Thinking and Destiny 17

    

 

The reason that nature gods desire worship from the doer in a human is that this is the only way by which they can receive the Light of an Intelligence. Religions exist because there is this tie or pull of nature on the doer; and Triune Selves use this relation for the development and education of their doers. Religions are allowed by Triune Selves for the purpose of letting their doers learn the law of thought as destiny, though the teaching is not under that name. Simple teachings only can be received by childish doers. Therefore the doers have been allowed to believe that their God is the administrator of justice according to a moral code, and that lie speaks to them through their conscience. The code of morals is furnished by Triune Selves; and, by means of that code, responsibility of the doers is developed. The doer, because it is tied to nature, readily credits to its nature god more than is due. The nature gods, dependent as they are upon worship for their nourishment and existence, wish to figure as the supreme lords of justice.
Priests also take advantage of the needs and sentiments of the doers. So the moral code given by Triune Selves is, for ecclesiastical purposes, supplemented by theological doctrines and ceremonial homage; and is used by the gods and their priests to keep doers in subjection. As the doer advances it begins to inquire. The arbitrary and quite human injustice shown in the management of worldly affairs may bring about disbelief, agnosticism and atheism; but only for a time. During such a period of transition, the rulers of the world seem to be blind chance and fortune; and the explanation of everything that is unusual, unrelated, and unexpected is that it happened as an accident. So doers pass through the various stages of belief: they believe that man is born without having made his own destiny; that he has but one life on earth, in which he sees justice unequally meted out; that man is born in sin; that he may be saved from the consequences of his faults by vicarious atonement since he has no moral responsibility; that all depends upon the arbitrary will of God; that everything is the result of chance and accident. These doctrines are contrary to reason. In time men will see that these credulously accepted beliefs are not valid objections to the law of thought, when they understand the whole plan of the development of the doer with all its unity, simplicity, analogies and interrelations.


CHAPTER IV
OPERATION OF THE LAW OF THOUGHT
SECTION 1

Matter. Units. An Intelligence. A Triune Self. A human being.

INTO the physical world of the earth sphere reach the form, life and light worlds of the sphere, (Fig. I-B), and through and around all of these are the spheres of water, air and fire, (Fig. I-A). The physical plane of the human physical world exists in four states of matter: the radiant, airy, fluid, and solid states, (Fig. I-D). The solid state in its radiant-solid, airy-solid, fluid-solid, and solid-solid substates, makes up the visible, physical universe (Fig. I-E). The fluid, airy, and radiant states of matter of the physical plane of the human physical world are invisible and are at present beyond the reach of chemistry and physics. In other words, all that is subject to the investigation by the natural sciences is the solid state with its four substates, of the physical plane of the physical world, and that only in small part. However, the spheres and worlds, the light, life and form planes, and the radiant, airy and fluid states of matter of the physical plane reach into, affect, and are affected by those small portions of them which are in the solid state of the physical plane of the human physical world, (Fig. I-E). In this fourfold solid, visible, physical plane of the physical world are the earth crust and the moon, planets, sun and stars, of which the fourfold physical body of man is a plan, pattern or model, and a condensation. The light, life, form and physical planes referred to hereafter are those of the human physical world; the law of thought affects more immediately the matter and the beings functioning in that world. But the whole plan is here recalled because eventually the law of thought affects the matter of the whole Universe. In the entire universe of which the human may become conscious all changes in degrees in which nature-matter is conscious, must be accomplished during the passage of that matter through a human body; there it comes directly under the Light of an Intelligence, or under reflected or diffused parts of that Light. The Light of an Intelligence does not affect nature directly or by reflection. While nature as streams of transient units is passing through a human body, the doer, by thinking, disperses some of the Light with the nature-matter. The Light which thus goes out stimulates the manifested side of nature-matter and keeps nature going as instinct, natural selection, chemical reaction and other manifestations of intelligence, usually attributed to a god. Nature is here a name for matter which is a manifestation of Substance. The nature-matter manifesting is fourfold in the four elements: free units, which belong to all the spheres and worlds and have not formed a constituent part of a human body; transient units, which are the material used in building the physical body of man and of outside visible nature; compositor units, which are or were units in a human body catching and composing the transient units into form and visibility; and sense units, which control or govern the four systems in a human body. An Intelligence is on the intelligent-side of the Universe and is a self-conscious unit of the Eternal, acting in the spheres which may operate in the four worlds of the sphere of earth through the Triune Self to which it is related. An Intelligence is immortal, individuated, has unbroken identity as an Intelligence and never loses its knowledge of this identity. It has seven inseparable faculties: The light, time, image, focus, dark, motive and I-am faculties, each faculty being forever a conscious witness to the unity of the seven, (Fig. V-C). An Intelligence differs from nature in that an Intelligence is an ultimate unit which has passed through all departments and degrees as a nature unit, an aia unit, a Triune Self unit, and as an Intelligence it has reached the ultimate degree of progression in being conscious which a unit can attain, that is, it is conscious as an Intelligence.
All units in nature are conscious, but not conscious that they are conscious, whereas an Intelligence is conscious that it is conscious and knows that it is conscious as an Intelligence. Between nature and an Intelligence is that which is not nature-matter, nor yet an Intelligence; it is of intelligent-matter. This is the Triune Self. A Triune Self is a self-knowing unit of the Eternal and is to act in the four worlds of the earth sphere. The Triune Self knows itself to be an eternal knower and thinker and doer, as a Triune Self. Each of these three parts of a Triune Self has a double office. The offices of the knower are actively selfness or knowledge and passively I-ness or identity; the offices of the thinker are actively reason and passively rightness; and the offices of the doer are actively desire and passively feeling, and the duty of each office is to think. A portion of the doer operates periodically in the physical world while it is in a flesh body. While that portion is in a flesh body its interests are on the physical plane of the physical world, and it is ignorant of itself as the doer. It is earthbound and is conscious only as a human being. At the human stage the law of thought has the aspect of adjustment, as destiny. At this stage of the doer's development, man can without much difficulty understand the constitution of the Triune Self and its relation to its Intelligence and something about thinking and the nature and properties of a thought and the generation, the course, the exteriorization, the results and the adjustment of a thought.






 

Lư do mà các vị thần thiên nhiên mong muốn được hành giả trong thể xác thờ phượng là v́ đây là cách duy nhất mà họ có thể nhận được Ánh sáng của một Trí tuệ. Tôn giáo tồn tại bởi v́ có sự ràng buộc hoặc lôi kéo của thiên nhiên đối với hành giả; và Triune Self sử dụng mối quan hệ này để phát triển và giáo dục những hành giả của họ. Các tôn giáo được Triune Self cho phép với mục đích để cho những hành giả của họ học quy luật tư tưởng là định mệnh, mặc dù giáo huấn không nằm dưới danh nghĩa đó. Những hành giả trẻ con chỉ có thể tiếp nhận những lời dạy đơn giản. Do đó, những hành giả được cho phép tin rằng Đức Chúa Trời của họ là người quản lư công lư theo một quy tắc đạo đức, và lời nói dối đó nói vào lương tâm của họ. Bộ quy tắc đạo đức được cung cấp bởi Triune Self; và, bằng quy tắc đó, trách nhiệm của những hành giả được phát triển. Hành giả, bởi v́ gắn liền với thiên nhiên, nên dễ dàng tin tưởng vào vị thần thiên nhiên của nhiều hơn. Các vị thần thiên nhiên, phụ thuộc vào sự tôn thờ để nuôi dưỡng và cho lư do tồn tại của họ, mong muốn trở thành chúa tể công lư tối cao.
Các giáo sĩ cũng lợi dụng nhu cầu và t́nh cảm của hành giả. V́ vậy, quy tắc đạo đức do Triune Self đưa ra, v́ mục đích giáo hội, được bổ sung bởi các học thuyết thần học và sự tôn kính theo nghi lễ; và được sử dụng bởi các vị thần và các linh mục của họ để giữ cho những hành giả trong sự phục tùng. Khi hành giả tiến bộ, họ bắt đầu đánh dấu hỏi. Sự độc đoán và khá bất công của con người được thể hiện trong việc quản lư các công việc của thế gian có thể mang lại sự hoài nghi, thuyết bất khả tri và thuyết vô thần; nhưng chỉ trong một thời gian. Trong thời kỳ chuyển tiếp như vậy, những kẻ thống trị thế giới dường như chỉ là những kẻ may mắn và t́nh cờ; và người ta giải thích về mọi thứ bất thường, không liên quan, và bất ngờ là đó là tai nạn. V́ vậy, những người đi qua các giai đoạn khác nhau của niềm tin: họ tin rằng con người được sinh ra mà không tự làm ra số phận cho chính ḿnh; rằng anh ta chỉ sống một cuộc đời trên trái đất, trong đó anh ta thấy công lư được đáp ứng một cách bất b́nh đẳng; rằng con người được sinh ra trong tội lỗi; rằng anh ta có thể được cứu khỏi hậu quả của những lỗi lầm của ḿnh bằng cách được chuộc tội gián tiếp v́ anh ta không có trách nhiệm ǵ về đạo đức; rằng tất cả phụ thuộc vào ư muốn độc đoán của Đức Chúa Trời; rằng mọi thứ đều là kết quả của sự may rủi và t́nh cờ. Những học thuyết này trái ngược với lư trí. Theo thời gian, người ta sẽ thấy rằng những niềm tin được chấp nhận bằng tín ngưỡng này không phù hợp đối với quy luật của tư tưởng, khi họ hiểu được toàn bộ chương tŕnh phát triển của hành giả với tất cả sự thống nhất, đơn giản, loại suy và tương quan của nó.


CHƯƠNG IV
VẬN HÀNH QUY LUẬT TƯ TƯỞNG
PHẦN 1

Vật chất. Các đơn vị. Một trí tuệ. Bản thân Triune. Một con người.

Đi vào thế giới vật chất của quả cầu trái đất là những thế giới h́nh thức, sự sống và ánh sáng của quả cầu đất, (H́nh I-B), và xuyên qua và xung quanh tất cả những thứ này là các quả cầu nước, không khí và lửa, (H́nh I-A). Cơi trần của thế giới vật chất con người tồn tại ở bốn trạng thái của vật chất: lửa, khí, lỏng và rắn, (H́nh I-D). Trạng thái rắn ở trong những trạng thái phụ là rắn-bức xạ, rắn-khí, rắn-lỏng và rắn-rắn của nó, tạo nên vũ trụ vật chất hữu h́nh (H́nh I-E). Các trạng thái lỏng, khí và bức xạ của vật chất thuộc b́nh diện vật chất của thế giới vật chất con người là vô h́nh và hiện đang nằm ngoài tầm với của hóa học và vật lư. Nói cách khác, tất cả những ǵ thuộc đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên là trạng thái rắn với bốn chất nền của nó, của cơi trần của thế giới vật chất, và đó chỉ là một phần nhỏ. Tuy nhiên, các quả cầu và thế giới, ánh sáng, sự sống và các cơi hữu h́nh, và các trạng thái lửa, khí và lỏng của vật chất thuộc cơi trần, th́ ảnh hưởng đến, và bị ảnh hưởng bởi những phần nhỏ của chúng đang ở trạng thái rắn ở cơi trần của thế giới vật chất con người, (H́nh IE). Trong cơi vật chất rắn, có thể nh́n thấy, bao gồm 4 thứ này của thế giới vật chất là vỏ trái đất và mặt trăng, các hành tinh, mặt trời và các ngôi sao, trong đó cơ thể vật chất của con người bao gồm 4 thành phần là một kế hoạch, mô h́nh hoặc kiểu mẫu, và là sự ngưng tụ. Các cơi của ánh sáng, sự sống, h́nh thức và vật chất được gọi sau đây là các cơi của thế giới vật chất con người; quy luật của tư tưởng ảnh hưởng ngay lập tức đến vật chất và các sinh vật hoạt động trong thế giới đó. Nhưng toàn bộ chương tŕnh ở đây được nhớ lại bởi v́ cuối cùng quy luật tư tưởng ảnh hưởng đến vật chất của toàn Vũ trụ. Trong toàn bộ vũ trụ mà con người có thể có ư thức, tất cả những thay đổi về mức độ mà vật chất-thiên nhiên có ư thức, phải được thực hiện trong quá tŕnh vật chất đó đi qua cơ thể con người; ở đó nó ở trực tiếp dưới Ánh sáng của một Trí tuệ, hoặc dưới những phần phản chiếu hoặc khuếch tán của Ánh sáng đó. Ánh sáng của một Trí tuệ không ảnh hưởng đến thiên nhiên một cách trực tiếp hoặc bằng cách phản chiếu. Trong khi thiên nhiên như những luồng đơn vị thoáng qua đang đi qua cơ thể con người, th́ con người, bằng cách suy nghĩ, phân tán một số Ánh sáng cho vật chất thiên nhiên. Do đó, ánh sáng đi ra ngoài sẽ kích thích mặt biểu hiện của vật chất-thiên nhiên và giữ cho thiên nhiên tiếp tục như bản năng, chọn lọc tự nhiên, phản ứng hóa học, c̣n các biểu hiện khác của trí thông minh, thường được quy cho một vị thần. Thiên nhiên/nature ở đây là tên cho vật chất v́ nó là biểu hiện của Bản chất/substance. Vật chất-thiên nhiên được biểu hiện tứ trùng/fourfold trong bốn thứ: 1. các đơn vị tự do, thuộc về tất cả các quả cầu và thế giới và chưa làm thành một bộ phận  của cơ thể con người; 2. các đơn vị tạm thời, là vật chất được sử dụng để xây dựng cơ thể vật chất của con người và có tính chất hữu h́nh bên ngoài; 3. các đơn vị tổng hợp, là hoặc đă là các đơn vị trong cơ thể con người nắm bắt và phối hợp các đơn vị tạm thời thành h́nh dạng và thấy được; và 4. các đơn vị cảm giác, kiểm soát hoặc chi phối bốn hệ thống (?) trong cơ thể con người. Một Trí thông minh ở phía thông minh của Vũ trụ và là một đơn vị tự ư thức của Đấng vĩnh cửu, hoạt động trong các lĩnh vực có thể hoạt động trong bốn thế giới của quả đất thông qua Bản thân Ba ngôi mà nó có liên quan. Một Trí thông minh là bất tử, riêng biệt, có danh tính không bị chia cắt v́ là một Thông minh và không bao giờ mất kiến ​​thức của ḿnh về danh tính này. Nó có bảy khả năng không thể bị tách rời: Khả năng ánh sáng, thời gian, h́nh ảnh, tiêu điểm, bóng tối, động cơ và tôi-là, mỗi khả năng măi măi là một nhân chứng có ư thức cho sự thống nhất của bảy khả năng, (H́nh V-C). Trí thông minh khác với thiên nhiên ở chỗ Trí thông minh là một đơn vị tối thượng đă vượt qua tất cả các pḥng ban và cấp độ như một đơn vị thiên nhiên, một đơn vị aia, một đơn vị Triune Self, và khi nó là một Trí thông minh, nó đă đạt đến mức độ tiến triển cuối cùng của ư thức mà một đơn vị có thể đạt được, nghĩa là, nó có ư thức như một Trí thông minh.
Tất cả các đơn vị trong thiên nhiên đều có ư thức, nhưng không có ư thức rằng chúng có ư thức, trong khi một Trí thông minh có ư thức rằng nó có ư thức và biết rằng nó có ư thức như một Trí thông minh. Giữa thiên nhiên và Trí thông minh là cái không phải là vật chất thiên nhiên, cũng không phải là Trí thông minh; nó thuộc về vật chất thông minh. Đây là Bản thân Triune. Triune Self là một đơn vị tự nhận biết của Đấng Vĩnh Cửu và hoạt động trong bốn thế giới của trái đất. Bản thân Triune tự biết ḿnh là một người luôn biết, biết suy nghĩ và làm, với tư cách là Triune Self. Mỗi phần trong số ba phần này của Triune Self đều có một trách nhiệm kép. Văn pḥng của người biết là chủ động về bản thân hoặc kiến ​​thức và tôi nhận biết hoặc nhận dạng một cách thụ động; văn pḥng của nhà tư tưởng là chủ động lập luận và đúng một cách thụ động; và các văn pḥng của hành giả đang chủ động mong muốn và cảm nhận một cách thụ động, và nhiệm vụ của mỗi văn pḥng là suy nghĩ. Một phần của hành giả hoạt động định kỳ trong thế giới vật chất khi nó ở trong cơ thể xác thịt. Trong khi phần đó ở trong cơ thể xác thịt th́ lợi ích của nó nằm trên b́nh diện vật chất của thế giới vật chất, và nó không biết ḿnh là hành giả. Nó có nguồn gốc từ trái đất và chỉ có ư thức như một con người. Ở giai đoạn con người, quy luật của tư tưởng có khía cạnh điều chỉnh, như định mệnh. Ở giai đoạn phát triển này, con người có thể không gặp nhiều khó khăn trong việc hiểu cấu tạo của Bản thân Ba ngôi và mối liên hệ của nó với Trí tuệ của nó, và điều ǵ đó về tư tưởng cũng như bản chất và thuộc tính của một tư tưởng và sự tạo ra, quá tŕnh, sự mở rộng, kết quả, và sự điều chỉnh của một tư tưởng.