The threatenings of a god cause fear. The human fears that he is not
immortal. He fears the wrath of his God. He senses that he does wrong, and
that he cannot help but do wrong when temptation beckons. These conditions
of the human are permitted by the Triune Selves to impress a moral code upon
him. The gods are quite willing to pose as the lawgivers and dictators.
Human priests are ready to take advantage of the ignorance and the fear of
the human beings. So the moral code given by the Triune Selves is used at
the same time by nature gods and their priests to maintain themselves and to
keep the doers in human beings in dependence. The teaching of the "wrath of
God" and the doctrine of "original sin," are illustrative of this. Yet these
doctrines have a meaning.
SECTION 4
The wrath of God. The destiny of humanity. The innate faith in justice.
The thoughts of one life which have not been adjusted are carried over by
the doer to the next life, and to the next; and from one civilization to
another, until they are adjusted. Families, tribes, cities, nations,
civilizations and the whole of humanity have their destiny. The presence of
the destiny of humanity is one of the sources from which comes the feeling
of assurance that justice rules the world. The other source is the idea of
justice. This idea is inherent in the doer of every human; and because of
it, man fears the "wrath of God" and asks for "mercy." The wrath of God is
the accumulation of wrong actions which, like Nemesis, pursues ready to
overtake, as soon as the conditions are ripe. This feeling of the destiny of
humanity is shared by all its members; it causes mankind to try to
propitiate some unseen being, and is made one of the foundations of
religion. The mercy which man seeks is likewise a source of religion; he
seeks it that he may have his just deserts removed. Removal is impossible,
but the pressure of one's thoughts the suppliant for mercy is able to meet
the exteriorizations of his thoughts. Mercy is asked by those who feel
themselves too weak, or who are too fearful or too selfish to let the law be
fulfilled. Besides the fear of the "wrath" or "vengeance" of God, and in
addition to the desire for "mercy," there is in man a faith that somewhere
in the world notwithstanding all the seeming injustice there is, though
unseen and not under-stood, adjustment and justice. This inherent faith in
justice is self-existent in the doer of man. It blossomed when the aia was
raised to be a Triune Self. But to evoke this faith it requires some crisis
in which man is thrown upon himself by the seeming injustice of others. The
faith in justice is part of the intuition of immortality, which persists in
the heart of man despite his agnosticism and materialism, and adverse
conditions which harden him. The intuition of immortality is the underlying
know-ledge that the doer comes into being in the Eternal, not in time; that
it has fallen into time; that man is able to live and will live through the
seeming injustice that is imposed upon him; and that he will live to right
the wrongs which he has done. The idea of justice, innate in the heart of
man, is the one thing which saves him from cringing for the favor of a
wrathful god. The idea of justice causes a man to look fearlessly into
another's eye, even though he may be conscious that he must suffer for a
wrong he has done. The fear of the wrath and vengeance of God, the desire
for mercy, faith in the eternal justice of things these are evidences of the
doer's recognition of the destiny of humanity.
SECTION 5
The story of original sin.
The story of original sin is not without basis; it is a fable which conceals
some true traditions. One of these has to do with the procreation of the
bodies of human beings. Many events are covered by this mythology. The doers
who were affected by the events feel a truth under the story of original
sin. The details of the story are in some ways related to the original
events, but are twisted, inaccurate and childish. Nevertheless the story has
power because doers are conscious of truths which are concealed in it. The
naive story covers a history of disquieting results. The use of the
procreative power was the "original sin." The result following the
procreative act was to give to the human race the tendency to unlawful
procreation; and this tendency was one of the means of bringing on ignorance
and death in the world. The penalty of the original sin of the doer is that
they are now dominated by that which they originally refused to govern. When
they could govern they would not; now that they would govern, they cannot.
One proof of that ancient sin is present with every human in the sorrow that
follows an act of mad desire which, even against his reason, he is driven to
commit. Another evidence is the existence on earth of what today is spoken
of as the lower human races. This and other events which underlie the legend
of original sin have consequences which reach the present day. They all come
from times when doers knew right from wrong and were therefore responsible.
They could not stand still, but had to go on or back, one way or the other.
They had to decide; and they gave in to the temptation of pleasure. They now
give way to sensation and assent to their desires. They look into darkness
rather than into the Light. Their destiny has followed them through the
ages; it has led them deeper into wrong until now the degree of doers in
human bodies is that of sense-bound doers; their feelings and desires are
ruled and enfeebled by sensations, and the Light of the Intelligence is
obscured in them. They are dimly conscious of events for which they were
responsible. This is one of the reasons why the doctrine of original sin has
found a response in the hearts of so many. But the origin of the story of
original sin was when the doer in its perfect body was in the Realm of
Permanence.
There, in the trial test for bringing its feeling-and-desire into balanced
union, it failed. Therefore it came into this world of birth and death, and
it periodically re-exists in a man body or in a woman body.
SECTION 6
The moral code in religions.
The unit which is now the Triune Self of the doer-in-the-body was once a
primordial unit in nature, and later progressed through all stages in a
perfect body in the Realm of Permanence before its doer "fell" and came into
a human body in this human world of change; that is, it functioned in all
parts and systems of the perfect nature university machine, the perfect
body. Thus it functioned successively as the organ unit of each of the
organs in each of the four systems of that perfect body; then it became the
manager of each system in succession, and at the same time functioned as,
and was one of, the four senses; eventually the unit became the breath-form;
and as breath-form it managed the four systems and the body as a whole. The
breath-form unit became the aia. Finally, because of the guidance and the
Light of its Intelligence, the aia in turn became a Triune Self the Triune
Self of the Intelligence which had previously been a Triune Self, (Fig.
II-G, H). The
Triune Self is not nature, but it progressed through and advanced beyond
nature. The Triune Self is not an Intelligence; but it is always within the
sphere of its Intelligence, and the Light of its Intelligence is in it. The
four senses are the roots of nature in or around the doer now in the human
body. Nature draws nourishment from the doer-in-the-body and the doer gets
experience from nature. This exchange is made possible by the Light of the
Intelligence winch is with the Triune Self, not with nature. The voice or
pull of nature is experienced as a feeling, a longing. The doer responds by
worship and belief and fashions for itself gods out of nature.
|
Những lời đe dọa của một vị thần gây ra sự sợ hăi. Con người sợ rằng ḿnh
không bất tử. Anh ta sợ cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời của anh ta. Anh ta
cảm nhận được rằng anh ta làm sai, và anh ta không thể không làm sai khi bị
cám dỗ vẫy gọi. Những điều kiện này của con người được cho phép bởi các
Triune Self để gây ấn tượng với một quy tắc đạo đức cho anh ta. Các vị thần
khá sẵn sàng đóng vai những người tuân thủ luật pháp và độc tài. Các linh
mục của con người sẵn sàng lợi dụng sự thiếu hiểu biết và sự sợ hăi của con
người. V́ vậy, quy tắc đạo đức được đưa ra bởi chính các vị thần Triune được
sử dụng đồng thời bởi các vị thần tự nhiên và các linh mục của họ để duy tŕ
bản thân và giữ cho những hành giả trong con người phải lệ thuộc. Sự dạy dỗ
về "cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời" và giáo lư về "tội tổ tông" là minh họa
cho điều này. Tuy nhiên, những học thuyết này có một ư nghĩa.
PHẦN 4
Cơn thịnh nộ của Chúa. Số phận của loài người. Niềm tin bẩm sinh vào công
lư.
Những suy nghĩ của một đời sống chưa được điều chỉnh sẽ được hành giả chuyển
sang đời sau, và sang đời sau; và từ nền văn minh này sang nền văn minh
khác, cho đến khi chúng được điều chỉnh. Gia đ́nh, bộ lạc, thành phố, quốc
gia, nền văn minh và toàn thể nhân loại đều có số phận của họ. Sự hiện diện
của số phận nhân loại là một trong những nguồn gốc từ đó mang lại cảm giác
đảm bảo rằng công lư sẽ cai trị thế giới. Nguồn khác là ư tưởng về công lư.
Ư tưởng này vốn có trong hành giả của mỗi con người; và v́ nó, con người sợ
hăi "cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời" và cầu xin "ḷng thương xót." Cơn thịnh
nộ của Chúa là sự tích tụ của những hành động sai trái, giống như Nemesis,
theo đuổi để sẵn sàng vượt qua, ngay khi các điều kiện chín muồi. Cảm giác
này về số phận của nhân loại được chia sẻ bởi tất cả các thành viên của nó;
nó khiến nhân loại cố gắng ủng hộ một số hữu thể vô h́nh, và được coi là một
trong những nền tảng của tôn giáo. Ḷng thương xót mà con người t́m kiếm
cũng là một nguồn gốc của tôn giáo; anh ta t́m kiếm nó để anh ta có thể loại
bỏ những sa mạc vừa mới của ḿnh. Việc loại bỏ là không thể, nhưng áp lực
suy nghĩ của một người mà người cầu xin ḷng thương xót có thể đáp ứng sự mở
rộng của suy nghĩ của anh ta. Ḷng thương xót được cầu xin bởi những người
cảm thấy bản thân quá yếu đuối, hoặc quá sợ hăi hoặc quá ích kỷ để luật pháp
được thực hiện. Bên cạnh nỗi sợ hăi về "cơn thịnh nộ" hay "sự báo thù" của
Thiên Chúa, và ngoài ḷng khao khát "ḷng thương xót", con người c̣n có một
đức tin rằng ở đâu đó trên thế giới này, bất chấp mọi sự bất công dường như
vẫn có, dù không nh́n thấy và cũng không dưới. -trực tiếp, điều chỉnh và
công lư. Niềm tin cố hữu vào công lư này tự tồn tại trong con người. Nó nở
rộ khi aia được nâng lên thành một Triune Self. Nhưng để khơi dậy đức tin
này, nó đ̣i hỏi một cuộc khủng hoảng nào đó, trong đó con người bị ném vào
ḿnh bởi sự bất công dường như của người khác. Niềm tin vào công lư là một
phần của trực giác về sự bất tử, vẫn tồn tại trong trái tim của con người
bất chấp thuyết bất khả tri và chủ nghĩa duy vật của anh ta, và những điều
kiện bất lợi đă làm anh ta khó khăn. Trực giác về sự bất tử là bí quyết tiềm
ẩn mà kẻ làm được trong Vĩnh hằng, không phải trong thời gian; rằng nó đă
rơi vào thời gian; người đàn ông đó có thể sống và sẽ sống qua sự bất công
dường như áp đặt lên anh ta; và rằng anh ta sẽ sống để làm đúng những điều
sai trái mà anh ta đă làm. Ư tưởng về công lư, bẩm sinh trong trái tim của
con người, là thứ giúp anh ta thoát khỏi việc thu ḿnh v́ sự ưu ái của một
vị thần phẫn nộ. Ư tưởng về công lư khiến một người đàn ông sợ hăi nh́n vào
mắt người khác, mặc dù anh ta có thể ư thức được rằng anh ta phải chịu đựng
những sai trái mà anh ta đă làm. Nỗi sợ hăi trước cơn thịnh nộ và sự báo thù
của Đức Chúa Trời, khao khát ḷng thương xót, niềm tin vào công lư vĩnh cửu
của mọi thứ, đây là những bằng chứng về sự công nhận của hành giả đối với
vận mệnh của nhân loại.
PHẦN 5
Câu chuyện về tội tổ tông.
Câu chuyện về tội tổ tôngkhông phải là không có cơ sở; nó là một câu chuyện
ngụ ngôn che giấu một số truyền thống có thật. Một trong những điều này có
liên quan đến quá tŕnh sinh sản của cơ thể con người. Nhiều sự kiện được
bao phủ bởi thần thoại này. Những người bị ảnh hưởng bởi các sự kiện cảm
thấy một sự thật dưới câu chuyện về tội nguyên tổ. Các t́nh tiết của câu
chuyện theo một số cách liên quan đến các sự kiện ban đầu, nhưng xoắn, không
chính xác và trẻ con. Tuy nhiên, câu chuyện có sức mạnh bởi v́ những hành
giả đều nhận thức được sự thật được che giấu trong đó. Câu chuyện ngây thơ
bao gồm một lịch sử của những kết quả đáng kinh ngạc. Việc sử dụng sức mạnh
sinh sản là "nguyên tội." Kết quả sau hành động sinh sản là tạo ra cho loài
người xu hướng sinh sản bất hợp pháp; và khuynh hướng này là một trong những
phương tiện dẫn đến sự ngu dốt và chết chóc trên thế giới. H́nh phạt của tội
nguyên tổ của kẻ làm là bây giờ họ bị chi phối bởi tội mà ban đầu họ từ chối
cai quản. Khi họ có thể quản lư, họ sẽ không; bây giờ họ sẽ quản lư, họ
không thể. Một bằng chứng về tội lỗi cổ xưa đó hiện diện với mỗi con người
trong nỗi buồn sau một hành động ham muốn điên cuồng mà ngay cả khi chống
lại lư trí của anh ta, anh ta cũng bị buộc phải phạm tội. Một bằng chứng
khác là sự tồn tại trên trái đất của những ǵ ngày nay được gọi là các chủng
tộc thấp hơn của con người. Sự kiện này và các sự kiện khác làm cơ sở cho
truyền thuyết về tội nguyên tổ có hậu quả đạt đến mức cao nhất t ngày. Tất
cả đều đến từ những thời điểm mà những hành giả đúng sai và do đó phải chịu
trách nhiệm. Họ không thể đứng yên mà phải đi tiếp hoặc quay lại, bằng cách
này hay cách khác. Họ phải quyết định; và họ đă đầu hàng trước sự cám dỗ của
thú vui. Bây giờ họ nhường chỗ cho cảm giác và đồng ư với mong muốn của họ.
Họ nh́n vào bóng tối hơn là nh́n vào Ánh sáng. Số phận của họ đă theo họ qua
các thời đại; nó đă khiến họ đi sâu hơn vào sai lầm cho đến bây giờ mức độ
của những hành giả trong cơ thể con người là mức độ của những hành giả việc
có giác quan; cảm xúc và ham muốn của họ bị cai trị và được kích thích bởi
cảm giác, và Ánh sáng của Trí tuệ bị che khuất trong họ. Họ lờ mờ ư thức về
những sự kiện mà họ phải chịu trách nhiệm. Đây là một trong những lư do tại
sao học thuyết về tội nguyên tổ đă t́m thấy lời đáp trong trái tim của rất
nhiều người. Nhưng nguồn gốc của câu chuyện về tội nguyên tổ là khi kẻ gây
ra trong cơ thể hoàn hảo của nó đang ở trong Cơi Thường hằng.
Ở đó, trong bài kiểm tra thử nghiệm để đưa cảm giác và mong muốn của nó vào
sự kết hợp cân bằng, nó đă thất bại. Do đó, nó đi vào thế giới sinh và tử
này, và nó định kỳ tái tồn tại trong cơ thể đàn ông hoặc trong cơ thể phụ
nữ.
PHẦN 6
Quy tắc đạo đức trong các tôn giáo.
Đơn vị mà bây giờ là Triune Self của người trong cơ thể đă từng là một đơn
vị nguyên thủy trong tự nhiên, và sau đó tiến triển qua tất cả các giai đoạn
trong một cơ thể hoàn hảo trong Vương quốc Thường hằng trước khi kẻ làm chủ
nó "ngă xuống" và trở thành một cơ thể con người trong thế giới con người
thay đổi này; nghĩa là, nó hoạt động trong tất cả các bộ phận và hệ thống
của cỗ máy đại học thiên nhiên hoàn hảo, cơ thể hoàn hảo. Do đó, nó hoạt
động liên tục như đơn vị cơ quan của từng cơ quan trong mỗi hệ thống trong
bốn hệ thống của cơ thể hoàn hảo đó; sau đó nó trở thành người quản lư liên
tiếp từng hệ thống, đồng thời hoạt động như một trong bốn giác quan; cuối
cùng đơn vị trở thành dạng hơi thở; và ở dạng hơi thở, nó quản lư bốn hệ
thống và toàn bộ cơ thể. Đơn vị dạng hơi thở trở thành aia. Cuối cùng, nhờ
sự hướng dẫn và Ánh sáng của Trí thông minh của nó, aia lần lượt trở thành
Bản thân Triune, Bản thân Triune của Trí thông minh mà trước đây là Bản thân
Triune, (H́nh II-G,
II-H). Bản thân
Triune không phải là tự nhiên, nhưng nó tiến triển thông qua và phát triển
vượt ra ngoài tự nhiên. Bản thân Triune không phải là Trí thông minh; nhưng
nó luôn nằm trong phạm vi của Trí tuệ của nó, và Ánh sáng của Trí thông minh
ở trong đó. Bốn giác quan là gốc rễ của tự nhiên trong hoặc xung quanh hành
giả bây giờ trong cơ thể con người. Thiên nhiên lấy sự nuôi dưỡng từ hành
giả trong cơ thể và hành giả lấy kinh nghiệm từ thiên nhiên. Sự trao đổi này
được thực hiện bởi tời Ánh sáng của Trí tuệ là với Bản thân Triune, không
phải với tự nhiên. Giọng nói hay sức kéo của thiên nhiên được trải nghiệm
như một cảm giác, một khao khát. hành giả phản ứng bằng cách thờ phượng và
tín ngưỡng và tạo ra cho ḿnh những vị thần ngoài tự nhiên.
|