Họp Thông Thiên Học qua Skype ngày 10 tháng 9 năm 2016

[6:00:02 PM] *** Group call ***
[6:03:07 PM] Thuan Thi Do: C.W.L.- Khi đă thật hiểu Luật Nhân Quả và tin tưởng ở nó, người ta không thể nào không an vui. Chúng ta nên nhớ rơ rằng Luật Nhân Quả là một Định Luật cũng như Định Luật Hấp Dẫn, nó luôn luôn tác động. Dường như, đôi khi người ta nói rằng Nhân Quả tác động một cách ngẫu nhiên, trong lúc người ta hành động, điều ấy không đúng vậy, chúng ta luôn luôn bị nó chi phối. Mỗi khi làm, nghĩ hoặc nói, con người tạo cơ hội cho Luật Nhân Quả tác động đến chúng ta. Luôn luôn chúng ta phải thanh toán với Nhân Quả, ấy là tổng số những hành vi tốt hoặc xấu của chúng ta, chúng ta đă trải qua nhiều Giai Đoạn Dă Man, trong thời kỳ đó chúng ta chưa tự chủ, chúng ta đă làm đủ mọi việc đáng trách, nên có một số Quả Báo xấu đang chờ đợi chúng ta, trừ khi chúng ta đă trả xong trong nhiều kiếp. Khi chúng ta chịu đựng những sự đau khổ, chúng ta nên nhận định rằng có lẽ chúng ta đang trả phần chót của Quả Báo xấu. Nếu chúng ta đọc những câu chuyện về các Vị Thánh trứ danh, chúng ta sẽ thấy các Ngài đă trải qua những sự đau khổ vô ngần. Những ai cố gắng giúp đỡ Nhân Loại cũng đều bị đau khổ kinh khủng. Sự đau khổ đó thuộc về thành phần của việc rèn luyện để được Điểm Đạo, nhưng sự công bằng vẫn luôn luôn tuyệt đối, v́ không thể có một sự bất công nào, dù là để luyện ḿnh đi nữa.

Các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu, Chúa Tể của Nhân Quả, chỉ là những Đấng cai quản Định Luật này. Trên vài phương diện, danh từ Chúa Tể, có lẽ không chính xác, v́ nó làm cho người ta hiểu rằng các Ngài chỉ huy và điều khiển Nghiệp Quả. Bạn không thể chỉ huy hay điều khiển Luật Hấp Dẫn, nhưng bạn có thể, do những cách xếp đặt, dùng nó trên vài phương diện và theo vài cách nào đó. Đối với Luật Nhân Quả cũng thế, những ai hành động tương quan với nó là người cai quản nó vậy. Một trong những chức vụ của các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu là chọn một phần trong số Quả Báo của một người, bắt y phải trả trong kiếp tới của y. Các Ngài không thể lấy nhiều hơn số phước hay số họa trong Nghiệp Quả của người ấy mà chắc chắn các Ngài chọn lựa cái nào mà các Ngài xét ra y có thể thanh toán được. Tuy nhiên, ư chí của con người vẫn được tự do và nếu Quả Báo đă chọn lựa được trả một cách nhanh chóng hơn các Ngài đă dự định – nếu tôi dám nói – các Ngài có thể ban thêm cho một ít Quả Báo nữa. Đó là ư nghĩa của đoạn văn kỳ lạ này: “Đức Chúa Trời hành hạ những người mà Ngài thương.” Có vài người tự làm khổ cho ḿnh nhiều mà không phải tại Quả Báo cũ của họ; họ phẫn uất v́ những hoàn cảnh thay v́ phải sống với những hoàn cảnh một cách thản nhiên, nhưng các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu không chịu trách nhiệm về việc đó.

Dù Nhân Quả nặng đến mấy đi nữa, con cũng hăy cám ơn là đă không phải trả nặng hơn.

C.W.L.- Khuynh hướng chung của hầu hết những người đau khổ là phàn nàn về thân phận ḿnh và nghĩ lại lúc mà những sự việc đều được tốt lành. Chọn lấy thái độ trái ngược lại chúng ta có thể nói rằng: “Cũng có thể xảy đến cho tôi những điều c̣n tệ hơn nữa,” hoặc: “Tôi rất vui mừng đă trả hết Quả Báo này; tôi có thể c̣n trả nhiều hơn nữa; ít ra tôi muốn lợi dụng được điều đó.”

Hăy nhớ rằng ngày nào mà Quả xấu của con chưa tiêu tan, và con chưa giải thoát khỏi nó ngày đó con chưa giúp ích được cho Thầy bao nhiêu.
[6:03:33 PM] Thuan Thi Do:

A.B.- Theo quan điểm của Đức Thầy người trả được món nợ Nghiệp Quả đang đe dọa y là điều rất tốt, v́ chúng ta đừng quên rằng Đức Thầy bị trở ngại v́ Quả Báo xấu của những kẻ khao khát phụng sự Ngài. Quả Báo này ngăn cản Ngài không cho Ngài dùng họ như điều Ngài sẽ làm nếu không bị trở ngại đó. Bà Blavatsky luôn luôn nói một cách thật chân thành về việc riêng của Bà (Bà tuyệt đối chân thật). Bà nói về việc khủng khoảng do vợ chồng Coulomb gây ra như sau: “Hiện nay tôi không có làm ǵ cho đáng tội ấy; đó chính là món nợ cũ của tôi.” Trả sạch Quả Báo này là điều tối quan trọng đối với Bà. Sự bêu xấu và lăng nhục mà Bà chịu đựng trong khi câu chuyện đang tiếp diễn là một ân huệ lớn lao nhất cho Bà. Bà xem xét t́nh trạng một cách thản nhiên, đôi khi, bề ngoài Bà cũng tỏ ra rất bối rối.

Tất cả những người chí nguyện phải nhờ tư tưởng này trợ giúp, để họ không nh́n vào họ, chỉ hướng về Đức Thầy mà tự nhủ rằng: “Những sự thử thách mà tôi sẽ chịu đựng sẽ làm cho tôi có khả năng hơn nữa để phụng sự Ngài.”

Nếu bạn đă khẩn khoản xin trả Quả nhanh chóng, mà bạn phàn nàn khi lời cầu xin của ḿnh được chấp thuận, là điều phi lư. Hăy luôn luôn lấy cảm hứng trong tư tưởng này: “Tôi càng được tự do, tôi càng có thể phụng sự Đức Thầy nhiều hơn nữa.” Khi món quà đă cho, không được lấy nó lại. Đây là ư niệm rất phổ thông trong những sách xưa của Ấn Độ, những chuyện tích của họ luôn luôn lặp lại điều đó: Món quà đă tặng, một lời nói đă thốt ra không thể lấy lại được. Có nhiều trường hợp món quà mà bạn đă tặng lúc trước lại trở về với bạn, bạn phải đem tặng nó lại. Món quà ấy không c̣n thuộc về của bạn nữa, giữ nó tức là trộm cắp. Vậy, khi món quà đem cho chính là bạn – đó là tặng phẩm cao cả và tốt đẹp hơn hết – bạn đừng bao giờ lấy lại. Người ta luôn luôn hiến ḿnh cho Đức Thầy bằng lời nói, nhưng vừa lấy ngón tay chận lên món quà để có thể kéo nó lại đàng sau một lần nữa, nếu Đức Thầy chấp nhận lời nói của họ, như đôi khi Ngài đă làm, để chứng tỏ cho họ thấy rằng họ đă mơ mộng và họ đă hứa nhiều mà họ không giữ tṛn lời hứa.
[6:17:31 PM] Thuan Thi Do: http://minhtrietmoi.org/Theosophy/Jinaradasa/The-First-Principles-of-Theosophy.htm#_Toc351144990
[6:18:22 PM] Thuan Thi Do: http://minhtrietmoi.org/Theosophy/Jinaradasa/The-First-Principles-of-Theosophy_files/image036.jpg
[6:25:36 PM] Thuan Thi Do: But we must not forget that the forces of all the planes are not of equal value in the production of changes in a man's destiny; a unit of physical force, producing a "comfort", may be only a hundredth fraction as powerful as a unit of mental force which makes an "ideal". If we give 1 as the "work" equivalent for a physical unit of force, we shall not be exaggerating if we put 5 for an astral unit, 25 for a lower mental, and 125 for an "ideal" of the higher mental world. While a man may have many "pains" 'and "griefs" and "worries" as his karma, yet if he but have a few "ideals" as well, he will make a success of his life and not a failure; on the other hand, a man may get as his karmic due wealth and position, giving him many "comforts" and "happiness", and yet, if he has not brought from his past any "inspirations" for his mind, his life may be merely one largely of agreeable futility.
 [6:37:41 PM] Thuan Thi Do: C.W.L.- Nếu một người kia đă trả sạch Quả xấu của y, y sẽ dùng trọn cả ngày giờ và sức lực của y để phụng sự Công Nghiệp của Đức Thầy – như đă giải thích, Đức Thầy bị trở ngại v́ Quả Báo xấu của chúng ta. Khi chúng ta trả sạch Quả mau chóng, chúng ta càng có khả năng phụng sự Ngài. Bà Blavatsky đă xác nhận điều này một cách quả quyết, lối năm 1884 Bà bị Coulomb và những người khác ở Madras tấn công Bà. Phẫn nộ v́ hành vi thù nghịch này, buồn phiền v́ sự vong ân của họ đối với Bà, Bà băn khoăn, lo lắng khi Bà tự hỏi nếu những điều đó sẽ có ảnh hưởng đến Hội và gây ra tai hại cho Hội; nhưng Bà lại nói rằng: “Ít ra chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, tất cả những sự xáo trộn này làm cho Ngài được một người tôi tớ hữu ích hơn nữa.”

Chúng ta có thể áp dụng những ư tưởng này trong những chuyện khó khăn của Hội cũng như những chuyện khó khăn của chúng ta. Bạn hăy luôn luôn nghĩ đến việc phụng sự Đức Thầy, khi Hội giải trừ xong những Quả xấu của nó. Nó sẽ tiếp tục tiến bước khi cơn khủng khoảng đă qua, v́ nó phải trả xong một phần Quả xấu nào đó, mới được hữu ích hơn và thành một khí cụ tốt lành trong tay những vị Chủ Nhân thật sự của nó.

Hội giải trừ được một số Quả Báo này, Hội có thể nhắm đến những mục đích cao xa hơn. Theo lời nói của Bà Blavatsky, thứ Quả Báo này trục xuất chất chết, nghĩa là những người về phương diện Chân Lư đă đạt đến “mức bảo ḥa,” họ không thể tiến tới được nữa. Trước đây, họ tỏ ra rất hữu ích, nhưng hiện giờ họ là những chướng ngại cho sự tiến hóa. Tuy nhiên những người khác trong chúng ta thường rất tiếc khi mất những người bạn này. Trong cuộc khủng khoảng mới đây, tôi thấy h́nh như tôi là một trung tâm cơn băo tố và nhiều người hiểu lầm t́nh trạng cần được tha thứ, nên tôi bạo gan bạch với Đức Văn Minh Đại Đế rằng cuộc thử thách này rất nặng nề cho họ và cầu khẩn xin Ngài tha thứ cho họ. Lẽ tự nhiên sự mạo muội của tôi làm cho Ngài nở một nụ cười bao dung và Ngài hỏi tôi: “ Con có bằng ḷng chăng, nếu mấy người này bác bỏ Bà Besant?”

Tôi trả lời: “Vâng, bạch Đại Đế, chắc chắn là con bằng ḷng.” Tôi cảm thấy chắc họ không làm như thế. Nhưng, vài tháng sau đó; họ chống lại với Bà. Rồi cũng với nụ cười khoan dung ấy, Đức Văn Minh Đại Đế lại hỏi tôi rằng: “Như con thấy, trong kiếp này Mặt Trời của họ đă lặn rồi. Nhưng c̣n có những kiếp khác và ngày mai, Mặt Trời sẽ mọc lại.”

Không có người nào là cần thiết cả; bên Ấn Độ đă xảy ra một Chi

Bộ tiến triển chung quanh một Hội Viên có uy tín, nhưng khi người ấy đến cư ngụ tại một Đô Thị khác, th́ Chi Bộ ấy tan ră. Khi Bà Blavatsky từ trần, nhiều người trong chúng ta hằng ngày quen nhận được một nguồn cảm hứng ở Bà, cảm thấy ánh sáng đă xa ĺa họ. Rồi một Bậc Vĩ Nhân khác lại xuất hiện, đó là

Bà Chánh Hội Trưởng của chúng ta hiện nay. Nhưng tôi chắc chắn Bà là người thứ nhứt nói với chúng ta rằng một ngày kia đến lượt Bà ra đi, chúng ta không cần phải lo sợ cho Hội. Khi những khí cụ thay đổi Thể Xác, dưới con mắt của những kẻ vô minh th́ chúng dường như chết đi. Nhưng các Đấng Chơn Sư c̣n đó, các Ngài Không Chết, và bao giờ các Ngài c̣n hiện diện, luôn luôn sẽ có một người nào đó tiếp tục Công Nghiệp của các Ngài.

Khi con hiến thân cho Thầy, con xin được trả Quả gấp rúc, để làm sao trong một hay hai kiếp con trả xong Cái Quả mà đáng lẽ phải trải qua cả trăm kiếp mới hết. Nhưng muốn trả Quả cách tốt đẹp nhất, con phải nhận lănh nó một cách hân hoan, vui vẻ.

A.B.- Cách thức trả Quả cũ gây ra một Nhân mới, đừng bao giờ quên điều đó, nếu bạn biết lợi dụng cái ǵ dường như Quả xấu, bạn sẽ vận dụng những mănh lực mới để làm việc thiện. Trái lại, nếu bạn không sẵn sàng nhận lănh Quả xấu ấy, bạn trả Quả một cách miễn cưỡng, sẽ xảy ra một hậu quả trái ngược lại. Bạn hăy nhớ lại lời Đấng Christ trong một bài thuyết pháp trên núi: “Con hăy tức khắc ḥa hợp với kẻ nghịch của con, trong khi con cùng đi với họ.”[73] Điều rất hay là nên theo lời khuyên này, khi nghịch cảnh hiện đến. Những sự phiền năo, những sự mất mát của bạn, bề ngoài như là một kẻ thù của bạn, bạn hăy đón tiếp chúng một cách can đảm, bạn hăy ḥa hợp với chúng một cách mau chóng và như thế là bạn không c̣n dính dấp với chúng nữa. Chúng ta có thể giải trừ Quả Báo xấu của chúng ta mau chóng hơn, nếu trong khi gặt Quả cũ, chúng ta không gieo Nhân mới nữa.



[7:48:42 PM] Thuan Thi Do: TIẾT 6
VŨ TRỤ NOĂN
(THE MUNDANE EGG)
BIỂU tượng đại đồng thế giới này ở đâu ra? Quả Trứng
này được hội nhập vào vũ trụ khởi nguyên luận của mọi dân
tộc trên thế giới như là một kư hiệu linh thiêng, và được tôn
kính cả v́ h́nh hài của nó, lẫn bí nhiệm nội tại của nó. Từ khi
con người mới bắt đầu biết suy nghĩ, người ta đă biết nó như
là cái tiêu biểu một cách điển h́nh nhất cho nguồn gốc bí
nhiệm Hiện Tồn. Sự phát triển dần dần của mầm mống nhỏ
bên trong cái vỏ kín; sự đào luyện nội tại, không có sự can
thiệp của ngoại lực, khiến cho từ trạng thái tiềm tàng chẳng
có ǵ, ta có được một cái ǵ hoạt động tích cực, chẳng cần ǵ
ngoại trừ nhiệt. Đă dần dần tiến hoá thành một tạo vật cụ thể,
sống động; nó phá vỡ cái vỏ ra, rồi đương nhiên xuất hiện
như là một thực thể tự sinh tự tạo. Tất cả điều này ắt đă phải
là một phép lạ mầu nhiệm ngay từ đầu.
Giáo huấn Bí nhiệm giải thích lư do tại sao có sự tôn
kính này bằng biểu tượng kư của các giống dân tiền sử. Thoạt
đầu, “Nguyên Nhân Bản Sơ” (“First Cause”) vô danh tính.
Sau này, trong cơn hoang tưởng, các tư tưởng gia đă phác
hoạ nó như là một Con chim bí nhiệm bao giờ cũng vô h́nh,
nó thả một Quả Trứng vào Hồng nguyên khí (Egg into
Chaos), Quả Trứng này trở thành Vũ Trụ. V́ thế Brahmă mới
được gọi là Kălahamsa, “Con Thiên Nga trong [Không gian
 132
và] Thời gian. Vào lúc khởi đầu mỗi chu kỳ Đại Khai Nguyên
(Mahămanvantara), khi trở thành “Con Thiên Nga Vĩnh
Cửu” (“Swan of Eternity”), Brahmă đẻ ra một Trứng Vàng (a
Golden Egg), nó tiêu biểu cho Ṿng Tṛn lớn tức 〇, vốn là
một biểu tượng của Vũ Trụ và các thể h́nh cầu.
H́nh dáng và lư do thứ hai tại sao Quả Trứng đă được
chọn dùng như là biểu tượng để tŕnh bày Vũ Trụ và Trái Đất
của chúng ta. Nó là một Ṿng Tṛn và một H́nh Cầu; từ lúc
bắt đầu có biểu tượng học, người ta ắt đă phải biết tới dạng
h́nh trứng của Địa Cầu chúng ta, v́ nó đă được chọn dùng ở
khắp nơi trên thế giới. Người xưa tin tưởng một cách phổ cập
rằng, Vũ Trụ thoạt tiên biểu lộ dưới dạng một H́nh Trứng.
Theo Bryan,(1) đó là một biểu tượng được người Hy Lạp,
Syria, Ba Tư và Ai Cập chọn dùng. Trong Nghi thức của Ai
Cập, Seb, Thần thời gian và Đất được cho là đă đẻ một Quả
Trứng, hay Vũ Trụ, “một Quả Trứng được thụ tinh vào lúc
Thần Lực Lưỡng Phân (2) đạt tới cực đại”.
Người ta chứng tỏ rằng Ra cũng giống như Brahmă
đang thai nghén trong Vũ Trụ Noăn. Người quá cố (the
Deceased) “rực rỡ trong Quả Trứng của Vùng Đất Bí
Nhiệm”(“the Land of Mysteries”).(3) V́ đó là “Quả Trứng đă
được ban cho cuộc sống của Chư Thần”.(4) “Đó là quả trứng
của con Gà Mái vĩ đại đang cục tác, Quả Trứng của Sob, Ngài
được sinh ra từ nó như là một con chim ưng”. (5)
[7:49:49 PM] Thuan Thi Do: http://www.theosociety.org/pasadena/sd/sd1-2-06.htm
[8:05:50 PM] Thuan Thi Do: Trong người Hy Lạp, Quả Trứng của Orpheus được
kịch tác gia Aristophanes mô tả, và một phần của các bí pháp
Dionysus và các Bí pháp khác, trong đó Vũ Trụ Noăn được
thần thánh hoá và ư nghĩa của nó được giải thích, Porphyry
cũng chứng tỏ rằng nó dùng để tượng trưng cho thế giới
“Quả trứng biểu diễn (tượng trưng cho) thế giới”. Faber và
Bryant đă cố gắng chứng tỏ rằng Quả Trứng tiêu biểu cho
chiếc Bè của Noah – một tín ngưỡng hoang đường, trừ khi ta
chấp nhận nó như là có tính cách thuần tuư biểu tượng và ẩn
dụ. Cái Bè chỉ có thể được tiêu biểu hoá như là một từ ngữ
đồng nghĩa với Mặt Trăng, cái Argha có chở mầm mống vũ
trụ của cuộc sống; nhưng chắc chắn là nó không có ǵ liên
quan với chiếc Bè của Thánh kinh. Tuy nhiên, nói chung th́
người ta đều tin rằng, lúc đầu Vũ Trụ tồn tại dưới dạng một
h́nh Trứng. Wilson cho rằng:
Trong mọi Thánh kinh Purănas, người ta đều tường thuật
giống vậy về sự tập hợp đầu tiên của các yếu tố nơi h́nh hài của
một Quả Trứng, thường thường là có h́nh dung từ Haima hay
Hiranya (“làm bằng vàng”), giống như trong Thánh thư Bàn Cổ 1,
9.(1)
Tuy nhiên, trong cuộc bút chiến chưa được xuất bản với
Giáo sư Max Muller, học giả Ấn Độ lỗi lạc, cố Đạo sư Dayă -
nand Sarasvatĩ đă chứng tỏ rằng Hiranya có nghĩa là “rực
rỡ”; “chói lọi,” hơn là “làm bằng vàng.” Thánh kinh Purănas
dạy:
“Bản Trí [Mahat]…kể cả các yếu tố thô thiển [vô hiện], tạo
thành một quả trứng … và … bản thân Đấng chúa tể của vũ trụ
…ngự trong nó, với tính cách Brahmă … Hỡi Brăhman, trong quả
1 Vishnu Purănas, Quyển I, Chương ii, trang 39 (cước chú).
 134
trứng này là các đại lục, biển núi, hành tinh và các phân khu của vũ
trụ, chư thần, chư quỷ và nhân loại”(1).
Cả ở Hy Lạp lẫn Ấn Độ, Đấng nam nhi hữu h́nh đầu
tiên (the first visible male Being), vốn kết hợp nơi ḿnh bản
chất của một trong hai phái, ngự trong Quả Trứng và từ đó
mà ra. “Đấng sinh ra đầu tiên trên Thế giới này” là Dionysos
đối với một số người Hy Lạp; Đấng Thánh Linh (the God)
sinh ra từ Vũ Trụ Noăn (the Mundane Egg), các tạo vật hữu
hoại và bất tử đều phát xuất từ Ngài. Trong Tử Vong Kinh
(Book of the Dead), người ta tŕnh bày Thần Ra (the God Ra)
chói lọi trong Quả Trứng (Mặt Trời) và Ngài khởi sự ngay khi
Thần Shu (the God Shu) [Năng lượng Mặt Trời] khởi hoạt và
thúc đẩy Ngài.(2) “Ngài ở trong Thái Dương Noăn (the Solar
Egg), Quả Trứng được ban cho Cuộc Sống của Chư Thần”. (3)
Nhật Thần (the Solar God) tuyên bố: “Ta là Linh Hồn Sáng
Tạo của Vực Thẳm Thiên Giới (the Celestial Abyss). Chẳng ai
thấy được Tổ Ấm của ta, chẳng ai có thể phá vỡ Quả Trứng
của ta, ta là Đấng Chúa Tể!”(4)
Xét h́nh tṛn này, “Bản Ngă”(“I”) xuất phát từ 〇 , tức
Quả Trứng, hoặc “hùng” xuất phát từ “thư” trong bán thư
bán hùng, thật là kỳ lạ mà thấy rằng – dựa vào cơ sở là các
Bản thảo cổ nhất của Ấn Độ cũng không cho ta thấy vết tích
nào của nó – một học giả đă cho rằng dân Ăryans thời xưa
không hề biết tới ư niệm về số thập phân. Số 10 vốn là con số
linh thiêng của Vũ Trụ, thật là bí nhiệm và nội môn, khi xét
tới đơn vị lẫn số không, Zero, tức ṿng tṛn. Thêm nữa, Giáo
1 Sách đă dẫn, trang 39-40.
2 Tử Vong Kinh, Chương xvii, trang 50-51.
3 Sách đă dẫn, Chương XLII, trang 13.
4 Sách đă dẫn, Chương lxxx, 9.
76
[8:52:04 PM] Thuan Thi Do: Ra is shown like Brahma gestating in the Egg of the Universe. The deceased is “resplendent in the Egg of the land of mysteries” (xxii., 1). For, this is “the Egg to which is given life among the gods” (xlii., 11). “It is the Egg of the great clucking Hen, the Egg of Seb, who issues from it like a hawk” (lxiv., 1, 2, 3; lxxvii., 1).



 [9:04:55 PM] Thuan Thi Do: Dĩ nhiên là không phải sự vô minh mà chính tính thơ ngây của trẻ con mới cần thiết cho sự tiến bộ tinh thần. Ḷng tốt đơn thuần không phải là sự tiến bộ; nó chỉ là sự chuẩn bị để thanh lọc. Sự tiến bộ chính là sự phát triển của Chơn Nhơn trên các cơi của nó ; nó được biểu lộ trong phàm nhơn bởi sức mạnh của tính khí bằng ư chí, t́nh thương và tư tưởng. Trong ba thời kỳ liên hệ giữa Đức Thầy và đệ tử, chính thời kỳ thứ ba và cao hơn nữa là lúc đệ tử sống trong tâm thức trẻ thơ, và trước hết y phải trải qua thời kỳ nhập môn, kế đó mới được nhận làm đệ tử thiệt thọ và qua giai đoạn thứ ba trở thành con của Đức Thầy

Lời Tựa Chú Thích Cuối Sách Đầu Sách Mục Lục

CHƯƠNG MƯỜI HAI
NHỮNG BƯỚC SAU CÙNG

Ánh sáng đến từ Sư Phụ duy nhất, ánh kim quang thiêng liêng độc nhất phóng ra những luồng ánh sáng rực rỡ xuống cho đệ tử vào buổi sơ khai.
Những tia sáng đó xuyên qua những đám mây vật chất dày đặc và đen tối.
Những tia sáng đó chiếu diệu đó đây như những tia nắng chiếu sáng trái đất xuyên qua đám lá dày đặc của rừng già. Nhưng hỡi đệ tử, trừ phi xác thân con thụ động, đầu con lạnh, linh hồn con vững vàng và tinh khiết như viên kim cương sáng rỡ, bằng không th́ tia sáng sẽ không soi thấu đến thâm cung, ánh sáng sẽ không ấm áp con tim và những tiếng diệu huyền từ cơi Akasha sẽ không thấu đến tai, dù có chú ư lắng nghe đến đâu, trong thời kỳ thứ nhứt.
C. W. L. Giống như mặt trời lúc nào cũng chiếu sáng sau những cụm mây, Chơn Ngă bao giờ cũng bủa rải ánh sáng của nó xuống cho người chí nguyện. Từ cơi cao đó, những tia linh cảm và trực giác thỉnh thoảng len lỏi vào tâm trí đen tối của chúng ta trong những lúc mà chúng ta gọi là những giây phút sáng suốt. Chúng ta nên t́m cách nắm lấy những giây phút tuyệt diệu đó, giữ chúng lại bằng trí tưởng tượng, tha thiết với chúng bằng sự tham thiền như thế là làm cho đời sống chúng ta giống như hạt kim cương trong bản văn.
Về những "âm thanh thần bí của cơi akasha cao siêu", Bà Blavatsky đă chú thích như sau :
Những âm thanh huyền bí đó là những âm điệu du dương mà tu sĩ khổ hạnh nghe được lúc khởi đầu chu kỳ tham thiền của y, được các nhà Yogis gọi làAnahatashabda. Anahata là Luân xa thứ tư.
Luân xa thứ tư là trung tâm ở vùng quả tim. Trong khi tham thiền, tâm thức tập trung vào quả tim, chính là lúc nó mẫn cảm hơn hết đối với linh hồn thiêng liêng hay Chơn Ngă siêu việt. Đối với tam thể thượng, atma - buddhi - manas, quả tim là trung tâm của xác thân. Đầu là trụ sở của con người nội tâm trí thức ; trong bảy ngăn của nó có chứa nhiều cơ năng khác nhau (gồm cả hạch mũi và tùng quả tuyến). Trong khi định trí, con người có thể di chuyển tâm thức của ḿnh từ bộ năo xuống quả tim, phải liên kết dục vọng Hạ Trí (Kama-­manas) với Thượng Trí (higher manas) xuyên qua Hạ Trí. Mà Hạ Trí, khi được thanh lọc và giải thoát khỏi kama rồi, th́ được gọi là antahkarana; bấy giờ nó ở trong trạng thái có thể nhận được vài h́nh ảnh của tam thể thượng. Tâm thức cao siêu đó cố gắng điều khiển nó bằng ư thức riêng của ḿnh, nhưng con người không thể hướng dẫn tâm thức trước khi được hiệp nhất trí huệ Bồ Đề ( buddhi-manas ). Giải thích trên đây là tóm lược những chú thích về mấy bài thuyết giảng của Bà Blavatsky, thuộc phần phụ chú trong quyển ba của Bộ Giáo Lư Bí Truyền [36]
[9:20:32 PM] Thuan Thi Do: https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10154020768019482&set=pb.644514481.-2207520000.1473567537.&type=3&theater
[9:21:47 PM] Thuan Thi Do:
Theo truyền thuyết Ấn Độ, khi kundalini đi lên nó giải trừ những đức tánh của các chakras mà nó đi ngang qua và chỉ mang theo những tinh hoa của chúng. Khi nó lên đến luân xa thứ tư là luân xa ở quả tim, nhà Yogi nghe được âm thanh phát xuất từ cơi cao, gọi là anahata-shabda. Shabda là âm thanh; an-ahata có nghĩa là : "không va chạm" ; vậy chính âm thanh nầy không do sự va chạm nào phát ra. Từ ngữ nầy tượng trưng cho những ǵ ở trên các cơi của phàm nhơn. Về phương diện nầy, người chí nguyện bắt đầu tiếp xúc với tam thể thượng. Nếu người ta muốn cho sự tiếp xúc giữa Thượng Trí và Hạ Trí được đầy đủ hơn, th́ trong khi tham thiền không nên lưu luyến đến những ǵ thấp hèn. Cách tham thiền dưới đây được dịch trong Kinh Gheranda Samhita là một trong các phương pháp tham thiền về trung tâm quả tim. Nó cho chúng ta thấy nhà Yogi từ từ xa ĺa hoàn cảnh chung quanh và tập trung sự chú ư vào lư tưởng của y.

Y phải tưởng tượng ở vùng quả tim ḿnh một đại dương bao la đầy nước cam lồ. Trên mặt nước đó nổi lên một ḥn đảo tuyệt đẹp bằng bảo ngọc. Nơi đây cát là vàng chiếu óng ánh và rải rác đó đây, những đồ đạt bằng châu báu. Ngoài băi biển rợp bóng cây trổ hoa vô số. Trên đảo mọc những cây kiểng lạ, nào cây to, cây nhỏ, dây leo, giống có tỏa hương thơm ngào ngạt khắp nơi.
Muốn thưởng thức trọn vẹn vị ngọt ngào thiêng liêng, chúng ta phải tưởng tượng ở đó mọc lên một cây rất kỳ diệu mà những nhánh nhóc vươn dài thật xa, mang nhiều trái hiến dâng cho mọi người. Đó là bốn học thuyết có uy thế bảo tŕ thế gian. Ở đây không có loại quả, hoa nào biết chết chóc, khó nhọc ; làm bạn với chúng có đàn ong kêu vo vo và chim đỗ quyên cất tiếng hát dịu dàng.
Bấy giờ dưới bóng cụm cây êm đềm đó hiện ra một Thánh Điện hồng ngọc rực rỡ. Kẻ tầm Đạo sẽ gặp nơi đây Đấng mà mọi người vô cùng kính yêu ngồi trên ngai báu như trong một chánh điện. Theo lời chỉ dẫn của Sư Phụ y, kẻ tầm Đạo suy tư thật lâu về H́nh dáng Thiêng Liêng đó, về sắc tướng và những biểu hiện của Ngài [37]
Ít nữa là phải nghe, con mới có thể thấy. Ít nữa là phải thấy, con mới có thể nghe. Nghe và thấy chính là giai đoạn thứ hai
[9:23:51 PM] Thuan Thi Do: Chúng tôi đă giải nghĩa hai động từ thấy và nghe [38] . Trừ phi thí sinh có thể đáp ứng với tiếng nói bên trong, nghĩa là trừ phi sinh viên hiểu được các luật Thiêng Liêng, nếu không, y chẳng bao giờ thấy được ngoại vật đúng với chân tướng của nó. Y phải tập nh́n các đối tượng vật chất bằng cặp mắt của tinh thần như có lần một vị Chơn Sư đă dạy. Khi y thấy những đối tượng vật chất hay ngoại vật theo lối ấy, y sẽ càng ngày càng hiểu tiếng nói nội tâm. Điều nầy nhắc chúng ta phải vừa tham thiền vừa rút kinh nghiệm thực tế. Trong đời sống của một người bận rộn, y không dừng lại để suy tư về cuộc sống của ḿnh, như vậy y sẽ không hiểu được ư nghĩa của những việc xảy ra trong đời của y bao nhiêu; mỗi ngày chúng ta phải dành một ít th́ giờ để ánh sáng nội tâm soi sáng rọi những việc ấy. Mặt khác, sự giam ḿnh trong một thư pḥng và dành tất cả th́ giờ của ḿnh để suy tư cũng không thật hữu ích; giống như thế, người sẽ tạo ra một số ư niệm sai lầm, v́ kinh nghiệm rất cần để sửa đổi và mở rộng sự tham thiền. Hăy duy tŕ sự quân b́nh giữa nội tâm và ngoại giới, đó chính là điều người thí sinh phải thực hiện. Phải t́m kiếm sự điều ḥa, đó là thuật ngữ đă được sử dụng và không ngớt lập lại trong Kinh Gita.
Trong hệ thống thiêng liêng, thế giới nội tâm và ngoại cảnh đều hoàn toàn phù hợp nhau về mọi phương diện. Bà Blavatsky có nói trong Bộ Giáo Lư Bí Truyền :
Trong phạm vi của những mănh lực huyền bí, một âm thanh tai phàm nghe được chỉ là một màu sắc chủ quan; một màu sắc có thể tri giác được chỉ là một âm thanh không nghe được [39].

Chính màu sắc được đề cập đến ở đây chứ không phải h́nh thể ; do đó, nói như thế đúng hơn, và trong thực tế chúng ta chỉ thấy màu sắc chứ không phải h́nh thể.
Không thể nói một cách chính xác tại sao sự ḥa hợp giữa sự nghe và sự thấy đó gọi là giai đoạn thứ hai. Chúng ta không hiểu hệ thống của Đức Aryasanga bao gồm những ǵ, v́ ở đây có một tấm màn bao phủ thuyết của Ngài. Đường chấm thay thế cho một đoạn thiếu sót, liên hệ đến giai đoạn thứ ba. Sau thiếu sót đó, khi giáo lư được bổ túc, chúng ta sẽ thấy Đức Aryasanga định nghĩa những bước sau cùng đúng như trong Yoga Sutras, nghĩa là : 5) pratyahara hay là kiểm soát trọn vẹn các giác quan, 6) dharana hay định trí, 7) dhyana hay tham thiền, sau cùng 8) samadhi hay nhập định.
[9:38:54 PM] Thuan Thi Do: On parle de méditation avec semence. L’état de Samadhi est une méditation sans semence. Nul objet ne conditionne le mental.
[9:39:31 PM] Thuan Thi Do: http://medi-ame.fr/meditation-la-meditation-samadhi/
[9:40:29 PM] Thuan Thi Do: Khi đệ tử thấy và nghe, ngửi và nếm trong khi mắt và tai đóng lại, miệng và mũi bịt lại ; khi bốn giác quan hỗn hợp làm một và sẵn sàng nhập vào giác quan thứ năm, nội xúc giác, bấy giờ con đă qua được giai đoạn thứ tư.

Nhiều nhà Yogi ngậm miệng nín thở trong lúc tham thiền hay xuất thần. Họ để các ngón tay theo cách để giữ kín mắt, mũi và miệng, hơn nữa, họ uốn lưỡi lên cho đến phía sau khoảng trống trên miệng để không cho không khí vào. Phép thực tập ấy các nhà Hatha yoga gọi là khechari mudra. Các nhà Raja yoga không làm như thế và ở đây chúng tôi cũng không khuyến khích thực hành phương pháp đó, đệ tử có thể nhắm mắt và vẫn nhận định được (hay cảm thấy trên cơi Thiên giới) những cảm giác thuộc về khứu giác. Muốn vượt lên một trạng thái cao siêu hơn, y phải tập luyện nội xúc giác, tức thính giác. Khi y chú ư nghe tiếng nói vô thinh và theo dơi nó cho đến các chi tiết càng lúc càng tinh vi, đến lúc y đạt đến giai đoạn pratyahara, tức chế chỉ tất cả những cảm giác nội giới cũng như ngoại cảnh, những cảm giác pḥng học tập cũng như cảm giác ở pḥng vô minh. Phép thực hành nầy được mô tả trong câu châm ngôn sau đây :
Hỡi kẻ diệt tư tưởng, trong giai đoạn thứ năm tất cả đều phải diệt trừ một lần nữa cho đến khi không thể nào sống lại được.
Đối với mọi người, hầu như thường xảy ra việc người ta không chú ư đến ngoại cảnh, chẳng hạn như trong lúc đọc sách hay say mê đặc biệt; lúc bấy giờ người ta không đáp ứng với những cảm giác sinh ra do mùi hương, cảnh vật hoặc âm thanh. Khả năng tự đặt ḿnh tùy thuộc vào ư chí trong điều kiện nầy gọi là pratyahara; nó chuẩn bị cho sự tham thiền thực sự có hiệu quả. "Diệt trừ cho đến khi nó không thể sống lại được" chỉ có nghĩa các giác quan, giống như những con chó giỏi, sẽ nằm xuống theo lệnh và chỉ đứng lên khi được gọi. Ở đây có một chú thích như sau :
Điều nầy có nghĩa là đến giai đoạn phát triển thứ sáu, trong huyền bí học gọi là Dharana, mỗi giác quan có tính cách như một quan năng riêng biệt phải bị " tiêu diệt " ( hay làm cho tê liệt) tại cơi giới nầy bằng cách cho nó đến nhập vào giác quan thứ bảy siêu việt hơn.
[9:46:51 PM] Thuan Thi Do:
Trong pháp môn Yoga, Dharana là giai đoạn thứ sáu, theo Kinh Yoga Sutras ; đó là sự tập trung tinh thần mà chúng ta đă khảo cứu [40] ; nó được thực hành sau giai đoạn pratyahara. Cái Trí hay Chitta được xem như giác quan thứ sáu ; do đó khi thực hành dharana đă trọn vẹn, Cái Trí ngưng hoạt động, không c̣n liên hệ với những đối vật của thế giới bên ngoài, lúc ấy trực giác được gọi là giác quan thứ bảy liền biểu lộ. Đời sống giáo hóa chúng ta bằng hai cách, thứ nhứt là những bài học mà chúng ta thu thập được ở thế gian và thứ hai là trực giác hay ảnh hưởng của cái ngă nội tâm (Chơn Nhơn). Khi con người tiến dần trên Đường Đạo, trực giác của y sẽ gia tăng và sẽ ít lệ thuộc những bài học của thế gian hơn. Nói cách khác, chính những người sử dụng các quan năng tâm linh của ḿnh sẽ rút ra từ một ít kinh nghiệm, nhiều lợi ích hơn những người từng trải nhiều kinh nghiệm ở đời. Nhờ sự hoạt động của trí thông minh, người tiến hóa cao sẽ nhận rơ được tầm mức quan trọng nơi những sự việc nhỏ mọn nhất, trong khi Cái Trí chưa tiến hóa chỉ hoạt động theo sự hiếu kỳ. Nó luôn luôn khao khát sự mới lạ, v́ tư tưởng c̣n yếu ớt, nên ư nghĩa hiển nhiên của những sự việc tầm thường, đă bị vét cạn nhanh chóng (tư tưởng của nó không thể khai thác một cách sâu xa những sự kiện tầm thường). Chính Cái Trí trong phạm vi kinh nghiệm tôn giáo nó đă đ̣i hỏi những phép lạ, nhưng rốt cuộc lại mù quáng trước vô số phép lạ đang vây bọc chung quanh ḿnh.
Hăy giữ trí con riêng biệt với mọi đối tượng bên ngoài, với mọi cảnh vật ở ngoại giới. Hăy gác qua một bên những h́nh ảnh bên trong, v́ sợ e nó rọi bóng tối lên ánh sáng linh hồn.
Bây giờ con ở trong Dharana, giai đoạn thứ sáu.
[9:49:08 PM] Thuan Thi Do:
Trong khi thực hành phép tập trung tư tưởng, luôn luôn cần phải đồng thời xem xét những nguyên nhân gây sự gián đoạn bên ngoài lẫn bên trong. Phải ngăn cản Cái Trí đừng cho nó quan tâm đến một đối tượng ngoại tại nào, nếu không, dù một tiếng động nhỏ nhứt cũng gợi tính hiếu kỳ của nó và gây phương hại cho sự định trí. Chúng ta cũng phải ngăn không cho gợi ở chính ḿnh những h́nh ảnh liên hệ đến quá khứ cũng như tương lai; trong khi luyện tập, đừng để ư đến những ǵ đang xảy ra hôm qua hoặc những ǵ có thể xảy đến trong ngày mai. Khi sự tập trung đă được hoàn bị rồi, th́ bắt đầu giai đoạn kế đó, là giai đoạn thứ bảy, được gọi là dhyana, hay tham thiền.
[9:49:50 PM] Thuan Thi Do: GLTVT 5:53
[9:49:55 PM] Thuan Thi Do: GLTVT 9