Họp Thông Thiên Học qua Skype ngày 14 tháng 2 năm 2015

Xin bấm vào đây để download âm thanh

 

In this series of diagrams, the following symbols are employed:( Page 232 ) In Diagram XXXI we have illustrated the condition of an intelligent and cultured, layman. The true man, the Monad, is shown on his own plane, that of Anupadaka. He expresses, ormanifests himself in his three aspects on the plane of Âtma.: these we will term Âtma. [1], Âtma. [2]and Âtma. [3], and have marked on the diagrams as A1, A2 and A3 respectively.
[6:19:00 PM] Thuan Thi Do: http://thongthienhoc.net/English/causal/images/Arthur_E_Powell_-_The_Causal_Body___The_Ego_img_39.jpg
[6:19:13 PM] Thuan Thi Do: http://thongthienhoc.net/English/causal/images/Arthur_E_Powell_-_The_Causal_Body___The_Ego_img_40.jpg
[6:19:32 PM] Thuan Thi Do: Of these three aspects, the first [ A1] remains on the planeof Âtma.: the second descends, or moves outwards, to the plane of buddhi, where we will call it Buddhi [1], marking, it B1. The third descends or moves out through the two planes, and shows, itself in the higher mental world as Manas, or M: this aspect, also, as it descends or moves through the plane of Buddhi, we will call it Buddhi [2] or B2.

These three outer or lower manifestations, A1, B1 and M, taken together, constitute, as we know, the soul or ego, in his causal body, as indicated in the diagram by the dotted line which encloses them.

Thus we see that, in addition to the principles of Âtma., buddhi and manas, expressed in the ego as A1, B1 and M, there is also , still latent and undeveloped, another aspect of Buddhi [B2], and twoaspects of Âtma. [A1 and A2], making three further aspects still to be brought out of latency, and developed into activity.

Now in the Christ Himself, the Perfect Man, these principles also exist, in exactly the same order: but in His case, they are, of course, fully developed, and, moreover, mystically one with the second Person of the Trinity. One of the gifts conferred by ordination is the linking of certain of these principles, in the ordinand, ( Page 233 ) with the corresponding principles of the Christ, so that a definite channel is made, down which spiritual strength and wisdom flow, up to the fullest limit of the ordinand's receptivity.

The Ordination to the degree of Sub-Deacon confers no powers, but assists in preparing the way for Ordination to the degrees of Deacon, the lowest of the three Major Orders. The bishop therefore attempts gently to widen the connection [the antahkarana, see p.190] between the ego and the lower vehicles of the Sub-Deacon [see Diagram XXXII-A].

http://thongthienhoc.net/English/causal/images/Arthur_E_Powell_-_The_Causal_Body___The_Ego_img_41.jpg
[6:36:53 PM] Thuan Thi Do: http://www.newadvent.org/cathen/10332b.htm
[7:00:41 PM] Thuan Thi Do: At the Ordination of a deacon, the link between the ego and his vehicles is widened, to become a channel, and also the higher manas [M] is linked with the corresponding principle of the Christ. In some cases buddhi [B1] may also be awakened, and made to glow slightly, thereby establishing a slight line of connection between it and the higher manas. These effects are indicated in Diagram XXXII-B.

This opening of the channel is so great a departure from ordinary life that it can be done only by stages, and the first

step towards it, in the Ordination of a deacon, may be regarded as practically a psychic surgical operation.

The threefold influence, of which a bishop is so especially the custodian `[as we shall see presently], is called strongly into manifestation, and poured forth, so that, by playing upon the corresponding principles of the ordinand, it stirs them into sympathetic vibration; they therefore become, at any rate for the time, enormously more active and receptive than ever before.

At the conclusion of the ceremony of ordination the bishop makes a final cross, of which the express purpose is to thicken the walls of the much-expanded link between the ego and the personality, to harden ( Page 234 ) them, and hold them more firmly in their new form. It is as though a sort of framework were erected within, a lining to prevent the widened channel from contracting.

The establishment of the link between the deacon and the Christ enables the higher manas of the Christ to influence that of the deacon, and to stir it into beneficent activity. Needless to say, it does not all follow that it will so affect it; that depends on the deacon. At least the way is laid open, the communication is established, and it is for him to make of it what he can.

In the case of the priest, the connection is carried a stage further, and several important developments take place.

At the first imposition of the hands, Âtma. and buddhi in the priest [A1,B1 and M] are made to glow with indescribable fervour, by sympathetic vibration, in harmony with the blinding light of thecorresponding principles in the Christ. The glow is usually slight in Âtma., but more marked inbuddhi. The influx rushes into the ordinand's Âtma., buddhi and manas, through the corresponding principles of the bishop himself.

Further, a line between Âtma. and buddhi is established, while that already existing between buddhi and higher manas is intensified. The channel between higher manas and the lower vehicles is also widened [see Diagram-XXXIII-C] .

At the second imposition of the hands, the hitherto latent principle of buddhi [B2] is called into activity, and linked with that of the Christ, while the link between it and higher manas is strengthened.

The link between the priest's own Âtma., buddhi and manas, [A1,B1 and M] is opened still more, to permit the flow of more force [see Diagram XXXIII-D].
[7:04:01 PM] Thuan Thi Do: Thus the priest becomes, in a very real sense, an outpost of the consciousness of the Christ, so that he becomes "His man"—the "parson" in fact, that word meaning the same as the person [see p.213] who represents the Christ in a certain parish.

At the ordination of the priest, his ego is more ( Page 235 ) definitely awakened, so that he can act directly upon other egos at the level of the causal body. It is, in fact, this relation which gives him that power to straighten out the distortion, caused by deviation from the path of right, which in ecclesiastical terminology, is known as the power to "remit sin".

The anointing of the hands of the priest,with oil of catechumens,which is constructive in its effects, is a setting of them apart for the purpose of his office and a moulding of them for the transmission of the power of the Christ. The hand of the priest is thus a specialised instrument that can transmit a blessing. The anointing brings the opening forces to bear upon the hands, and endues them with power, whereby, along the lines that are made in the anointing, the influence can pour out.

The process is something like the magnetisation of steel: the anointing operates so that forces can pass through the hands, and at the same time tempers the hands, so that they can bear the forces, and transmit the power safely.

The bishop makes one cross, which is intended to arrange for the distribution, of the force which rushes down the diagonal line between

Âtma.[1], Buddhi[1] and Manas, and a second cross which arranges for the dispensing of the force which flows from Buddhi [2].
[7:07:20 PM] Thuan Thi Do: http://thongthienhoc.net/English/causal/images/Arthur_E_Powell_-_The_Causal_Body___The_Ego_img_42.jpg

1. NGÀI LÀ VỊ LĂNH ĐẠO VÀ HƯỚNG DẪN TINH THẦN CỦA CHÚNG. LÚC BẮT ĐẦU LÀM VIỆC, NGÀI PHÂN CHIA CÁC ĐỐM LỬA CỦA CẢNH GIỚI THẤP (2), ĐANG PHIÊU BẠT VÀ RUNG ĐỘNG V̀ VUI VẺ TRONG TRÚ SỞ SÁNG NGỜI (3), VÀ TẠO THÀNH MẦM MỐNG CỦA CÁC BÁNH XE (GERMS OF WHEELS). NGÀI ĐẶT CHÚNG VÀO SÁU HƯỚNG KHÔNG GIAN (SIX DIRECTIONS OF SPACE) VÀ MỘT ĐỨNG GIỮA, GỌI LÀ BÁNH XE TRUNG ƯƠNG (CENTRAL WHEEL).  

Như đă giải thích, “Bánh xe” là những trung tâm thần lực mà vật chất nguyên thuỷ của Vũ Trụ toả ra ở chung quanh và sau khi đă trải qua tất cả sáu giai đoạn củng cố, đông đặc, nó trở nên khối cầu tṛn và sau cùng trở thành những bầu thế giới. Một trong các tín điều căn


  1 Xem quyển Tự điển cổ điển Ấn Độ của Dowson. 2 Những nguyên tử khoáng chất. 3 Những đám mây khí thể (Gaseous Clouds). 176 379 Lời b́nh luận về Bảy đoạn Thánh Kinh


  bản của Vũ trụ học nội môn, là trong những Thiên Kiếp (Kalpa), th́ sự VẬN ĐỘNG (MOTION) vẫn thoi thóp và rung động xuyên qua mỗi nguyên tử trong những chu kỳ nghỉ ngơi, lần đầu tăng trưởng cái khuynh hướng chuyển động xoay ṿng kể từ lúc thức tỉnh đầu tiên của vũ trụ cho đến một “Ngày” mới (của Phạm Thiên). “Thần Linh trở nên một con TRỐT XOÁY (WIRLWIND)”. Người ta có thể hỏi, v́ tác giả không quên hỏi: “Ai dám quả quyết rằng có sự khác nhau trong sự Chuyển Động này, v́ toàn thể Thiên Nhiên đă bị thu gọn về bản thể nguyên thuỷ và không một ai thấy được điều này – ngay cả đến một vị Thiền Định Đế Quân, các Ngài đều đang nhập Niết Bàn, cũng không thấy - Giải đáp của câu hỏi này là: Trong Thiên Nhiên, mọi vật đều được xét đoán theo luật tương đồng. Dù các Đấng Thiêng Liêng Cao Cả nhất (những vị Thiên Thần hay là những vị Thiền Định Phật [Dhyani-Buddha]) đều không thể thấu triệt những sự bí mật rất xa ngoài Hành tinh hệ chúng ta và Càn Khôn hữu h́nh này, song vào những thời đại cổ, có những nhà đại tiên tri và những nhà linh thị danh tiếng lại đủ sức nhận thức được sự bí mật của Hơi Thở và sự Chuyển Động bằng cách hồi niệm, khi mà những hệ thống Thế giới c̣n ở trong thời kỳ nghỉ ngơi và ch́m sâu trong giấc ngủ có định kỳ.   Những Bánh Xe này cũng được gọi là những Pháp Luân (Rotae)- tức là những bánh xe đang chuyển động của những tinh cầu trên trời, chúng dự phần vào việc tạo lập thế gian – khi nó có ư nghĩa được xem như cái nguyên lư làm chuyển động các ngôi sao và các hành tinh; v́ trong kinh bí pháp Kabalah những bánh xe này được tượng trưng bằng những vị Auphanim, những vị Thiên Thần của các Bầu hành tinh và của các Ngôi sao, mà chúng là những Linh Hồn làm linh hoạt (1). Định luật vận động xoay ṿng (vortical movement) trong vật chất nguyên thuỷ là một trong những quan niệm cổ nhất của triết học Hy Lạp, mà những vị Hiền giả đầu tiên trong lịch sử xứ ấy, hầu hết đều là những vị Điểm đạo đồ trong các Bí pháp. Người Hy Lạp học được điều ấy của người Ai cập, người Ai Cập học được của người Chaldea, và những người này là môn đệ của người Bà La Môn về đạo học bí truyền. Leucippus và Democritus đă từng dạy rằng chuyển động xoay ṿng của những nguyên tử và các bầu thế giới vẫn có từ thuở vô cùng (2). Các triết gia Hicetas, Heraclides, Ecphantus,


  1 Xem quyển kinh Kabalah Denudata, phần nói về “Linh Hồn” (“De Anima”), trang 113. 2 “Giáo lư nói về sự quay tṛn của trái đất xung quanh một trục do Hicetas (một người thuộc môn phái Pythagoras) đă dạy, có thể là vào khoảng gần 500 năm trước Thiên Chúa. Giáo lư này cũng được môn đệ của ông Ecphantus và Heraclides, một môn đệ của triết gia Plato, dạy như thế. Vào khoảng năm 281 trước Thiên Chúa, nhờ vào những giả thuyết phù hợp với những kết quả của sự quan sát, triết gia Aristarchus of samos đă chỉ cho chúng ta thấy sự bất động của mặt trời và sự xoay quanh trên quỹ đạo của trái đất. Vào năm 150 trước Thiên Chúa, nhà triết học Selecus of Seleucia, ở thành Tigris, cũng đă dạy thuyết Nhật Tâm [thuyết này cũng đă được 381 Lời b́nh luận về Bảy đoạn Thánh Kinh


  Pythagoras và tất cả các môn dệ của các Ngài, đều dạy rằng trái đất xoay tṛn; và các triết gia Aryabhata ở Ấn Độ, Aristarchus, Seleuchus và Archimedes đều đă ước tính sự xoay tṛn của trái đất một cách khoa học giống như các nhà thiên văn học bây giờ đang làm; trong khi đó, triết gia Anaxagoras cũng đă biết rơ thuyết nói về những Xoáy Nguyên Tố (Elemental Vortices) và chính ông đă chủ trương thuyết này từ 5.000 năm trước Thiên Chúa hay là gần 2.000 năm trước khi các nhà vật lư học Galileo, Descartes, Swedenborg khám phá ra và cuối cùng là ông W. Thomson (1) có những hiệu chỉnh không quan trọng. Tất cả những sự hiểu biết như thế chỉ là một tiếng vang của các giáo lư cổ truyền (nếu công tâm mà nói), một sự giải thích điều này đang được thực hiện. Một câu hỏi mà người ta cần phải bàn riêng là, trong vài thế kỷ qua, làm thế nào mà con người biết được những quan niệm tương tự và những điều kết luận được dạy


  Đức Pythagoras dạy vào năm 500 trước Thiên Chúa – H.P.B.]. Người ta cũng nói rằng nhà vật lư học Archimedes đă đề xướng thuyết nhật tâm (the heliocentric theory), khi ông viết một tác phẩm có nhan đề là Sa Thạch (psamites). Đức Aristotle cũng đă dạy một cách rơ ràng về việc trái đất có h́nh cầu, ông đă đưa ra bằng chứng là h́nh dạng của bóng địa cầu lúc nguyệt thực (quyển De Coelo của Aristotle, phần II, chương XIV). Ông Pliny cũng bảo vệ quan niệm này (quyển Vạn vật học, II, 65). Hơn 1.000 năm qua, dường như người ta không c̣n biết tới những quan niệm này nữa”. (Quyển Sự Sống của Thế Giới [World life]) của Winchell, trang 551 – 552. 1 Quyển Nói về những nguyên tử xoáy tṛn (On Vortex Atoms). 177 382 GIÁO LƯ BÍ NHIỆM


  như là những sự thực hiển nhiên trong sự bí mật của những Mật Điện (Adyta) cách đây khoảng 12.000 năm. Một vài người này biết được những sự bí mật này nhờ những tiến bộ tự nhiên của môn vật lư học và do sự khảo sát đơn phương. Một vài người khác như ông Copernicus, Swedenborg và một vài người nữa, mặc dù có kiến thức rộng răi, cũng có được kiến thức do trực giác nhiều hơn do việc hoạch đắc những ư niệm được phát triển bằng một cuộc nghiên cứu theo cách thông thường (1). Bằng chứng là Swedenborg, ông cũng không thể biết bất cứ điều ǵ về những quan niệm bí truyền của Phật giáo, đă có những nhận định đại cương gần gũi với giáo lư huyền môn (một cách độc lập) tác phẩm tiểu luận của ông về thuyết Xoáy Tṛn (Vortical Theory) đă chứng tỏ điều này. Trong bản dịch tác phẩm này, của ông Clissold, do Giáo sư Winchell trích dẫn (2), chúng ta thấy ông tóm tắt như sau: Nguyên nhân đầu tiên là cái vô cùng hay vô hạn. Nguyên nhân này phát sinh ra cái đầu tiên hữu hạn [Sự Sáng Tạo của Thiên Đạo (Logos) và của Vũ Trụ]. Cái tạo ra một sự giới hạn th́ giống với sự chuyển động. [Xem ĐOẠN THÁNH KINH 1 ở trên]. Giới hạn được tạo ra là một điểm, bản chất của điểm này là sự chuyển động; nhưng v́ bản chất này không có những thành phần khác nhau, nên nó không


  1 Xem Sự Bí Mật của Đức Phật, quyển V, Tiết 43. 2 Cũng trong quyển sách này, trang 567. 383 Lời b́nh luận về Bảy đoạn Thánh Kinh


phải là chuyển động thực tế, mà chỉ là một nỗ lực chuyển động (conatus). [Trong giáo lư chúng ta, nó không phải là một “nỗ lực” (“conatus”) mà là một sự biến đổi từ sự Rung Động Trường Cửu (Eternal Vibration) trong vũ trụ tiến triển cho đến sự Chuyển Động Xoáy Tṛn (Votical Motion) trong Thế giới hiện tượng hay là hậu thiên]. Từ cái đầu tiên này, không gian, h́nh ảnh và sự nối tiếp hay thời gian, sự bành trướng được sản sinh ra. Như trong h́nh học, một điểm sinh ra đường thẳng, một đường thẳng sinh ra một mặt phẳng và một mặt phẳng sinh ra một khối, cũng vậy, ở đây, nỗ lực của điểm này là hướng về những đường thẳng, những mặt phẳng và những thể khối. Nói cách khác, Vũ Trụ được chứa đựng trong mầm mống trong điểm đầu tiên của thiên nhiên.   Sự Chuyển Động mà nỗ lực hướng về là chuyển động xoay tṛn, v́ h́nh tṛn là h́nh hoàn hảo nhất trong tất cả các h́nh… “H́nh hoàn hảo nhất của sự chuyển động nêu trên phải là sự xoay tṛn liên tục, nghĩa là nó phải tiếp diễn từ trung tâm ra đến ngoại biên và từ ngoại biên đi vào trung tâm” (1).   Đây chính là Huyền bí học thuần tuư và đơn giản. “Sáu Phương Hướng của Không Gian” (“Six Direction of Space”) có nghĩa là “H́nh Tam Giác Đôi” (“Double Triangle”) tượng trưng cho sự giao tiếp và hỗn hợp giữa Tinh Thần và Vật Chất, Hữu sắc và Vô sắc, mà


1 Quyển tóm lược về Những nguyên lư của Thiên Nhiên (Principia Rerum Naturalium). 384 GIÁO LƯ BÍ NHIỆM


những h́nh Tam Giác đó chính là một Biểu Tượng. H́nh Tam Giác đôi này là kư hiệu của Đức Vishnu; đó là ấn tín của vua Solomon và cũng là ấn tín h́nh tam giác đôi của người Bà La Môn (Shri-Antara hay là Shriyantra).

3. He is their guiding spirit and leader. When he commences work, he separates the sparks of the lower kingdom (mineral atoms) that float and thrill with joy in their radiant dwellings (gaseous clouds), and forms therewith the germs of wheels. He places them in the six directions of space and one in the middle — the central wheel (angel).

(angel) “Wheels,” as already explained, are the centres of force, around which primordial Cosmic matter expands, and, passing through all the six stages of consolidation, becomes spheroidal and ends by being transformed into globes or spheres. It is one of the fundamental dogmas of Esoteric Cosmogony, that during the Kalpas (or aeons) of life, motion, which, during the periods of Rest “pulsates and thrills through every slumbering atom”* (Commentary on Dzyan), assumes an evergrowing

Footnote(s) ———————————————
* It may be asked, as also the writer has not failed to ask, “Who is there to ascertain the difference in that motion, since all nature is reduced to its primal essence, and there can be no one — not even one of the Dhyani-Chohans, who are all in Nirvana — to see it?” The answer to this is: “Everything in Nature has to be judged by analogy. Though the highest Deities (Archangels or Dhyani-Buddhas) are unable to penetrate the mysteries too far beyond our planetary system and the visible Kosmos, yet there were great seers and prophets in olden times who were enabled to perceive the mystery of Breath and Motion retrospectively, when the systems of worlds were at rest and plunged in their periodic sleep.”

Vol. 1, Page 117 THE ANTIQUITY OF PHYSICAL SCIENCES.
tendency, from the first awakening of Kosmos to a new “Day,” to circular movement. The “Deity becomes a whirlwind.” They are also called Rotae — the moving wheels of the celestial orbs participating in the world’s creation — when the meaning refers to the animating principle of the stars and planets; for in the Kabala, they are represented by the Ophanim, the Angels of the Spheres and stars, of which they are the informing Souls. (See Kabala Denudata, “De Anima,” p. 113.)

This law of vortical movement in primordial matter, is one of the oldest conceptions of Greek philosophy, whose first historical Sages were nearly all Initiates of the Mysteries. The Greeks had it from the Egyptians, and the latter from the Chaldeans, who had been the pupils of Brahmins of the esoteric school. Leucippus, and Democritus of Abdera — the pupil of the Magi — taught that this gyratory movement of the atoms and spheres existed from eternity.* Hicetas, Heraclides, Ecphantus, Pythagoras, and all his pupils, taught the rotation of the earth; and Aryabhata of India, Aristarchus, Seleucus, and Archimedes calculated its revolution as scientifically as the astronomers do now; while the theory of the Elemental Vortices was known to Anaxagoras, and maintained by him 500 years b.c., or nearly 2,000 before it was taken up by Galileo, Descartes, Swedenborg, and finally, with slight modifications, by Sir W. Thomson. (See his “Vortical Atoms.”) All such knowledge, if justice be only done to it, is an echo of the archaic doctrine, an attempt to explain which is now being made. How men of the last few centuries have come to the same ideas and conclusions that were taught as axiomatic truths in the secrecy of the Adyta dozens of

Footnote(s) ———————————————
* “The doctrine of the rotation of the earth about an axis is taught by the Pythagorean Hicetas, probably as early as 500 B.C. It was also taught by his pupil Ecphantus, and by Heraclides, a pupil of Plato. The immobility of the Sun and the orbital rotation of the earth were shown by Aristarchus of Samos as early as 281 B.C. to be suppositions accordant with facts of observation. The Heliocentric theory was taught about 150 B.C., by Seleucus of Seleucia on the Tigris. — [It was taught 500 B.C. by Pythagoras. — H.P.B.] It is said also that Archimedes, in a work entitled Psammites, inculcated the Heliocentric theory. The sphericity of the earth was distinctly taught by Aristotle, who appealed for proof to the figure of the Earth’s shadow on the moon in eclipses (Aristotle, De Cœlo, lib. II., cap. XIV.). The same idea was defended by Pliny (Nat. Hist., II., 65). These views seem to have been lost from knowledge for more than a thousand years. . . .” (Comparative Geology, Part IV., “Pre-Kantian Speculation,” p. 551, by Alex. Winchell, LL.D.).

Vol. 1, Page 118 THE SECRET DOCTRINE.
millenniums ago, is a question that is treated separately. Some were led to it by the natural progress in physical science and by independent observation; others — such as Copernicus, Swedenborg, and a few more — their great learning notwithstanding, owed their knowledge far more to intuitive than to acquired ideas, developed in the usual way by a course of study.* (See “A Mystery about Buddha.”)

By the “Six directions of Space” is here meant the “Double Triangle,” the junction and blending together of pure Spirit and Matter, of the Arupa and the Rupa, of which the Triangles are a Symbol. This double Triangle is a sign of Vishnu, as it is Solomon’s seal, and the Sri-Antara of the Brahmins.

 

http://www.anandgholap.net/Man_Whence_How_And_Whither-CWL.htm
[8:12:43 PM] Thuan Thi Do: http://www.geoffreyhodson.com/
[8:13:28 PM] Thuan Thi Do: http://www.geoffreyhodson.com/images/Anu_image.jpg
[8:40:20 PM] Thuan Thi Do: http://www.slideshare.net/Huongclass/02-vtm-thc-ca-nguyn-t
[8:45:54 PM] Thuan Thi Do: http://sacred-texts.com/eso/ihas/index.htm
[8:46:58 PM] Thuan Thi Do: http://www.light-weaver.com/fire/toc.html
[8:48:19 PM] Thuan Thi Do: Bà Bailey: Thể Dĩ Thái: http://www.slideshare.net/Huongclass/04-vvin-cm-v-th-d-thi?related=1
[8:49:16 PM] Thuan Thi Do: Luận về lửa càn khôn : http://www.slideshare.net/Huongclass/07vlun-v-la-cn-khn?related=2  
[8:49:40 PM] Thuan Thi Do: http://www.slideshare.net/Huongclass/07vlun-v-la-cn-khn?related=2
[8:50:48 PM] Thuan Thi Do: http://www.light-weaver.com/bk/toc.html

http://www.slideshare.net/Huongclass/sal-rachele-hop-nhat-linh-hon

http://huongclass.com/hoc-doc-minh-triet/doc-muon-sach/doc-truc-tuyen/76-soul-healing-integration/480-soul-integration.html?fontstyle=f-smaller



Năng lượng linh hồn có thể không bao giờ bị phá hủy. Một linh hồn có thể không bao giờ bị phá hủy, nhưng linh hồn có thể phân chia nhiều, nhiều lần và nó có thể phân thành hàng triệu mảnh giống như kính vỡ, và đôi khi nó là rất khó khăn cho các linh hồn để tập hợp tất cả các mảnh lại cùng với nhau trong một tổng thể kết dính. Đó là tại sao các bạn có nhiều linh hồn, đặc biệt trên một hành tinh như Trái đất của các bạn, mà có vẻ như rất yếu đuối, nó có vẻ như có rất ít quyền lực đối với các cuộc sống của họ, nó có vẻ như không có khả năng sáng tạo, ngoại trừ một tầng thứ bản năng, những thứ mà họ khao khát trong cuộc sống.

Và như vậy quá tŕnh hợp nhất linh hồn là quá tŕnh tập hợp lại các mảnh hồn của các bạn và mang chúng trở về cùng nhau trong các cách mà sẽ làm lợi cho sự tăng trưởng linh hồn của các bạn và gia tốc sự tiến hóa của các bạn vào các vương quốc cao hơn. Nhiều kỹ thuật hàn gắn của các bạn được thiết kế đặc biệt để gỡ bỏ các mảnh hồn của các linh hồn khác khỏi trường aura của các bạn và trả chúng về cho người chủ của chúng. Nó cũng là đúng đắn khi các kỹ thuật thiền định của các bạn có thể cho phép các bạn kéo các mảnh hồn của ḿnh ra khỏi thể aura của các linh hồn khác và hợp nhất chúng vào sinh mệnh của các bạn.

Làm thế nào các bạn biết là các bạn có các mảnh hồn của chính ḿnh ở trong những linh hồn khác hay ở những nơi chốn khác? Nói chung nếu các bạn có các phần của bản thân ḿnh ở trong một linh hồn khác, linh hồn đó sẽ ở trong tâm trí của các bạn rất nhiều và các bạn sẽ thường xuyên đồng cảm với linh hồn đó. Nếu các bạn có các phần của linh hồn các bạn ở những nơi chốn khác, các bạn sẽ thường xuyên tái diễn các giấc mơ về các nơi chốn đó hay các bạn sẽ liên tục nghĩ đến các nơi chốn đó.

Làm thế nào các bạn gọi lại các phần hồn của chính ḿnh đă phân tán ra khắp Vũ trụ? Đó là một phần của mục đích của các kỹ thuật thiền định đă được thực hiện trong sự trao chuyền này; đó là một phần của mục đích của nhiều kỹ thuật đă được đưa ra trên thế giới của các bạn ngày nay; nó phục vụ cho việc làm thế nào triệu hồi các mảnh hồn này. Quá tŕnh mà đă được làm trước đây với các đời sống quá khứ, quá tŕnh mà kênh này đă hướng dẫn, đă là một ví dụ của một quá tŕnh được thiết kế để giúp các bạn triệu hồi các phần hồn của các bạn. Trong ví dụ cụ thể này, một trong các cái tôi của đời sống quá khứ đă tha thứ và đă được giải phóng vào ánh sáng.

Điều đó nghe có vẻ giống một sự mâu thuẫn, nhưng không phải như vậy, khi các bạn giải phóng các mảnh hồn của các bạn vào ánh sáng, các bạn, trong thực tế, đang giải phóng chúng từ các vương quốc trong đó chúng đă bị kẹt lại. Các bạn đang gọi lại chúng từ thể aura của những người khác và khi chúng được nâng lên vào ánh sáng, chúng có thể được giành lại một cách dễ dàng bởi linh hồn cha mẹ.

Bây giờ ở điểm này, chúng tôi đă phác họa một số các khía cạnh của sự phân mảnh linh hồn và chúng tôi sẽ mở ra phần hỏi đáp.