát triển khác nhau, đều liên kết với Chân thần (Tinh thần hay là Cha ở trên Trời) của ḿnh, theo cách cũng giống như Chân nhân liên kết với Phàm nhân (chỉ khác là trong vật chất tinh vi hơn).
Như các bạn biết, mọi Chân thần đều ở dưới sự kiểm soát của một trong những Đức Hành Tinh Thượng Đế, hay đúng ra là một thành phần của tâm thức Ngài. Trên cảnh giới của ḿnh, các Chân nhân cũng ở trong t́nh trạng tương tự. Một Đấng Cao cả thuộc cung của các Chân nhân này giám sát sự tiến hóa tổng quát của họ, trông nom họ theo từng nhóm. Những nhóm này được h́nh thành theo ba điều kiện:
a. Tùy theo cung phụ của cung Chân nhân.
b. Tùy theo giai đoạn biệt lập ngă tính hay là lúc nhập vào hàng nhân loại.
c. Tùy theo tŕnh độ tiến hóa.
Đấng Cao cả nói trên sẽ giám sát tổng quát, nhưng dưới Ngài c̣n có nhiều vị Chân sư, mỗi vị có cung riêng và nhóm riêng, gồm những người liên kết với các Ngài theo từng giai [35] đoạn, do nghiệp quả và do mức độ rung động. Dưới các Chân sư là những đệ tử đă có tâm thức Chân ngă, nhờ đó họ có thể làm việc trên cơi của Chân nhân và trợ giúp những Chân nhân có thể nguyên nhân kém phát triển hơn họ.
Tất cả đều theo đúng định luật một cách tốt đẹp. V́ việc phát triển thể nguyên nhân tùy thuộc vào sự tiến bộ đạt được ở ba thể phàm nhân, do đó Chân nhân được hai vị đệ tử trợ giúp ở cấp thấp hơn. Một vị làm việc trên các cấp t́nh cảm và báo cáo cho vị trợ giúp thể trí. Vị này mới báo cáo cho vị trợ giúp thể nguyên nhân để vị ấy tŕnh lại cho Chân sư biết. Toàn bộ công việc này được thực hiện có sự cộng tác của tâm thức Chân ngă ở trong thể nguyên nhân. Như vậy chúng ta thấy rằng có năm yếu tố liên quan đến việc trợ giúp sự phát triển của Chân nhân trên đường tiến hóa:
1. Đấng Cao cả chăm sóc cung Chân nhân.
2. Vị Chân sư của nhóm y.
3. Một vị đệ tử trợ giúp tâm thức thể nguyên nhân.
4. Một vị đệ tử giúp thể trí.
5. Một vị phù trợ ở cơi t́nh cảm.
Qua một thời gian lâu dài gồm nhiều kiếp sống, Chân nhân vẫn chưa thực sự ư thức được Phàm nhân. Sự liên kết từ lực vẫn hiện hữu, nhưng chỉ bắt đầu phát triển khi cuộc sống Phàm nhân đạt mức có điều ǵ để thêm vào dung tích của thể nguyên nhân – lúc đầu là một thể bé nhỏ, không màu sắc và không đáng kể. Tuy nhiên, đă đến lúc những viên đá hoàn hảo lần đầu tiên được mang từ cuộc sống Phàm nhân đến thể nguyên nhân. Con người là kẻ xây dựng, là nhà nghệ sĩ, tô điểm lên thể này các màu sắc đầu tiên. Bấy giờ Chân nhân mới bắt đầu chú ư đến Phàm ngă. Ban đầu rất ít khi, nhưng ngày một nhiều hơn, cho đến những kiếp mà Chân nhân cố [36] gắng rơ rệt để chế ngự Phàm ngă, mở rộng đường liên thông và chuyển đến cho ư thức năo bộ hồng trần biết sự hiện hữu và mục đích của cuộc sống Chân nhân. Khi việc này đă hoàn tất, ngọn lửa nội tại đă lưu thông tự do hơn, th́ một số kiếp được dùng để củng cố ấn tượng đó, làm cho tâm thức nội tại của Chân nhân trở thành một phần của cuộc sống tỉnh thức trong thân xác. Ngọn lửa ngày càng chiếu xuống cho đến khi các thể dần dần chỉnh hợp và hành giả bước lên Con đường Dự bị. Y vẫn chưa biết được đoạn đường phía trước mà chỉ ư thức được chí nguyện tuy thô sơ nhưng nồng nhiệt và niềm khao khát thiêng liêng bẩm sinh. Y hăng hái làm lành, khao khát muốn hiểu biết và luôn luôn mơ tưởng đến một người nào hay một điều ǵ cao cả hơn y. Tất cả đều dựa vào niềm tin sâu sắc rằng trong cố gắng phụng sự nhân loại y sẽ đạt được mục tiêu mơ ước, viễn ảnh sẽ thành sự thực, niềm khao khát sẽ được hài măn và chí nguyện sẽ hoàn thành.

Đ..
[9:17:39 PM] Thuan Thi Do:

Đ.Đ.C.G. bắt đầu hành động và y được giáo huấn như đă nói trước đây. . . . Từ trước đến giờ, các Huấn sư chỉ trông nom và hướng dẫn, chứ không trực tiếp làm việc với chính phàm nhân. Mọi sự đều để cho Chân nhân và sự sống thiêng liêng (bên trong) thực hiện kế hoạch. Sự chú ư của Chân sư chỉ được hướng đến Chân nhân trên cơi thượng thiên. Chân nhân dồn mọi nỗ lực để tăng cường nhịp rung động, buộc các hạ thể ngoan ngạnh phải đáp ứng và tuân phục sức mạnh chế ngự ngày càng tăng. Đây phần lớn là việc gia tăng sức nóng hay là lửa, và do đó mà tăng cường khả năng rung động. Ngọn lửa của Chân nhân ngày càng chói rạng cho đến khi việc tăng cường đă hoàn tất, và lửa tinh luyện trở thành Ánh sáng Khai ngộ. Hăy suy ngẫm kỹ câu này. Ở trên sao, ở dưới vậy. Trên mỗi nấc thang tiến hóa, quá tŕnh này vẫn tái diễn. Vào cuộc [37] Điểm đạo thứ ba, Chân thần bắt đầu biết đến Chân nhân. Công việc càng tiến hành nhanh chóng v́ chất liệu tinh vi hơn và cũng v́ sự cản trở chỉ có trong tam giới (ba hạ thể) chứ không ở đâu khác.
Giờ đây, sự đau khổ chấm dứt đối với vị Chân sư. Đó là sự đau khổ mà chúng ta biết trên địa cầu, phần lớn là sự đau khổ trong vật chất. C̣n sự đau khổ trong nhận thức (chứ không do chống kháng) th́ chỉ những cấp tiến hóa cao nhất mới cảm được, vâng, nó lên tận Đức Thượng Đế. Nhưng tôi đă nói ngoài đề rồi và các bạn là những người c̣n bị vật chất chi phối, hầu như không thể hiểu.

Chân Nhân trong việc tự phát triển.
Chân nhân cố gắng đạt mục tiêu mong muốn bằng ba cách:–
1. Bằng cố gắng rơ rệt trên các cấp độ trừu tượng. Chân nhân muốn tiếp xúc và bao bọc hạt nguyên tử trường tồn thượng trí, là bước đầu nó tiến đến Tam nguyên.
2. Bằng cách dùng màu sắc và âm thanh phù hợp để kích thích và làm sinh động. V́ thế phải làm việc từng nhóm, dưới sự hướng dẫn của Chân sư.
3. Bằng cố gắng thường xuyên để hoàn toàn chế ngự phàm ngă là điều mà Chân nhân không mấy thích. Bởi v́ Chân nhân có khuynh hướng hài ḷng với tâm thức và chí nguyện trên cảnh giới của ḿnh. Nên nhớ rằng chính Chân nhân cũng có một vài điểm cần phải phấn đấu để tự chế ngự. Sự từ chối luân hồi không những có ở cấp Chân thần mà c̣n có cả ở trên cơi của Chân ngă. Chân nhân cũng nhắm đến một số phát triển phụ thuộc vào các yếu tố thời gian và không gian (hiểu theo ư nghĩa trong tam giới), như mở rộng chu vi thể nguyên nhân bằng cách nghiên cứu khoa thần giao cách cảm thiêng liêng, khoa tâm lư thái dương hệ và kiến thức về các định luật của lửa. [38]
[9:17:53 PM] Thuan Thi Do: http://minhtrietmoi.org/Bailey/Tham%20Thien%20Huyen%20Mon_files/image004.png
[9:40:51 PM] *** Call ended, duration 3:36:30 ***